Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý hình tượng Khổng Tước Minh Vương và Đàn Thành trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

29 Tháng Chín 201100:00(Xem: 14806)
Lược ý hình tượng Khổng Tước Minh Vương và Đàn Thành trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

LƯỢC Ý HÌNH TƯỢNG
KHỔNG TƯỚC MINH VƯƠNG và ĐÀN THÀNH
trong Đông Mật Phật Giáo Bắc Truyền

Thích Tâm Mãn

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương là một trong những đàn thành nổi tiếng linh hiển nhất của Đông Mật, được rất nhiều Triều Đình và dân chúng các nước Đông Phương dùng vào trong các pháp hội đàn tràng Hộ Quốc, tiêu tai, cầu mưa, trừ ôn dịch, cầu bình an tăng phước thọ, tiêu bịnh tật.v.v...

blank

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương có nguồn gốc từ Mật Giáo Ấn Độ, Kinh Khổng Tước Minh Vương Chú được truyền vào rất sớm ở phương Đông. Đến đời Đường, Mật Giáo thịnh hành, Ngài Bất Không Tam Tạng dịch bộ “Khổng Tước Minh Vương Họa Tượng Đàn Trường Nghi Quỹ”, và từ đây đàn thành của Mật Giáo tu trì Khổng Tước Minh Vương được thiết lập.

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội, còn là nơi tu trì của các hành giả Mật Giáo, hành giả trụ trong đàn thành, trì tụng thần chú “Khổng Tước Minh Vương” và được sự gia trì của chư Phật, Bồ Tát, Thinh Văn, Thiên chúng trong đàn thành, nhân đó hành giảthể đạt được đại tự tại tâm, thành tựu hết thảy nguyện lực, thành tựu đạo Bồ Đề, để phổ độ chúng sanh.

Hành giả Tu Pháp Khổng Tước Minh Vương, có thể nương vào pháp lực của Khổng Tước Mimh Vương ứng hiện trong đàn thành, thể nhập vào Tam thân, tu pháp xuất thế gian, diệt trừ tham, sân, si, mạn, nghi trong tự tâm của chính mình, đạt đến đại an lạc, không còn bị các nghiệp chướng phiền não làm tổn hại nữa, từ đó chứng được viên mãn trí huệ, giác ngộ, từ bi và nhanh chóng đạt đến quả vị Vô thượng Bồ đề.

Trong các pháp hội đàn thành, tu trì quyền đảnh của Mật Giáo, tùy theo tôn tượng được tôn trí trong đàn thành, để theo nghi quỹ mật pháp của Bổn Tôn mà tu trì, nếu như trong đàn thành, tôn thánh tượng Khổng Tước Minh Vương làm đàn chủ, thì phải quy y theo pháp của Ngài để tu trì, vậy nên pháp của đàn thành này, được xưng là Khổng Tước Minh Vương Kinh Pháp hoặc là Khổng Tước Kinh Pháp, còn đàn thành được gọi là Khổng Tước Minh Vương Đàn Thành, đây là một trong tứ đại Pháp và Đàn Thành của Mật Giáo.

Khổng Tước Minh Vương, tiếng Phạm xưng là Maha-mayura-vidi-rajni, phiên âm là Ma Ha Ma Du Lợi Du La Diêm, dịch là Phật Mẫu Khổng Tước Minh Vương. Theo truyền thuyết Khổng Tước Minh Vương là lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na và Đức Phât Thích Ca, là hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Mật Giáo tôn xưng là Kim Cang Phật Mẫu hoặc là Hộ Thế Kim Cang.

Căn cứ theo Kinh Khổng Tước Minh Vương chép: “Một thuở nọ, Đức Phật tại thế, có một vị Tỳ Kheo bị rắn độc cắn, đau đớn không thể chịu được. Bấy giờ ngài A Nan đem việc này bạch với Phật. Phật bèn nói một câu thần chú, có thể trừ diệt những sự đau khổ chướng ngại, quỷ mị, độc hại, ác tật… bài chú này là Khổng Tước Minh Vương Chú”. 

Ngoài ra trong Kinh còn chép về chuyện Đức Phật dạy về tiền kiếp của Ngài khi hành Bồ Tát đạo có một kiếp Ngài là Khổng Tước: “vào thời rất xa xưa ở trong núi tuyết có con chim Khổng Tước lông màu vàng kim, thường ngày thanh tịnh trì tụng bài chú này rất là siêng năng tinh tấn, vì vậy luôn luôn được thần chú bảo hộ bình yên an ổn, không ai có thể săn bắt nó được.

Một hôm Khổng Tướctham mê ái dục, cùng với rất nhiều con chim khổng tước mái đi dạo chơi ở một khu rừng núi rất xa, mãi vui chơi nên Khổng Tước quên mất trì chú, vì vậy mà bị thợ săn bắt được, lúc bị bắthồi phục được chánh niệm, liền trì tụng thần chú, cuối cùng thì thoát khỏi được sự vây bắt của thợ săn, được tự do bay về núi của mình...”. Đây là điển tích do Đức Phật khai thị để cho chúng ta biết sự có mặt của Khổng Tước Minh Vươngthần chú Khổng Tước Minh Vương Đà La Ni.

blank

Khổng Tước Minh Vương được dự vào hàng đại thánh của Mật Giáo, có rất nhiều truyền thuyết. Chuyện xưa kể rằng, Khổng Tước Minh Vương vốn là con Khổng Tước đầu tiên của thời khai thiên lập địa, qua suốt mấy ngàn năm ngày đêm tu hành khổ luyện thành tựu phép Ngũ sắc thần quang, sau đó được Ngài Chuẩn Đề Bồ Tát hóa độ, Khổng Tước phát nguyện theo Bồ Tát Chuẩn Đề tu hành và làm bảo tọa cho Ngài ngồi, để đền đáp công ơn hóa độ.

Khổng Tước Minh Vương được xưng là Phật Mẫu, Truyền thuyết Mật Giáo kể rằng, khi Đức Phật Thích Ca đắc đạo, Khổng Tước nuốt Đức Phật vào trong bụng, sau đó lưng của Khổng Tước Minh Vương nứt ra, Đức Phật Thích Ca hiện ra ngồi trên lưng của Khổng Tước, vết nứt liền lại, vì vậy Khổng Tước được xưng là Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát.

Bảo tướng của Khổng Tước Minh Minh Vương trong Mật Giáo, thường hiện thân một vị Bồ Tát có bốn tay, ngồi trên lưng của con chim Khổng Tước (con Công) vì vậy nên gọi là Khổng Tước Minh Vương, gọi đủ theo Minh Vương bộ của Mật GiáoPhật Mẫu Đại Kim Cang Diệu Khổng Tước Minh Vương.

Hình Tượng của Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, trong bốn tay của Bồ Tát có trì bốn pháp bảo gồm có, Liên hoa, Cụ duyên quả, Cát tường quả, Lông chim Khổng Tước. “Liên hoa” tượng trưng cho kính ái, “Cụ duyên quả” tượng trưng cho sự điều phục, “Cát tường quả” tượng trưng cho sự tăng ích lợi, “lông chim Khổng Tước” tượng trưng cho sự trừ tai ách, diệt khổ nạn.

Tượng Bồ Tát Khổng Tước còn một thân tướng nữa, thường được tôn trí trong Đàn thành Thai Tạng Giáo, Mạn Đà La. Trong Đàn Thành Mạn Đà La, Bổn tôn Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát là lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, nên nhiếp thọcụ túc hai đức từ bitrí tuệ, Tôn tượng Bồ Tát thường ngồi trên hai loại tòa hoa sen, nếu là ngồi trên hoa sen trắng tức biểu thị cho cho sự nhiếp thu bổn thệ từ bi, ngồi trên hoa sen xanh, là biểu thị ý tướng hàng phục.

Trong Tô Tất Địa Viện của Thai Tạng Giới Mạn Đà La, Bổn tôn Khổng Tước Minh Vương là vị Bồ Tát thứ 6, hình tướng của Bồ Tát trong nội viện này, thân chỉ có hai tay, trì liên hoa và lông chim Khổng Tước, ngồi hoa sen màu đỏ, xưng là Phật Mẫu Kim Cang Tam Muội Da Hình Khổng Tước Vũ. 

Kinh điển nói về Khổng Tước Minh Vương, hiện nay trong Đại Tạng Kinh của Phật Giáo có lưu tạng “Kinh Khổng Tước Minh Vương Chú” gồm có 6 bộ.

1. Bộ “Khổng Tước Vương Chú Kinh”: một quyển, do Ngài Cưu Ma La Thập dịch

2. Bộ “Kim Sắc Khổng Tước Minh Vương Kinh Chú Kinh”: không có tên người dịch

3. Bộ “Phật Thuyết Đại Kim Sắc Khổng Tước Minh Vương Chú Kinh”: không có tên người dịch

4. Bộ “Khổng Tước Vương Chú Kinh”: do ngài Tăng Dà Bà La dịch có hai quyển.

5. Bộ “Phật Thuyết Đại Khổng Tước Vương Chú Kinh”: do ngài Nghĩa Tịnh dịch có ba quyển.

6. Bộ “Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh”: do ngài Bất Không dịch có ba quyển.

blank

Đàn Thành Khổng Tước Minh Vương được thiết trí theo “Kinh Khổng Tước Minh Vương Họa Tượng Đàn Trường Nghi Quỹ” do Ngài Bất Không Tam Tạng Tổ của Đông Độ Mật Giáo đời Đường dịch. Trong đàn thành gồm có ba Đàn Thành.

Đàn Thành thứ nhất: Nội viện Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, Bát diệp liên hoa mạn đà la, Nội viện của Phật Bồ Tát, Bích Chi Phật, Nội Viện của Thanh Văn La Hán. Chư Phật Bồ Tát được an trí trong Đàn thành Khổng Tước Minh Vương gồm có, Thất Phật quá khứ, Bồ Tát Di Lặc, mười hai vị Duyên Giác đại vị cho chư Duyên Giác, 18 vị La Hán đại vị cho chư Thanh Văn, bên dưới chính giữa, an trí tại trung ương đàn thành là bảo tượng Khổng Tước Minh Vương bằng tranh vẽ hay là tượng hoặc giả an trí một chiếc lông Khổng Tước

Đại Khổng Tước Minh Vươngthân tướng lưu lại của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, để độ chúng hữu tình, là thân tướng tối thắng nhất của tất cả các thân tướng, cho nên vị trí đặt ở trung ương, cũng giống như đàn thành Ngũ Phật, Đức Tỳ Lô Giá Na được tôn trí tại Trung ương, trong Đàn Thành này Khổng Tước Minh VươngPháp chủ cho nên vị trí tôn trung ương đàn thành.

Đàn Thành thứ hai gồm có tám phương Thiên Vương và chư quyến thuộc.

1. Đông Phương Đế Thích Thiênchư Thiên chúng vây quanh.

2. Đông Nam phương Hỏa Thiênchư Tiên ngũ thông khổ hạnh vây quanh.

3. Nam phương Diệm ma Thiên Vương và Diêm ma giới, các loài quỷ chúng vây quanh.

4. Tây Nam phương La Sát Vương và chúng quỷ la sát vây quanh.

5. Tây phương Thủy Thiên và các vị Rồng vây quanh.

6. Tây Bắc phương Phong Thiên Vương và chư tiên nhân Trì Minh vây quanh.

7. Bắc phương Đa Văn Thiên Vương cùng các chúng Dạ Xoa vây quanh.

8. Đông Bắc phương Y Xá Na Thiên cùng các bộ đa quỷ chúng vây quanh.

Chư Thiên, chư Tiên, Thiên tướng, thiên cung chư vị thiện thần, vây quanh Đàn Thành. Tám vị Thiên Vương đại vị cho chư Thiên, 28 vị Dạ Xoa đại vị cho chư Thần tướng, Cửu Diệu tinh tọa đại vị Thiên chúng, 12 Cung đại vị cho hết thảy Thiên ty, Thiên sở, nội ngoại Thiên cung. Nếu như không cụ túc các tượng pháp để an trí trong đàn thì cần phải dùng bài vị giấy để ghi tên của tất cả những vị không đủ thần tượng, cũng như chư vị quyến thuộc của Khổng Tước Minh Vương, tôn trí lên đàn như đã quy định, thì đàn thành mới cụ túc phước duyên thần lực.

Đàn Thành thứ ba là vòng thành ngoài cùng của đàn thành từ phía Đông Bắc vòng một vòng theo tay phải, tôn trí tượng 28 vị Dược Xoa Đại Tướng, và các quỉ chúng vây quanh.

Đàn thành tôn trí nhiều tượng Phật, Bồ Tát, Thánh chúngnhân duyên thể hiện tánh của “Chư Phật Hải Hội” để chúng hội quy y Tam Bảo, theo tâm pháp của Mật Giáo, quy y một vị Phật tức là quy y vô lượng chư Phật. Quy y Khổng Tước Minh Vương tức là quy y Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, quy y Đức Phật A Di Đà, quy y Đức Phật Thích Ca, quy y vô lượng Chư Phật.

Đàn thành Khổng Tước Minh Vương là nơi để hành giả làm Pháp quán đảnh, quy y, cho nên phải cụ túc chư Phật, Bồ TátThiên Thần. Pháp hội Khổng Tước Minh Vương gồm có bốn pháp quy y. Pháp thứ nhất quy y Truyền Pháp Thượng Sư, Pháp thứ hai Quy y Phật tức là quy y Đại Khổng Tước Minh Vương Phật. Pháp thứ ba là quy y Kinh Khổng Tước Minh Vương, pháp thứ tư quy y Tăng, quy y hết thảy quyến thuộc Khổng Tước Minh Vương.

Tâm niệm “Sát sát trần trần Hoa Tạng Giới”, nếu như một vị Phật giải chưa hết các định nghiệp, thì công đức của nhiều vị Phật, Bồ tát, Thánh chúng, sẽ hợp thành sức mạnh “Đại quang minh tạng”, thì sẽ không có nghiệp lực, định nghiệp nào mà không thể không tiêu trừ, không thể không giải hết, cũng ví như xưa kia Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên dùng pháp môn cúng dường đại Tăng, nhờ thần lực của đại Tăng cứu mẹ không khác.

blank

Hết thảy thần tướng Thiên vương trong đàn thành đều là hóa thân của Khổng Tước Minh Vương. Bồ Tát nương theo tinh thầnthệ nguyện của Kinh A Di Đà, có đoạn trong Kinh A Di Đà nói về thế giới Cực Lạcvô số các loại chim báu thuyết pháp, trong số các loại thánh điểu do Đức Phật Di Đà biến hóa ra, để nói pháp độ sanh, trong đó có chim Khổng Tước, vì vậy Đức Khổng Tước Minh Vươnghóa thân của Đức Di Đà, cho nên Ngài cụ túc tánh Vô Lượng Quang, Vô Lượng thọ, Vô lượng Công đức, nên Đàn Thành của Ngài cũng là cảnh Giới Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh. Chính vì vậycông năng và đức lực chuyển hóa hết thảy ác nghiệp, thành tựu hết thảy công đức.

Khổng Tước Minh Vương còn là Thọ dụng thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong thuở quá khứ, khi Đức Phật hành Bồ Tát Đạo có một kiếp Ngài là Khổng Tước, vậy nên Khổng Tước Minh Vương cụ túc tánh, Thọ dụng thân của Đức Thích Ca, Đức Phật Thích Ca lại là Giáo chủ cõi Ta Bà, vậy nên Khổng Tước Minh Vương rất có duyên với chúng sanhcõi Ta Bà.

Khổng Tước Minh Vương là Lưu thân của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, là Hóa thân của Đức Phật A Di Đà, lại là Thọ dụng thân của Đức Phật Thích Ca, cho nên thiết lập Đàn Thành tu trì Pháp Khổng Tước Minh Vương, là tập hợp tương ưng hết thảy oai đức, phước báu, thần lực của ba vị Phật và vô lượng Chư Phật, để làm năng lượng chuyển hóa nghiệp lực, thành tựu hết thảy các thắng duyêncông đức.

Hành giả kiến đàn thành tu trì Pháp Khổng Tước Minh Vương, nên dùng pháp tương ưng của tam thân PhậtPháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân, thể nhập dung hòa vào tự tánh của ba nghiệp của chính mình, tạo thành tam oai đức: Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi. Dùng phước báo, nguyện lực, oai đức của Tam thân chuyển hóa ba nghiệp thành Giới Định Huệ, nhân “Giới” nên Thân thường thanh tịnh, chứng Vô thượng đạo, nhân “Định” nên Khẩu thường thanh tịnh, chứng Vô thượng đạo, nhân “Huệ” nên Ý thường thanh tịnh chứng Vô thượng đạo. Tam thân cụ túc, Tam mật tương ưng.

Người hành trì nếu có thể tương ưng như vậy, thì tự thân có thể nhập được vào thể tánh của Đại Khổng Tước Minh Vương, cụ túc thần lực gia trì cho tự thân, đồng thời có thể gia trì cho chúng sanh, chuyển hết các nghiệp ác thành đại an lạc, chuyển hết các khổ đau thành đại hoan hỷ, chuyển hết các bịnh khổ thành đại an khang, tất cả các nghiệp lực đều có thể nương đây mà tiêu trừ, tất cả các oan khiên đều từ Đàn Thành này mà được giải kết.

Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát, Pháp tu và Đàn Thành của Ngài, là Pháp tối thắng nhất đối với các hành giả tu trì Mật Tông, là phương tiện cứu độ, giải trừ tai ách khổ nạn, tứ phước an lạc với tất cả những tín chúng có nhân duyên với Mật Giáo, là cầu nối của Chư Phật, Bồ Tát, Thánh chúng với chúng sanh, là sự thể nhập vi diệu nhất của Tam Thân vào trong Tam mật, của Hóa Thân vào Ứngng Thân, của trần gian vào cỏi Thánh “Diệu Nhập Tam Ma Địa”, nguyện Phật Pháp trường tồn, chúng sanh an lạc, Bồ Tát Khổng Tước Minh Vương trụ thế ứng hiện chân thân, phổ độ chúng hữu tình, miễn tai giải ách, an lạc tự tại, đất nước hưng thạnh, thiên hạ thái bình, phong điều vũ thuận.

Nam mô Đại Khổng Tước Minh Vương Phật Mẫu Bồ Tát Ma Ha Tát

Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com - www.minhthanhtu.com - Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú - Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14401)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14124)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39665)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15280)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13824)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13890)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37279)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40010)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14609)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14295)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12628)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14803)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19193)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13773)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42577)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13804)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37199)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12642)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11736)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22513)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12472)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12531)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13007)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13076)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17231)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33174)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 11017)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12413)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11928)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11905)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13102)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51189)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12353)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6583)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30368)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13097)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13288)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30634)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19314)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12463)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11815)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14739)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13170)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13166)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30636)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12004)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11803)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12690)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31835)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29355)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11763)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11708)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10393)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11524)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9601)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9618)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9917)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35362)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10121)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10070)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10017)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9616)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27767)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15452)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9819)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13640)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9818)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9664)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18272)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12022)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9535)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9654)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8672)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8882)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8377)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11436)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31664)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12304)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13282)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8794)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9404)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11900)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9188)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9043)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9632)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29299)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9044)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9061)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33188)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8405)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30546)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31174)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37016)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32212)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9892)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27009)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8399)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19200)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12978)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9736)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant