Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm hiểu về Hoạt Phật

15 Tháng Chín 201100:00(Xem: 12356)
Tìm hiểu về Hoạt Phật

TÌM HIỂU VỀ HOẠT PHẬT
ALEXANDRA DAVID NÉEL
Huỳnh Ngọc Chiến dịch

blankblankLời người dịch: Alexandra David Néel (1868-1969) là một nhà nữ thám hiểm và nhà văn người Pháp chuyên viết về Phật giáotriết học phương Đông. Cuốn Mystiques et Magiciens du Tibet (Huyền thuật và những đạo sĩ huyền thuật Tây Tạng) của bà đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển cho tất cả những ai muốn tìm hiểu về Tây Tạng, và đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà nghiên cứu Phật giáo ở phương Tây như Alan Watts, Allen Ginsberg, Anagarika Govinda…

Không chỉ là nhà nghiên cứu, bà còn thực hành thiền quán nhiều năm tại một thạch động trên đỉnh núi Tây Tạng với một vị Lạt ma phái mũ đỏ được người dân địa phương gọi một cách tôn kính Djoo gomtchén (Đức ngài ẩn tu). Nhờ đó mà bà nổi tiếngTây Tạng như là một gomptchénma (nữ tu sĩ Lạt ma) đáng kính.

Qua ngòi bút của bà, hình ảnh Tây Tạng hiện ra trong tất cả vẻ dung tục và ảo huyền kỳ lạ. Chúng ta thử đọc một đoạn tả tiếng chuông chùa qua ngòi bút của Alexandra David Néel:

“Tiếng chuông trầm lắng ngân lên như đoạn nhạc dạo cho tiết tấu đặc biệt ở các đền thờ phương Đông. Sau một lúc yên lặng, tiếng kèn ragdong bắt đầu vang rền. Tiếp theo đó, chỉ có tiếng kèn gyaling ngân lên một hồi dài với những âm thanh mộc mạc đầy cảm xúc. Dàn nhạc lặp lại như cũ, chỉ có một chút biến tấu bằng những nốt trầm của tiếng kèn ragdong hòa theo tiếng trống định âm để mô phỏng tiếng sấm rền từ xa vọng lại.

Giai điệu thứ như một dòng sông sâu thăm thẳm trôi chảy nhẹ nhàng, vô cùng thanh thản, không một chút sóng gợn lao xao. Nó gỡ bỏ tất cả những cảm giác khốn khổ lụy phiền, tựa hồ như bao nỗi thống khổ của những kẻ lữ hành đang hành hương từ thế giới này sang thế giới khác, từ vô lượng kiếp, đều lan tỏa ra trong nỗi tiếc thương mênh mông đầy tuyệt vọng”(1).

Chỉ có một tâm hồn nghệ sĩ mới có được “cái nghe” sâu lắng dường kia qua một tiếng chuông chiều và một tiếng kèn mộc mạc. Có lẽ chỉ ở Tây Tạng người ta mới có thể lắng nghe được như thế, vì ở nơi đó bàng bạc không khí ảo huyền trong những cảnh chùa hoang liêu cô tịch, trên những sườn núi cao ngất, ẩn hiện mơ hồ trong tuyết trắng. Đó là chân trời của huyền thuật, của huyền thoại, của những hóa thân… vẫn mãi mãi lơ lửng như những huyền áng thơ mộng đối với đầu óc duy lý phương Tây, mà Alexandra David Néel là một tác giả hiếm hoi có đủ cơ duyên vượt qua để tìm đến với những phương trời bí ẩn.

Ngoài các tu sĩđịa vị cao giữ vai trò quản lý tu viện và điều phối các khoản phúc lợi, giới tăng lữ Tây Tạng còn có một tầng lớp tu sĩ quý tộc mà các thành viên trong đó được gọi là tulkou, mà người nước ngoài hay gọi một cách sai lầm là Phật sống hay Hoạt Phật (Bouddhas vivants).

Tulkou là một nét đặc thù của Lạt ma giáo, điều này khiến nó khác hẳn với mọi tông phái Phật giáo khác. Mặt khác, trong xã hội Tây Tạng, sự hiện hữu của một tầng lớp quý tộc tôn giáo đối kháng với tầng lớp quý tộc thế tục và còn lấn át cả tầng lớp này quả là một sự kiện vô cùng đặc biệt.

Thực chất của từ tulkou chưa bao giờ được các nhà văn phương Tây định nghĩa một cách chính xác, và ta có thể tin rằng họ chưa bao giờ nghi ngờ gì về điều đó.

Mặc dù sự hiện hữu của chư thần qua các hóa thân đã được chấp nhận từ rất lâu ở Tây Tạng, nhưng tầng lớp quý tộc tulkou chỉ mới thực sự phát triển, dưới hình thức hiện nay, kể từ năm 1605.

Vào thời kỳ đó, vị Lạt ma đời thứ năm của phái Mũ Vàng, tên là Lobsang Gyatso, được vua Mông Cổ phong làm người cai trị Tây Tạng, và được hoàng đế Trung Quốc công nhận. Tuy nhiên, các vinh dự đó không làm cho vị Lạt ma đầy tham vọng kia thỏa mãn. Ông tự xem mình có ngôi vị tối cao, và là hóa thân hay tulkou của Bồ tát Quan Âm (Tchénrézig), một trong những Bồ tát tối cao của Phật giáo đại thừa. Đồng thời, ông phong cho vị sư phụ, mà ông xem như cha, làm đại Lạt ma trụ trì tu viện Trachilhumpo, rồi tuyên bố rằng vị sư phụ kia là tulkou của Eupaméd (Phật A Di Đà), vị thầy tâm linh của Bồ tát Quan Âm.

Mô hình do ông vua Lạt ma này đưa ra đã tạo nên sự cổ vũ lớn lao cho việc sáng tạo thêm nhiều tulkou khác. Chẳng bao lâu, trong tất cả mọi tu viện, dù lớn hay nhỏ, đều tôn vinh vị Lạt ma trụ trì của mình là hóa thân của nhân vật nổi tiếng nào đó.

Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma - hóa thân của Đức Phật A Di Đà, để giúp bạn đọc hiểu rằng hai vị này đều không phải là hóa thân của Đức Phật lịch sử, như nhiều độc giả phương Tây lầm tưởng.

Bây giờ, chúng ta hãy xem các tín đồ Lạt ma giáo hiểu ý nghĩa của hóa thân (tulkou) như thế nào.

Thông thường, người ta hiểu tulkouhóa thân của của một vị thánh, một nhà thông thái quá cố, hoặc là hóa thân của chư thiên.

Tulkou theo cách hiểu thứ nhất được phổ biến rộng rãi nhất. Tulkou theo cách hiểu thứ hai hơi hiếm hoi và chỉ xảy ra đối với các nhân vật huyền thoại như Đạt lai Lạt ma, Ban Thiền Lạt ma, hoặc thấp hơn nữa là hóa thân của các vị thần hoàng bổn xứ như thần Pékar, thường xuất hiện trong các lần cầu đảo.

Hóa thân của chư thiên, của ma quỷ, của tiên nữ thường xuất hiện như là những vị anh hùng trong truyền thuyết, tuy nhiên lại có những người, nam lẫn nữ, thích làm hóa thân của những hung thần, ác quỷ. Phần lớn những kẻ này là các thầy phù thủy (ngagspas) tồn tại song song với giới tăng lữ.

Thỉnh thoảng ở đây đó ta lại gặp các tulkou thế tục, như trường hợp vua Ling được xem là hóa thân của con nuôi vị vua anh hùng Guézar de Ling.

Về hóa thân của các nữ thần (kandhoma), xem ra chẳng có sự khác biệt nào giữa các nữ tu và phụ nữ đã lập gia đình.

Hóa thân của tầng lớp sau cùng này không thể đặt bên cạnh hai loại hóa thân của tầng lớp tu sĩ quý tộc được. Ta có thể tin rằng nguồn gốc của nó nằm bên ngoài Lạt ma giáo, mà xuất phát từ tôn giáo cổ của Tây Tạng.

Mặc dù Phật giáo Nguyên thủy phủ nhận sự kiện có một linh hồn trường cửu đi đầu thai, và cho đó là một tà kiến nguy hiểm, nhưng phần đông Phật tử lại rơi vào tín ngưỡng cổ xưa của Ấn Độ giáo, cho rằng có một jiva (tự ngã) thường xuyênthay đổi thân xác già cỗi để lấy một thân xác mới, giống như chúng ta vất bộ quần áo cũ để mặc bộ quần áo mới” (Baghavad Gita).

Khi tulkou được xem nhưhóa thân của một vị thần hay một nhân vật thần thoại cùng tồn tại với vị thần đó, thì khái niệm về “tự ngã thay đổi thân xác” không giúp ta giải thích được gì về bản chất. Nhưng dân chúng Tây Tạng cũng chẳng quan tâm tìm hiểu gì đến điều đó, và trên thực tế, mọi tulkou, kể cả những đấng siêu phàm, đều được xem là hóa thân của tổ tiên.

Tỵ tổ của dòng dõi các tulkou thế tục có tên là Kou Kong ma. Thông thường thì ông ta là một tu sĩ Lạt ma, dù điều này không hoàn toàn bắt buộc.

Trong số những điều ngoại lệ như vậy, ta có thể viện dẫn trường hợp song thân của nhà cải cách tôn giáo Tsong Khapa. Cả hai người này đều có hóa thân trong tu viện Koum-Boum. Vị tu sĩ được xem là hóa thân của phụ thân Tsong Khapa có tên là Aghia Tsang. Ông là tu viện trưởng và người chủ sở hữu tu viện trên danh nghĩa. Khi tôi (tức A lexandra David Néel. ND) còn ở Koum-Boum thì ông ta mới chỉ là cậu nhỏ độ mười tuổi.

Mẫu thân của Tsong Khapa lại hóa thân thành một cậu con trai, mà sau này trở thành Lạt ma Tchangsa-Tsang.

Trong những trường hợp tương tự, các tulkou thế tục phải kết hợp với tầng lớp tăng lữ, trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi.

Có những trường hợp tulkou của các tiên nữ. Ở đây, cần nhấn mạnh một điểm đặc thù, đó là hiếm khi họ sống ẩn tu, mà thường là nữ tu viện trưởng của tu viện các chư Tăng chứ không phải Ni cô. Điều đó không bắt buộc họ phải điều hành tu viện. Họ sống trong các biệt điện, có các Ni côtín nữ hầu hạ. Công việc điều hành tu viện, dù là trên danh nghĩa, được giao cho Hội đồng trị sự gồm các vị Tăng được tuyển chọn.

Người nào quan sát điều này đôi khi sẽ thấy buồn cười khi mà trí tuệ và sự linh thánh lại bị mất đi một cách lạ kỳ trong quá trình hóa thân. Không khó tìm thấy một kẻ hoàn toàn ngu dốt lại được xem là hóa thân của một nhà tư tưởng lỗi lạc, hoặc một kẻ tham ăn thô lỗ lại là hóa thân của một vị ẩn tu khổ hạnh.

Sự tái sinh của các tulkou dường như không gây ngạc nhiên cho những ai tin rằng có một linh hồn đi đầu thai. Theo tín ngưỡng này, thì mỗi người trong chúng ta đều là một tulkou. “Tự ngã” đang hiện hữu trong thân xác này của chúng ta vốn đã từng hiện hữu trong qua khứ dưới một hình tướng khác. Điểm đặc biệt duy nhất mà các tulkou đem lại cho chúng ta, đó là họ đều được xem là sự tái sinh của những nhân vật lỗi lạc, họ nhớ lại tiền kiếp và, trong một số trường hợp, có khả năng chọn cha mẹ cùng địa điểm ra đời trong kiếp sau.

Các Lạt ma lại hoàn toàn không thấy có sự khác biệt giữa hóa thân của một người thế tục bình thường với một đạo sư xuất chúng. Họ cho rằng những ai không tu luyện tâm linh mà cứ sống một đời sống như loài vật, cứ để cuốn theo bản năng, thì cũng giống như một người lạc đường, không biết đi về phương nào.

Ví dụ, anh ta thấy thấp thoáng có một hồ nước ở phía Đông và cơn khát thôi thúc họ đi về hướng đó để uống. Khi đến gần, anh ta lại ngửi thấy mùi khói(2) lan tỏa, khiến anh ta tưởng có một ngôi nhà hoặc căn lều nào gần đó. Nghĩ rằng được uống trà nóng và nghỉ qua đêm ở nơi đó là điều thoải mái hơn là uống nước trong hồ, thế là anh ta bỏ mặc cái hồ trước mặt để xoay lưng lại đi về hướng Bắc có mùi thơm. Trong khi đi đường, trước mặt anh ta không hề có một ngôi nhà hay căn lều nào mà chỉ thấy xuất hiện toàn ma quỷ đe dọa khủng bố. Anh ta kinh hãi, liền quay lưng lại để chạy thật xa về hướng Nam, đến khi cảm thấy an toàn mới dừng lại. Lúc đó anh ta thấy rất nhiều kẻ lang thang như mình. Tất cả mọi người ai nấy đều ca ngợi về sự trù phú và cảnh vật xinh đẹp của vùng đất mà họ đang trên đường đi tới. Anh ta liền hân hoan gia nhập đám người đó và đi về hướng Tây. Trên đường đi, lại có nhiều biến cố khác xảy ra khiến cả đoàn người lạc hướng trước khi thấy được vùng đất hứa.

Cứ thay đổi phương hướng suốt đời như thế, kẻ điên rồ kia sẽ không bao giờ đến được một đích nào.

Cái chết đưa anh ta vào một cuộc viễn du miên tục và những thế lực đối kháng, phát sinh từ những hành động rối loạn của anh ta, sẽ bị phân tán hết. Số năng lượng(3) cần thiết để xác định sự liên tục của sinh mệnh không còn được tạo ra nữa, và do đó sẽ không hề có hóa thân.

Trái lại, người thông tuệ được ví với một du khách biết rõ mình muốn đến nơi nào và được thông báo rõ ràng về địa hình của nơi mà anh ta đã chọn làm đích đến, cũng như những con đường anh sẽ đi qua. Khi tinh thần tập trung vào lộ trình, hoàn toàn câm điếc trước mọi ảo ảnh xuất hiện trên đường đi, thì sẽ không có gì khiến người đó lìa bỏ con đường của mình được. Người đó kiểm soát được những sức mạnh phát sinh từ sự tập trung tư tưởnghoạt động của bản thân. Trên đường đi, cái chết có thể làm phân rã thân xác anh ta, nhưng năng lượng tinh thần vẫn kiên cố bất hoại. Thân xác vừa là người sáng tạo vừa là công cụ của nguồn năng lượng tinh thần này. Do kiên trì hướng tới một mục tiêu không đổi, nguồn năng lượng tinh thần này có thể tìm thấy một công cụ thể chất khác, nghĩa là một hình tướng khác, dó đó mà có sự hóa thân (tulkou).

Ở đây, chúng ta sẽ gặp nhiều quan điểm trái ngược nhau. Một số Lạt ma tin rằng sau khi chết, nguồn năng lượng tế vi của những người đã sản sinh ra nó, hoặc đã nuôi dưỡng nó - nếu người đó thuộc về dòng dõi các tulkou - sẽ hút các tố chất tinh thần về phía nó và kết tụ lại để tạo nên một sinh thể mới. Một số khác lại cho rằng nguồn năng lượng thoát ra khỏi thể xác đó sẽ kết tụ lại trong một sinh thể đã tồn tại, mà thiên hướng thể xác lẫn tâm linh của sinh thể đó - vốn đã tích tụ từ nhiều tiền kiếp - cho phép tạo nên sự kết hợp hài hòa.

Thật là vô ích khi nhắc nhở rằng bạn đọc có thể phản bác những học thuyết đó, song mục đích duy nhất của cuốn sách này(4) là trình bày quan điểm của các nhà huyền học chứ không phải tranh luận về chúng.

Tôi cũng muốn nói thêm rằng cho dù tôi có nhắc đến học thuyết nào đi nữa thì nó vẫn trùng khớp với nhiều truyền thuyết của Tây Tạng thời cổ đại, trong đó các nhân vật anh hùng có thể xác định được, bằng ý chí, bản chất của sự tái sinhsự nghiệp của họ trong các hóa thânkiếp sau.

Mặc những điều ta vừa nói về vai tròý thức nắm giữ một cách kiên trì trong việc tạo nên sự tương tục của dòng dõi tulkou, ta cần phải nhớ rằng một nhân cách mới được hình thành hoàn toàn ngẫu nhiên. Niềm tin vào tất định thuyết (déterminisme) đã ăn sâu thâm căn cố đế trong não tủy người Tây Tạng, ngay cả với những người chăn nuôi sống hoang dã trên thảo nguyên, nên họ khó lòng chấp nhận một ý tưởng như thế.

Theo nguyên nghĩa, thì thuật ngữ tulkou có nghĩa là “một hình thể được tạo ra bởi một tiến trình huyền bí”. Theo các học giả và các nhà huyền học Tây Tạng, ta phải hiểu tulkou như là hình ma bóng quế, những âm binh do phù thủy tạo ra để phục vụ cho ý đồ của họ.

Dựa vào quan điểm này, tôi xin trích dẫn lời của Đức Đạt lai Lạt ma đã giải thích cho tôi nghe.

Vào năm 1912, khi Đức Đạt lai Lạt ma lưu trú tại dãy Hy Mã Lạp sơn, tôi đã đưa ra nhiều câu hỏi liên quan đến giáo lý Lạt ma giáo. Thoạt đầu, ngài trả lời rất hùng hồn. Cuối cùng, để tránh hiểu lầm, ngài yêu cầu tôi viết ra các câu hỏi mới, nhắm vào những chỗ tôi còn lờ mờ, và ngài trả lời những câu hỏi đó bằng bút mực. Sau đây là những điều được trích dẫn từ các trang văn bản đó.

Đức Đạt lai Lạt ma nói:

Bồ tát là nền tảng để phát khởi vô lượng hình tướng thắng diệu. Sức mạnh, được tạo ra nhờ vào sự tập trung tư tưởng toàn triệt, có thể giúp cho Bồ tát đó hóa thân thành nhiều hình tướng giống nhau tại vô số quốc độ khác nhau trong cùng một thời điểm. Ngài không chỉ mang hình tướng con người, mà còn bất kỳ hình tướng nào khác, kể cả các hình thể bất động như nhà cửa, tường rào, rừng cây, đường đi, cây cầu v.v… Ngài có thể tạo ra những hiện tượng trong không khí cũng như tạo ra nước cam lồ bất tử làm dịu các cơn khát. (Câu này, ngài giải thích cho tôi hay là phải hiểu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng).

Ngài kết luận:

Trên thực tế, năng lực tạo ra các hình tướng thắng diệu của Bồ tát là vô tận”.

Giáo lý được thừa nhận bởi các học giảthẩm quyền tối cao trong Lạt ma giáo cũng tương tự như giáo lý trong kinh điển Đại thừa. Có mười hình tướng thù thắng của Bồ tát được liệt kê trong kinh điển. (Các hình tướng này có trình độ giác ngộ dưới Đức Phật).

Những điều nói về hóa thân thù thắng của Đức Phật cũng đều có thể áp dụng cho bất kỳ người nào, cho bất kỳ thiên thần hay ác quỷ nào. Chỉ có sự khác biệt duy nhất là về năng lực thần thông, và năng lực này chỉ tùy thuộc vào sức mạnh tập trung tinh thần cùng “phẩm chất” của tinh thần.

Hóa thân (tulkou) của những nhân vật huyền thoại được sùng bái riêng biệt với người sáng tạo ra họ, dù cả hai cùng tồn tại song song. Do đó, trong khi Đức Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm - sống ở Lhassa, còn Bồ tát Quan Âm thì an trú ngoài biển Nam Hải. Đức Phật Di Đà dù là hóa thân thành Ban Thiền Lạt ma nhưng lại an trú tại Tây phương Cực lạc.

Nhiều người cũng có thể tồn tại song song với con cháu thần bí của họ. Điển hình là truyền thuyết của người Tây Tạng về vua Srong-bstan Gampo, về chiến binh vĩ đại Gúezar de Ling và các nhân vật khác.

Trong thời đại chúng ta, người ta kể rằng khi Ban Thiền Lạt ma đào thoát khỏi Jigatzé, ngài đã để lại đấy một hình nhân ảo giống hệt như ngài, nói năng hành động hoàn toàn như ngài để đánh lừa những người tham kiến. Khi Đức Lạt ma đã bình yên ở bên kia biên giới thì hình nhân ảo kia biến mất.

Những nhân vật được nhắc trên đây cũng đều là những tulkou, nhưng theo tín đồ Lạt ma giáo thì điều đó không ngăn cản việc tạo ra những hình thức thần bí. Các hình thức này xuất hiện kế tiếp nhau, và cho các cấp bậc hóa thân đều có tên gọi đặc biệt(5).

Có nhiều trường hợp sau khi qua đời, người chết lại tự phân thân thành nhiều tulkou nổi tiếngxuất hiện tại cùng một thời điểm. Mặt khác, một số Lạt ma phải hóa thân thành nhiều tulkou khác nhau. Chẳng hạn, Đức Ban Thiền Lạt ma không chỉ là hóa thân của Đức Phật Di Đà mà còn là hóa thân của Trưởng lão Tu Bồ Đề, một cao đồ của Đức Phật lịch sử. Cũng vậy, Đức Đạt lai Lạt ma không chỉ là hóa thân của Bồ tát Quan Âm, mà đồng thời còn là hóa thân của Gedundop - môn đồ và là người kế thừa nhà cải cách tôn giáo Tsong Khapa.

Trước khi đi xa hơn, hẳn rất lý thú khi ta nhớ rằng giáo phái Thiên Chúa giáo nguyên thủy xem Đức Jesus như là một tulkou. Môn đồ giáo phái này cho rằng Đức Jesus bị đóng đinh không phải là người thật mà chỉ là một hình nhân ảo được tạo ra để thực hiện vai trò đó.

Một số Phật tử cũng chia sẻ ý tưởng này khi nói về Đức Phật. Theo họ thì Đức Phật vẫn ngự tại cung trời Đâu Suất, Ngài chưa hề rời nơi đó mà Ngài chỉ tạo ra một hình nhân ảo xuất hiện tại Ấn Độtrở thành Đức Phật Thích Ca lịch sử mà thôi.

Mặc dù các thuyết liên quan đến tulkou khá tinh tếmâu thuẫn trái ngược nhau này vẫn được lưu hành trong giới trí thức, song vì những mục đích thực tế các tulkou vẫn được xem nhưhóa thân thực sự từ các tiền thân trước đó và mọi thủ tục để mọi người công nhận vẫn được tiến hành phù hợp.

Khi một Lạt ma đã là tulkou thì lúc lâm chung thường báo trước địa điểm ông ta sẽ tái sinh. Đôi khi ông ta còn thông báo thêm chi tiết về cha mẹ, điều kiện sống… trong tương lai.

Thông thường thì sau khi vị Lạt ma tulkou viên tịch được hai năm, vị Tăng trụ trì cùng Hội đồng trị sự trong tu viện mới lên đường đi tìm hóa thân của ông ta.

Nếu vị Lạt ma đã mất kia để lại những lời chỉ dẫn trước khi viên tịch thì người ta theo thế mà thi hành. Nếu không, thì người ta phải nhờ đến các chiêm tinh gia hoặc thầy bói. Những người này thường phán những câu rất mơ hồ tối nghĩa về địa điểm ra đời của đứa bé cùng những dấu hiệu để nhận biết nó. Nếu đó là hóa thân của một vị Lạt ma cao cấp thì người ta phải tham khảo sấm ngôn của Hội đồng quốc gia, và lời phán quyết của hội đồng mang tính bắt buộc đối với trường hợp của Đạt lai Lạt ma hay Ban Thiền Lạt ma.

Đôi khi, đứa bé đáp ứng được lời tiên tri được tìm thấy rất nhanh. Có khi trải qua nhiều năm tháng mà vẫn không sao tìm được. Đối với các môn đồ của vị Lạt ma thì đó là nỗi buồn thê thảm. Các vị tu sĩ trong tu viện lại càng đau khổ hơn nữa, bởi vì nếu khônghóa thân của vị bổn sư thì sẽ không còn mấy ai quan tâm đến họ nữa và do đó, họ sẽ mất đi rất nhiều vật phẩm cúng dường. Tuy nhiên, trong khi các môn đồ và các trapa(6) đang khóc than đau khổ, thì vị Tăng trị sự ranh mãnh trong tu viện lại có thể ngấm ngầm hoan hỷ, vì trong thời gian chưa có vị Tăng trụ trì hợp pháp, ông ta sẽ là người toàn quyền quản lý tài sản của vị Lạt ma quá cố, và đây là cơ hội để ông ta vớ bở.

Ngay khi đã tìm được đứa bé đáp ứng tương đối đầy đủ với lời tiên đoán, thì người ta vẫn phải thẩm vấn lại với Lạt ma hóa thân này. Nếu đứa bé tuyên bố nó là hóa thân thì người ta dùng hình thức kiểm tra như sau: một đống đồ vật, gồm những đồ dùng cũ của vị Lạt ma quá cố để lẫn lộn với những đồ dùng mới, được bày ra trước mắt đứa nhỏ, và nó phải chỉ ra đúng đồ dùng ngày trước của mình.

trường hợp nhiều đứa nhỏ được đề cử vào vị trí hóa thân sau khi một vị Lạt ma qua đời. Đứa nào cũng đưa ra được những bằng chứng thuyết phục, và cùng chỉ đúng những đồ dùng ngày trước của vị Lạt ma quá cố. Cũng có trường hợp các nhà chiêm tinh và thầy bói không thống nhất ý kiến trong việc chọn lựa và chỉ ra đâu là hóa thân thực sự giữa các ứng viên khác nhau.

Những trường hợp như trên thường chỉ xảy ra đối với các tulkou vĩ đại chấp chưởng những tu viện lớn. Rất nhiều gia đình mơ ước đặt được đứa con của mình lên vị trí của vị Lạt ma trụ trì quá cố.

Cha mẹ của vị tulkou trẻ được phép sống chung trong tu viện cho đến khi đứa bé không còn cần đến sự chăm sóc của người mẹ nữa. Sau đó, một cơ ngơi cho họ được dựng lên trên đất tu viện; ngoài ra, ở bên ngoài khuôn viên tu viện, họ vẫn được cung cấp đầy đủ những vật phẩm cần dùng để có một đời sống thoải mái. Nếu tu viện không có chỗ ở cho cha mẹ vị tulkou, hoặc vị tulkou đó không phải là tu sĩ trụ trì thì họ vẫn được cung phụng đầy đủ tại quê nhà cho đến trọn đời.

Tại các tu viện lớn, đối với chức vụ trụ trì thì số lượng các tulkou có khi lên đến hàng trăm người. Những người này, ngoài những dinh thự xa hoa lộng lẫy, còn sở hữu nhiều tu viện khác tại các khu vực khác nhau, ở Tây Tạng hoặc Mông Cổ.

Trên thực tế, chỉ cần là người họ hàng bà con xa với vị tulkou thì điều đó đã đủ là mối quan hệ khiến cho bất kỳ người Tây Tạng nào cũng phải ghen tỵ rồi. Do đó đã có biết bao câu chuyện thêu dệt chung quanh người kế vị của tulkou, và giữa bộ tộc Kham hiếu chiến hoặc các bộ tộc tại biên giới phương Bắc, những cuộc tranh giành sôi nổi như thế dẫn đến những xung đột đẫm máu.

Vô số câu chuyện được đồn đãi khắp đất nước Tây Tạng liên quan đến các tulkou trẻ em, để chứng minh rằng các hóa thân chỉ là một, thông qua các hoạt động trong tiền kiếp. Trong các câu chuyện được đồn đãi đó, ta thấy có sự pha trộn giữa lòng mê tín, sự tinh quái, tính hài hước và những sự kiện kỳ quặc khó tin. Đây là điều phổ biếnTây Tạng.

Tôi có thể kể lại hàng chục câu chuyện như vậy, song tôi chỉ xin kể hai câu chuyệnliên quan với tôi đôi chút.

Bên cạnh cung điện của Lạt ma tulkou Pagyai tại Koum-Boum là cơ ngơi của một tulkou khác tên là Agnai-Tsang(7). Đã bảy năm trôi qua, kể từ khi Lạt ma Agnai-Tsang cuối cùng viên tịch và “hóa thân” của ông ta vẫn chưa được tìm ra. Tôi không tin rằng sự vắng mặt của ông ta gây đau khổ cho vị Tăng trị sự trong nhà ông. Ông này quản lý tài sản của vị Lạt ma quá cố, và của nả của bản thân ông tăng lên đáng kể.

Một ngày kia, khi quay về sau một chuyến đi buôn đường dài, vị Tăng trị sự này ghé vào một trang trại để xin nước uống và nghỉ ngơi. Trong khi bà chủ trang trại chuẩn bị trà, ông lôi từ trong tay nãi ra một ống điếu cẩn ngọc thạch để hút thuốc thì cậu bé con chủ nhà, lúc này đang chơi đùa ở góc bếp, đưa tay ngăn lại và cất giọng trách móc:

- Sao ông lại dùng cái tẩu thuốc của ta?

Vị Tăng trị sự chết sửng như bị sét đánh. Quả thực, cái tẩu thuốc quý báu kia không phải của ông, mà của sư phụ ông là vị Lạt ma Agnai-Tsang quá cố. Thực ra, ông cũng không hề có ý định lấy cắp, mà vì nó có sẵn đó nên ông cứ lấy mà dùng hết ngày này qua ngày khác.

Vị Tăng trị sự đứng sững đó, bụng dạ rối bời, trong khi đó cậu bé nghiêm nghị nhìn ông với vẻ hăm dọa, không còn gì là nét mặt trẻ con nữa. Nó nói như ra lệnh:

- Hãy trả ngay cái tẩu thuốc cho ta.

Lòng tràn ngập ăn năn, và hoang mang tột độ, vị Tăng trị sự mê tín kia liền quỳ mọp trước mặt vị sư phụ hóa thân của mình.

Vài ngày sau, tôi thấy cậu bé được đám đông rước về tu viện. Cậu ta mặc chiếc áo brocart màu vàng và cưỡi con ngựa ô nhỏ rất đẹp, vị Tăng trị sự nắm cương dắt ngựa.

Khi đám rước về đến cổng nhà, cậu bé lên tiếng hỏi:

- Sao chúng ta lại đi bên trái để vào sân giữa? Cánh cửa ở bên phải cơ mà!

Sau khi vị Lạt ma viên tịch, vì một vài lý do nào đó, người ta bít cánh cửa cũ ở bên phải, và trổ một cánh cửa khác.

Các tu sĩ hân hoan vì bằng chứng mới này, vì điều đó càng xác nhận cậu bé đúng là vị sư phụ cũ của họ. Cậu bé được đưa vào phòng riêng để dùng trà.

Cậu bé ngồi tựa vào đống gối chăn cao nghệu, đưa mắt nhìn cái bát ngọc thạch trên cái đĩa hồng ngọc với nắp đậy bằng ngọc lam được bày ra trước mặt cậu.

- Hãy đưa cho ta cái bát sứ - cậu ta ra lệnh, rồi mô tả tỉ mỉ cái bát sứ Trung Quốc với những hoa văn trên đó.

Không một ai thấy cái bát đó bao giờ. Vị Tăng trị sự và các tu sĩ khác trịnh trọng thuyết phục vị Lạt ma trẻ kia là không hề có cái bát như thế trong ngôi nhà này.

Đúng vào lúc đó, tôi được vị Tăng trị sự cho phép bước vào phòng. Tôi biết câu chuyện cái tẩu thuốc và tò mò muốn nhìn kỹ cậu bé hàng xóm của mình.

Theo tục lệ Tây Tạng, tôi tặng cậu ta một tấm lụa và một vài món quà. Cậu ta tươi cười đón nhận rất lịch sự, nhưng vẻ mặt vẫn đăm chiêu, vì còn mải nghĩ đến cái bát sứ kia.

- Các ông tìm kỹ lại đi, thế nào cũng tìm thấy mà - cậu bé khẳng định.

Thình lình, như có một tia chớp lóe qua trí nhớ, cậu ta mô tả cụ thể cái tủ màu gì, đặt ở góc nào trong một căn phòng chỉ chứa những đồ vật rất ít khi dùng tới.

Các tu sĩ nói qua loa cho tôi nghe mọi việc vừa diễn ra, và tôi có mặt ở phòng vị tulkou vì muốn biết câu chuyện sẽ đi đến đâu.

Không đầy ba mươi phút sau, cái bát sứ với đĩa và nắp đậy đã được tìm thấy trong cái hộp nằm ở đáy rương, giống như cái bát mà cậu bé mô tả.

Sau này, vị Tăng trị sự khẳng định với tôi:

- Tôi đã quên bẵng cái bát đó. Vị bổn sư tulkou của tôi có lẽ đã đặt trong nó trong cái rương không chứa đồ dùng quý giá, và nhiều năm rồi chẳng ai mở cái rương đó ra.

Tôi cũng chứng kiến cảnh tìm được tulkou trong một trường hợp còn hấp dẫn hơn câu chuyện trên đây nhiều. Sự việc xảy ra trong một quán trọ nghèo ở một ngôi làng nhỏ không xa vùng Ansi (trong sa mạc Gobi).

Ở vùng này, những con đường mòn dẫn từ Mông Cổ đến Tây Tạng, băng qua một con đường rất dài từ Bắc Kinh đến Nga, gần như xuyên suốt cả lục địa. Do vậy, tôi chẳng ngạc nhiên gì khi đến một quán trọ vào lúc hoàng hôn, lại thấy quán đông nghịt những người của một đoàn lữ hành Mông Cổ.

Các du khách đều lộ vẻ rất kích động, tựa hồ như có một điều kỳ lạ gì đấy vừa mới xảy ra. Lúc nào cũng vậy, với tính lịch sự quen thuộc, một phần cũng nhờ bộ pháp phục mà tôi và Yongden đang mặc trên người, đám người Mông Cổ nhường cho đoàn chúng tôi một phòng và cho ngựa của chúng tôi vào chuồng.

Trong khi tôi và con trai đang thong thả ngắm những con lạc đà ngủ ngoài sân, thì một cánh cửa phòng hé mở và một thanh niên to lớn dáng vẻ khả ái, ăn mặc tuềnh toàng bước vào. Anh ta đứng nơi bậc cửa, hỏi chúng tôi có phải là người Tây Tạng không. Chúng tôi trả lời với giọng quả quyết.

Một vị Lạt ma già, mà chúng tôi đoán là trưởng đoàn, lập tức xuất hiện sau lưng anh ta và nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng Tây Tạng.

Như thường lệ, trong những buổi gặp gỡ như thế này, chúng tôi trao đổi với nhau những câu nói mang tính xã giao, cho biết mình từ đâu tới và định đi đâu.

Vị Lạt ma cho chúng tôi biết ông định đi Lhassa qua lối Soutchou, nhưng chuyến đi đã trở nên vô ích nên ông ta sẽ quay về Mông Cổ. Những người tùy tòng ngồi ngoài sân tán đồng lời này bằng cách gục đầu với vẻ chăm chú lắng nghe.

Tôi tự hỏi điều gì có thể khiến cho vị Lạt ma thay đổi ý định, song ông ta đã lui về phòng. Tôi thấy năn nỉ ông ta giải thích là điều mất lịch sự nên thôi.

 Tuy nhiên, đến chiều tối, khi những người Mông Cổ tìm hiểu chúng tôi qua những người trong đoàn, thì họ mời chúng tôi đến uống trà và tôi được nghe đầu đuôi câu chuyện.

Chàng trai trẻ kia quê ở Ngari, một tỉnh cách đây rất xa, ở mạn Đông nam Tây Tạng. Anh ta dường như có khả năng ngoại cảm. Nếu ở phương Tây thì người ta có thể mô tả điều này, nhưng chúng tôi đang ở châu Á.

Ngay từ thời thơ ấu, Migyur - tên chàng trai nọ - luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng kỳ quặc rằng quê anh ta không phải ở nơi mà lẽ ra anh ta phải ở. Anh ta cảm thấy mình là kẻ xa lạ ngay trong quê hương làng mạc của mình, trong gia đình mình. Trong giấc mơ, anh thấy những xứ sở không có ở Ngari: những vùng hoang mạc, những túp lều tròn bằng dạ, ngôi chùa nhỏ trên đồi. Ngay cả khi tỉnh giấc, những hình ảnh đó vẫn xuất hiện trong anh, tạo ấn tượng lên những sự vật chung quanh, che phủ lên chúng và thường xuyên tạo ra chung quanh anh ta một ảo ảnh.

Khi chưa đầy mười bốn tuổi, anh ta bỏ nhà trốn đi, vì không thể cưỡng lại niềm khao khát muốn tìm đến được vùng đất xuất hiện trong mơ. Kể từ đó, anh ta đi lông bông khắp đó đây, làm việc buổi đực buổi cái để sống qua ngày, chủ yếu là ăn xin, không ở nơi nào cố định. Lúc này, anh ta lang thang đến đây từ vùng Aric, ở phương Bắc với những thảo nguyên bao la.

Theo thói quen, anh ta cứ bước đi không mục đích, cho đến khi anh ta tới trước quán trọ nơi đoàn người Mông Cổ cắm trại, trước khi chúng tôi đến độ vài giờ. Thoạt trông thấy những con lạc đà ngoài sân, không hiểu sao anh ta liền lao qua cổng, đến đứng trước mặt vị Lạt ma. Rồi như một tia chớp, những sự kiện trong quá khứ lóe lên trong trí nhớ anh.

Anh ta nhớ lại đã sống với vị Lạt ma kia khi còn trai trẻ, là môn đồ của anh ta, còn bản thân anh ta là một Lạt ma già nua. Cả hai đều rong ruổi trên cùng một con đường, trở về từ một chuyến hành hương dài giữa miền đất Tây Tạng linh thánh và quay về lại ngôi chùa trên ngọn đồi ở chốn quê nhà.

Anh ta nhắc lại cho vị Lạt ma trưởng đoàn nhớ tất cả những điều này với những chi tiết rất nhỏ về đời sống của họ trong một ngôi chùa xa xôi, và thêm biết bao điều riêng tư khác.

Chắc chắn, mục đích của những người Mông Cổ trong chuyến đi này là cầu xin Đức Đạt lai Lạt ma bày cho họ cách tìm lại tulkou của vị Lạt ma trụ trì ngôi chùa, mà vị trí vẫn còn để trống gần hai mươi năm, vì bao năm qua họ đã nỗ lực tìm kiếm hóa thân của ông nhưng vẫn hoài công vô ích.

Những con người mê tín này gần như tin rằng, bằng quyền lực toàn năng, Đức Đạt lai Lạt ma đã biết được ý định của họ, bằng tấm lòng đại bi, ngài đã khiến cho họ gặp được hóa thân của vị thầy quá cố.

Kẻ lang thang xứ Ngari ngay lập tức phải trải qua cuộc kiểm tra như thường lệ, và từ cái tay nãi, trong đó để lẫn lộn nhiều thứ, anh ta không ngần ngại rút ra ngay những đồ dùng của vị Lạt ma quá cố một cách chính xác.

Đoàn người Mông Cổ không còn nghi ngờ gì nữa về tính xác thực của vị tulkou mà họ vừa tìm thấy.

Sáng hôm sau, tôi nhìn theo đoàn lữ hành đi xa dần với những bước chân lạc đà chậm chạp, và khuất dạng cuối chân trời giữa sa mạc Gobi. Vị tulkou mới đã đi theo số phận kỳ lạ của mình. n

 

(*) Bản dịch được thực hiện theo nguyên tác tiếng Pháp “Mystiques et Magiciens du Tibet” (NXB PLON, 1929), mục “Les Bouddhas vivants”, chương 3, các trang 116-131. (ND)

(1) (La mélodie, en mineur, coulait unie comme les eaux d’un fleuve profond, sans heurt, sans éclat, sans accents de passion. Il s’en dégageait une impression de détresse inéluctable, comme si toute la douleur des êtres pérégrinant de monde en monde, depuis le commencement des âges, s’y fût exhalée en une lamentation infiniment lasse et désespérée (Mystiques et Magiciens du Tibet , 57).

(2) Tu sĩ Lạt ma đưa ra so sánh này đã giải thích đó là “mùi lửa”. Những du khách Tây Tạng khi băng ngang qua những ngọn núi cao hoặc thảo nguyên ở phương Bắc thường hay thấy thấp thoáng có mùi lửa lan tỏa trong không khí, dù nó không được tạo ra từ lửa thật.

(3) Người Tây Tạng thường nhắc đến dạng năng lượng này và gọi tên là Chougs hoặc Tsal. (D.Neel)

(4) Tức là cuốn MYSTIQUES ET MAGICIENS DU TIBET (ND).

(5) Yang tulkou xuất phát từ tulkou và gsam tulkou xuất phát từ “tulkou của tulkou".

(6) Các tác giả nước ngoài dùng từ Lạt ma (lama) để gọi chung các tu sĩ Lạt ma giáo mà không có phân biệt gì hết. Ở Tây Tạng thì lại khác. Chỉ những vị có chức sắc trong Giáo hội mới được gọi là Lạt ma, như: các vị Hoạt Phật, những vị trụ trì các tu viện lớn, hoặc những tu sĩ đã tốt nghiệp đại học. Còn những tu sĩ khác, dù đã được thụ phong (gọi là gelong) cũng chỉ là những trapa, nghĩa là các sa di. Theo phong tục thì người ta luôn luôn dùng từ Lạt ma để xưng hô với các tu sĩ cao niên hoặc uyên bác.

(7) Bạn đọc đừng lẫn lộn với Aghia-Tsang, vị đại Lạt ma tulkou đã được nhắc tới trong các trang trước.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31645)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11222)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12745)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10805)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16651)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10811)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22964)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12019)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11490)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10682)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12334)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11192)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10010)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10326)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11906)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10695)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12371)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9803)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11268)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13838)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12623)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9696)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10455)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10548)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9898)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11050)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12007)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10140)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9541)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9895)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9495)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8776)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12550)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10414)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9082)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10557)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9333)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8796)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10508)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9191)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8355)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12016)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9695)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10225)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19131)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9406)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8977)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9586)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14742)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10084)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8347)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8947)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8974)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8736)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9367)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14593)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9033)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8759)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9034)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10529)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8638)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9989)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24279)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10165)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11015)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8993)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8001)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9263)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15348)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10336)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9568)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17438)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21390)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12158)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10232)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19236)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26036)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7974)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14776)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10630)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11347)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9530)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18673)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12345)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11875)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10740)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13340)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9986)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9265)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9369)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15887)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant