Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật giáo tịnh độ - Đạo của đức tin

29 Tháng Chín 201100:00(Xem: 33146)
Phật giáo tịnh độ - Đạo của đức tin

PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ - ĐẠO CỦA ĐỨC TIN 

Người dịch: Thích Nguyên Đăng

Để hiểu phật giáo tịnh độ, cần có một kiến thúc tương đối về phật học:

Công đứcchuyển hoá công đức. Có những lợi ích bất nguồn từ sự tu tập từ bitrí huệ; những sự thực hành này gồm trì giới, yếu tố tối cần thiết cho sự giác ngộ của mỗi chúng sanh. Những lợi ích đó, hay công đức, có thể được tích luỹ và sau đó chuyển đến cho mỗi hay tất cả chúng sanh với tâm nguyện hết thảy chúng sanh đều được lợi lạc.

Các vị Phật khác. Đức Phật Thích ca Mâu Ni, vị Phật lịch sử của chúng ta, không phải là vị Phật duy nhất xuất hiệnthế gian. Thật ra, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh để thành tựu giác ngộ viên mãn. Ngoài đức Phật Thích Ca, một trong số các vị Phật được biết đến trong truyền thống Phật giáoPhật Di Lặc, ngài sẽ xuất hiệnthành Phậtthế giới Ta bà của chúng ta

Cõi Phật hay Phật Quốc. Chư Phật cảm hoá thế gian bằng sự chuyển pháp luântinh thần trắc ẩn. Đức Thích Cagiáo chủ thế giới ta bà của chúng ta. Nên hiểu Phật Quốc theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Quan hệ giữa Bồ Tát và Phật. Bồ tátvị giác ngộ đang trên lộ trình đến Niết Bàn, nơi không còn khổ đau, cảnh giới an lạc tối thượng. Chư Bồ tát không chỉ tầm cầu giác ngộ cho tự thân, mà còn tìm giác ngộ cho tất cả hữu tình. Một khi đã thành tựu quả vị Bồ tát, vị Bồ tát sẽ được Phật dìu dắt, như Phật Thích Ca được Phật Nhiên Đăng thọ ký , và rồi Phật Thích Ca sẽ thọ ký cho ngài Di Lặc thành Phật

Nguồn gốc tịnh độ 

Theo lời dạy của đức Phật Thích Ca, Cõi Cực Lạc (Vô lượng Quang hay Vô lượng Thọ, cũng được biết đến bằng Amitayus ) do đức Phật A Di Đà làm giáo chủ, là cảnh giới hoàn toàn không có chướng ngại cho sự giác ngộ. Thế giới này, hay tịnh độ, là do công đức tu tập trong vô lượng A tăng kỳ kiếp của Bồ tát Pháp Tạng (Dharmakara) trước khi thành Phật hiệu A Di Đà. Bồ tát Pháp Tạng nguyện rằng khi ngài thành tựu chánh đẳng giác, thế giới do ngài làm giáo chủ sẽ gồm hết thảy những thứ tốt đẹp nhất của tất cả các cõi Phật khác. Các cõi Phật khác do thầy của Pháp Tạng, Phật Lokesvararaja , giảng cho ngài. 
 
Phật giáo tịnh độ được mô tảđức tin trong sáng (Path of Serene Trust), hay prasada trong tiếng Phạn. Từ này được giải thích rộng là “tín”, nghĩa rằng người có đức tin thuần tịnh vào trí tuệthần lực của chư Phật, hay tin rằng những lời nguyện của chư Phật là dìu dắt chúng sanh sẽ được thành tựu
 
Trong kinh Bát – chu tam muội (Pratyutpanna), một kinh rất xưa của Phật giáo, đức Thích Ca giảng về sự thực hành tam muội, theo đó hành giả có thể trực tiếp diện kiến chư Phật trong mười phương. Cho nên, quy y Phật là đặt niềm tin tron vẹn nơi Phật, xem Phật là đấng cha lành (từ phụ), tán thán phẩm hạnh và tâm luôn nhớ niệm Phật ở mọi lúc bắt đầu từ ngày đến với Phật pháp

Mục đích của tu tập Phật giáo tịnh độ là để được tái sanh về cảnh giới cực lạc (Sukhavati), hay tự thân chứng nghiệm cảnh giới cảnh giới tịnh độ khi tâm thanh tịnh. Lúc đó hành giả đồng nhất với từ bitrí huệ vô biên của Phật A Di Đà. Phật giáo tịnh độ được lập trên 3 tiêu chí sau đây: 

Tín
Nguyện, hay sự khát vọng, được tái sanh về tịnh độ 
Hành, nghĩa là tập trung tâm chuyên nhất vào việc quán tưởng "Buddhanusmrti" trong tiếng phạn, và "Nien-Fo" trong tiếng hoa. Buddhanusmrti có nghĩa là niệm Phật một cách chân chánh, chuyên nhất, và là sự thực hành chính yếu của Phật giáo tịnh độ ngay từ khi mới phát tâm. Nien-Fo cũng nói đến niệm danh hiệu Phật lúc đang làm những công việc khác. 

Ba tiêu chí gồm tín, nguyện và hành của Phật giáo tịnh độ được giản lược vào thế kỷ thứ 12 ở Nhật Bản. 18 lời nguyện của ngài Pháp Tạng được giải thích là, chỉ cần niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà thì sẽ được tái sanh. Thiền sư Shinran giải thích ngắn gọn rằng, niệm Nembutsu (theo tiếng nhật thay vì Nien-Fo của tiếng hoa) cho đến khi niềm tin hiển lộ rõ mồn một nơi tâm, và niềm tin nơi Phật Amida (tiếng nhật là Phật A Di Đà - Amitabha), thì đủ vãng sanh. Các tông phái tịnh độ Nhật Bản được biết đến dưới tên gọi những tông phái “duy tín (faith-only)”, còn Phật giáo tịnh độ nói chung được lập trên 3 tiêu chí tín, nguyện và hành 

Nguyện

Bồ tát Pháp Tạng phát 48 lời nguyện khi ngài chưa thành Phật. Trong đó có 4 lời nguyện chính là nguyện thứ 18, 19, 20 và 22. Những nguyện này được chép trong kinh Vô Lượng Thọ (Larger Sukhavati Sutra), một trong 3 kinh chính của Phật giáo tịnh độ.

Nguyện thứ 18 là giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanhmười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác

Nguyện thứ 19 giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanhmười phương phát Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác

Nguyện thứ 20 là giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanhmười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác

Nguyện thứ 22 là giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác

Những Kinh chính của Phật giáo tịnh độ 

Kinh Tiểu Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm (The Smaller Sukhavati Sutra). Trong kinh này đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng về thế giới cực lạc cho ngài Xá-lợi-phất, đức Phật mô tả đầy xúc tích về cõi của Phật A Di Đà. Kinh này có lẽ được tụng nhiều nhất trong 3 kinh chính của tịnh độ

Kinh Đại Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm (The Larger Sukhavati Sutra). Trong kinh này đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng rất chi tiết về thế giới tịnh độ cho ngài A-nan. Phật Thích Ca kể về lịch sử Bồ tát Pháp Tạnggiảng giải 48 lời nguyện một cách rất chi tiết.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ (The Visualization Sutra). Kinh này sáng tác tại Trung Hoa, cũng được xem là kim chỉ nam cho thiền, mô tả chi tiết về những đặc trưng của tịnh độ. Đồng thời, cũng mô tả những phẩm hạnh của Phật A Di Đà cùng với nhị vị Bồ tát Quan Âm (Avalokitesvara), tiêu biểu cho từ bi, và Thế Chí (Mahasthamaprapta), tiêu biểu cho trí huệ. Avalokitesvara nghĩa là người quán xét tiếng kêu khổ của thế gian, và Mahasthamaprapta nghĩa là người rất có sức mạnh, đấng đại hùng

Tự lựctha lực

Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta. Tha lực nói đến những lời nguyện của đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng ta tái sanh vế thế giới cực lạc, cũng như chuyển hoá công đức của Phật A Di Đà cho chúng ta được thể hiển qua những lời nguyện của ngài.

Trong Phật giáo tịnh độ truyền thống, tự lựctha lực cùng được tu tập song hành với nhau. Qua tu tập kết hợp niệm Phật, thiền, và quán tưởng, thì nguyện được tái sanh về thế giới cực lạcniềm tin tái sanh sẽ luôn hiển hiện nơi tâm, hành giả sẽ đạt được tam muội của Phật, đồng nhất tự lực của vị ấy với tha lực của Phật A Di Đà, yếu tố làm nên từ bitrí tuệ của vũ trụ.

Tuy nhiên, Phật giáo tịnh độ Nhật Bản chỉ có dựa vào tha lực mà thôi. Niệm danh hiệu Phật A Di Đà với tất cả niềm tin là đủ, và tất cả những sự thực hành tha lực khác được xem thật sự vô bổ. Hành giả hoàn toàn dựa vào những lời nguyện chính của Phật Amida; về cơ bản, danh hiệu Phật chỉ được biết đến qua những lời nguyện của Phật Amida. Điều này khiến cho Phật giáo tịnh độ Nhật Bản giống một hình thức dựa trên sự cứu rỗi (a salvation-based form), không như Phật giáo tịnh độ truyền thống phát xuất từ Trung Hoa. 

Sự thực hành 

Niệm danh hiệu Phật là một trong những sự thực hành trung tâm của Phật giáo tịnh độ. Niệm Phật bao hàm niệm “Namo Amitabha Buddha (Nam Mô A Di Đà Phật)”, nghĩa là thành kính đảnh lễ Phật vô lượng từ bitrí tuệ, mà theo tiếng hoa là "Namo Omito-Fo" và tiếng nhật là "Namu Amida Butsu" 

Niệm Phật từ lâu đã được nhìn nhận dễ tu tập, sẽ thu thập những ích lợi mà các tông phái chính của Phật giáo đưa ra. 

Niệm Phật bao gồm cả việc thiền định, vì nhất tâm niệm Phật giúp hành giả tự đoạn tận si mêtham ái

Niệm Phật gồm cả việc nghiên cứu kinh điển, vì những từ thiêng liêng “Phật A Di Đà” chứa đựng những ý nghĩa cao siêu không thể kể xiết.

Niệm Phật gồm cả việc trì giới, vì niệm Phật đến cấp độ nhất định sẽ tịnh hoá và lắng động thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp
 
Niệm Phật gồm cả tu tập mật tông, vì niệm những từ “A Di Đà Phật” cũng có hiệu nghiệm nhiệm mầu như khi tụng chú mantra vậy.

Quán cũng là sự tu tập trọng yếu trong Phật giáo tịnh độ. Hầu hết quán tưởng trong tịnh độquán Phật A Di Đà cùng với 2 vị Bồ tát Quan ÂmThế Chí, và cả chính cõi cực lạc. Có tất cả 16 loại quán, được mô tả chi tiết trong kinh Quán Vô Lượng Thọ 

Nhưng một sự thực hành khác nữa là tụng kinh Tịnh Độ (kinh A Di Đà). Tụng kinh giúp người hành trì luôn tưởng nhớ vững chắc Phật A Di Đà trong tâm và khiến cho nguyện tái sanh về thế giới tịnh độ ngày càng tăng trưởng.

Các thành phần của hầu hết nghi lễ tịnh độ đều dựa trên thuyết ngũ môn công đức của ngài Thế Thân 

Đảnh lễtán thán
Quán tưởng đức Phật A Di Đà 
Tụng kinh A Di Đà
• Lập nguyện tái sanh về cực lạc
Chuyển hoá công đức 

Một sự thật không thế phủ nhận là việc thực hành pháp môn tịnh độ có thể thích ứng với bất kỳ ai và bất kỳ căn cơ nào đi nữa. Đó là lý do tại sao Phật giáo tịnh độlối tu tập tuyệt diệu cho những ai tầm cầu giải thoát trong thời đại ngày nay, thời đại có quá nhiều chướng ngại và xao nhãng cho việc tầm cầu giác ngộ
 
Người dịch : Thích Nguyên Đăng

Emaile address: thichngdang@yahoo.com 

nguồn: http://www.cloudwater.org/pureland.html

Tài liệu tham khảo 
Đại Thừa Phật giáo tư tưởng luận , HT Thích Quảng Độ dịch

http://en.wikipedia.org/wiki/Pure_Land_Buddhism

http://en.wikipedia.org/wiki/Buddhist_texts#Pure_Land_Sutras

Tịnh Độ Thập Nghị Luận, Trí Giả Đại Sư, HT Thích Thiền Tâm dịch

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14396)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14118)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39650)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15276)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13816)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13881)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37266)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40007)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14602)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14291)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12626)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14796)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19190)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13769)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42570)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13796)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37191)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12639)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11733)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22502)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12464)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12526)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12997)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13056)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17222)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 14790)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11010)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12406)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11927)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11901)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13099)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51176)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12352)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6573)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30360)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13092)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13282)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30630)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19301)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12461)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11803)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14732)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13166)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13153)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30623)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12000)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11800)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12682)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31826)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29345)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11758)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11698)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10384)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11510)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9593)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9610)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9908)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35354)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10115)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10063)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10009)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9614)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27755)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15448)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9815)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13630)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9812)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9657)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18262)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12018)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9528)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9651)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8672)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8878)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8373)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11427)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31659)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12296)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13273)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8790)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9401)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11895)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9173)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9041)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9616)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29292)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9039)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9058)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33179)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8403)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30542)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31167)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37007)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32197)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9889)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 26996)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8389)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19188)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12975)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9734)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant