Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài 16 - Những thực hành của tu tập vào Thời điểm chết

03 Tháng Mười 201100:00(Xem: 10484)
Bài 16 - Những thực hành của tu tập vào Thời điểm chết

Kalu Rinpoche
TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ [Bài 16]
Những thực hành của tu tập vào Thời điểm chết
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: Practices at the Moment of Death

Chẳng nghĩ rằng cái chết sẽ đến, tôi bị thu hút vào những chương trình cho tương lai.
Sau những hoạt động nhiều và vô ích trong đời sống này, tôi sẽ ra đi hoàn toàn tay không.
Thật là một lầm lẫn lớn; vì tôi sẽ chắc chắn cần thông hiểu sáng tỏ Diệu Pháp.
Thế tại sao bây giờ không tu tập?
Liên Hoa Sinh, Tử thư Tây Tạng

Chúng ta không trở thành tự do vào lúc chết. Vì nghiệp làm tâm của chúng ta tùy thuộc nhân duyên, nên nghiệp quyết định hành trình trải nghiệm trung hữu của chúng ta và sự tái sinh chúng ta sẽ đi vào (Since karma conditions our mind, it determines the course of our bardo experience and rebirth we will take). Nghiệp của chúng ta và sự trải nghiệm nội tâm đương hiện hữu là cái quan trọng nhất. Đây là lí do tại sao chuyện chính yếutrở thành nhận biết sáng tỏ nhu cầu rèn luyện tâm linh ngay từ bây giờ trở đi: học hỏi, dốc lòng tu tập, sống theo kỉ luật đạo đức căn cứ trên sự thông hiểu sáng tỏ về nghiệp, và phát triển những thực hành mà chúng sẽ giúp chúng ta vào thời gian chết.

Những thực hành giúp tiến trình giải thoát trong các Trung hữu khác nhau

(Liberating Practices in the Different Bardos)

Độ dài thời gian theo lí thuyết của các trung hữu là: với trung hữu của chết là thời gian để xong một bữa ăn; với trung hữu của tính không là ba ngày rưỡi (3+1/2); và trung hữu của hữu tái sinh là bốn mươi chín (49) ngày.

Tuy nhiên, những con số này chỉ là những dự đoán tổng quát. Độ dài thời gian của các trung hữu khác nhau biến đổi tùy theo năng lực của các hành động tích cựctiêu cực tạo thành nghiệp của cá nhân; tuy nhiên, nó không được tính toán theo ngày 24 giờ của cõi người. Giải thoát có thể cũng xảy ra sau một thời kì không nhất định. Cũng có thể chẳng có trung hữu nào cả.

Tổng quát, trên căn bản của tu tập Pháp, nếu những tu tập nhất định được thành thạo trong thời gian chúng ta sống, chúng tathể đạt giải thoát trong khi đi qua các trung hữu khác nhau vào thời điểm chết và sau đó.

Nếu chúng ta thật chứng mahamudra (đại thủ ấn), hoặc bản chất của tâm, trong thời gian chúng ta sống, chúng ta có thể, vào lúc cuối của trung hữu của chết, nhận định được quang sắc giác chiếu (clear light) và đạt được giải thoát. Thay vì có trạng thái bất thức bình thường, bản chất viên minh giác chiếu của tâm xuất hiện, mà nó giống như quang sắc của một ngọn đuốc, làm tiêu tán một cách hoàn toàn cái tối tăm của vô minh. Nếu chúng ta đã tu tập với một yidam (Tạng ngữ: yidam; Skt. istadevata; Anh ngữ: Meditational Deity; Meditational Buddha) hoặc với một vị phật thiền (meditational buddha) tỉ dụ Đức Quán Thế Âm (Tạng ngữ: Chenrezig), đức phật đại bi, tụng đọc chân ngôn (mantra) của ngài, và đã phát triển tu tập thiền quán tốt, điều này đặc biệt rất quý báu vào thời điểm chết. Một hành giả như thế có thể nhận được sự gia hộ (blessing: sự tùy thuận và hỗ trợ) của Đức Quán Thế Âm cộng thêm vào với những thói quen tâm ý và những tập khí tích cực ghi lại trên giòng tâm (mindstream) do thực hành tu tập đó. Những trình tự của thiền định theo văn bản (sadhana) có năng lực giải thoát chúng ta trong thời gian trong các trung hữu. Chúng tathể đạt giải thoát vào bất cứ một trong các trình tự này, thực sự trở thành đức Quán Thế Âm, và được sinh trong sự hiện diện của ngài trong một tịnh độ.

Cũng có những thiền định và những chỉ giáo chuyên biệt về các trung hữu, tỉ dụ như Tử Thư Tây Tạng (The Tibetan Book of the Dead). Những thiền định và chỉ giáo này cho cơ hội, phương tiện giải thoát ở vào các trình tự khác nhau của các trung hữu, bằng cách giúp chúng ta nhận định sáng tỏ được bản chất của các trung hữuđặc biệt bản chất hư huyễn của các hiện tướng được đối diện trong trung hữu của hữu tái sinh. Những chỉ giáo này được áp dụng từ thời điểm của bất thức toàn thể trong trung hữu của tính không, khi ta tỉnh thức đối với những biến hoá chớp nhoáng của các hình tượng quang minh và chư phật bảo hộ, và cho toàn thể thời kì của trung hữu của tái sinh hữu.

Nếu chúng ta chưa thực chứng quang sắc giác chiếu (clear light), tuy đã được thiền định với một vị phật thiền (yidam), hoặc tuy đã tu tập các giáo pháp về trung hữu, thì vẫn có thể thực hiện một pháp chuyển di tâm thức (transference of consciousness; Tạng ngữ: phowa) vào thời điểm chết. Chuyển di tâm thức cho tâm thức cơ hội, phương tiện được di chuyển tới một trạng thái tự do cách tuyệt với sinh tử tương tục. Nếu chuyển di tâm thức này được thi hành thành công trong thời kì trung hữu của thời điểm chết, thức sẽ không trải qua các trung hữu của tính không hoặc của hữu tái sinh. Thay thế vào hai trung hữu đó, thức sẽ được phóng chiếu một cách tức thời hướng tới một cõi cao hơn. Điều này là có thể được bởi vì có sự huấn luyện trong đời sống này hoặc xuyên qua đại bi của một vị thầy chân chính (qualified lama) ngài thi hành pháp chuyển di tâm thức cho chúng ta.

Trong cảnh dự đoán trường hợp tốt đẹp nhất, do sự thấu triệt hoàn toàn, thực hiện pháp này cho chúng ta cơ hội, phương tiện để tái sinh trong một quốc độ giác ngộ (= cõi phật), một trạng thái tâm linh cách tuyệt với sinh tử tương tục và các tập khí duyên nghiệp. Điều này thì tương tự như chúng ta được phóng từ một giàn phóng trực chỉ tới Sukhavati, tịnh độ Tây Phương Cực Lạc (Tạng ngữ: Dewachen), cõi đại lạc, hoặc chúng ta là một con chim có năng lực trực-nhập hư-không vạn-hữu viên-dung của giác ngộ (firmament of enlightenment). Chuyển di tâm thức là một pháp thiền địnhchúng ta có thể làm một cách dễ dàng, và vì lí do đó nó thì cực kì quý báu.

Nếu không tu tập thấu triệt như thế (otherwise: if not; except for that), nếu chuyển di tâm thức chỉ thấu đáo phân nửa, chúng ta sẽ tái sinh trong sinh tử tương tục, nhưng trong một cõi trời phúc đứcthuận duyên cho giải thoát. Trong trường hợp tệ nhất, chúng ta sẽ tái sinh trong trạng thái con người sinh ra tự nhiên với những thuận duyên cho tu tập tâm linh.

Xuyên qua sự thật chứng của pháp chuyển di tâm thức, giải thoát duyên hội xảy ra chẳng phải trải qua các trung hữu. Trên một phương diện khác, sự vắng mặt của các trung hữu có thể cũng duyên hội xảy ra đối với những người đã làm các hành động tiêu cực rất nghiêm trọngsức mạnh của nó quá kịch liệt giống như đẩy tống họ thẳng tới một cõi địa ngục ngay tức thời sau khi họ chết, chẳng có sự tạm thời được giảm đau đớn do còn được ở trong các trung hữu khác.

(The absence of bardos, on the other hand, can also occur to people who have committed very seious negative actions whose force is so intense as to propel them straight to a hell realm right after they die, without the reprieve of other bardos)

Nói chung, nếu chúng ta phát triển được thói quen nguyện cầu tới những vị Thầy của chúng ta, tới Tam Bảo, hoặc tới một phương diện đặc thù nào của Phật, thì ấn tượng trên những tâm chúng ta an lập một cảm ứng với chư vị này (the impressionon our minds establishes a connection with them) cảm ứng chúng ta với những sự gia hộ của chư vị (and connects us with their blessing). Sự gia hộ này bảo vệ chúng ta và dẫn chúng ta tới giải thoát trong trung hữu của hữu tái sinh.

Những Ước Nguyện Tái Sinh Trong Một Tịnh Độ

Ngay cả nếu chúng ta chưa thực hiện những tu tập chuyên biệt vừa được miêu tả hoặc chưa nhận được những chỉ giáo của những giáo pháp này, nó vẫn là một pháp thí (a given) tạo những ấn tượng trên tâm của chúng ta để quyết định cái chết của chúng ta và trải nghiệm trung hữu; và những cầu nguyệnước nguyện chúng ta đã làm trong đời sống chúng ta đã chất đầy tâm chúng ta nên có thể tự nhiên dẫn tâm chúng ta hướng tới một tịnh độ cách tuyệt với tiến trình nhân duyên của sinh tử tương tục.

Có rất nhiều phương diện của Phật để chúng ta hướng về, trong đó chúng ta có thể hướng thẳng những tâm của chúng ta tới Đức A Di Đà, Đức Quán Thế ÂmTây Phương Cực Lạc Sukhavati, quốc độ giác ngộ của hai ngài. Hai vị phật này thì quan trọng một cách đặc biệt.

Chỉ thuần mong ước tái sinh nơi Tây Phương Cực Lạc Sukhavati trong lúc chúng ta đang sống sẽ làm cho chúng ta tái sinh ở đó một cách thật sự, thay vì đi tới một nơi chốn vật lí thông thường. Thật ra, cái “thân duyên nghiệp” thuần thục của đời sống này được cấu tạo bởi những nguyên tố vật chấtchúng ta đồng nhất hoá với nó, và những cái này ngăn cản tâm tự do đi nơi nó mong ước. Trái lại, trong trung hữu của hữu tái sinh, chẳng còn có cái thân vật lí nữa, nhưng thân ý sinh có cái năng lực chuyển động như tâm niệm. Đây là lí do tại sao, bằng năng lực của những mong ước lưu xuất bởi đức A Di Đà, Đức Quán Thế Âm, và chúng ta, chúng ta có thể tạo được một cảm ứng dẫn tâm của chúng ta hướng tới Sukhavati Tây Phương Cực Lạc và làm tâm được thật sự tái sinh nơi đó. Điều này thì đặc biệt có thể được trong thời kì tuần thứ nhất của trung hữu của hữu tái sinh, khi chúng ta đã trở thành biết đi biết lại rằng chúng ta thì chết rồi (when we repeatedly become aware that we are dead), thế nên do bởi cái năng lực của những tập quán đã được an lập trong những cuộc đời của chúng ta, chúng ta cầu nguyện với Đức A Di Đà và Đức Quán Thế Âm để được tái sinh trong Tây Phương Cực Lạc Sukhavati; do bởi năng lực của Đức A Di Đà , Đức Quán Thế Âm, chúng ta có thể tái sinh tức thời nơi đó. Nếu chúng ta thốt ra những lời cầu nguyện chân thành một cách đều đặn để được tái sinh Tây Phương Cực Lạc Sukhavati, chúng ta đem theo với chúng ta cái nguyện vọng đi về đó khi chúng ta chết. Nguyện vọng này sẽ tác động trên tâm của chúng ta, trở thành phương tiện cho tái sinh nơi đó và cho thành đạt giải thoát nhanh chóng hơn là nếu chúng ta hành trình bằng máy bay hoặc hoả tiễn!

Đồng thời trong thời gian này, những chướng ngại đối với tái sinh vào Tịnh độ Tây Phương Cực Lạc Sukhavati có thể sinh khởi. Nếu, tỉ dụ, gia đình chúng ta hoặc người phối ngẫu khóc vì chúng ta (weep over us) hoặc yêu cầu đòi hỏi chúng ta trở lại với cuộc đời (demands that we come back to life), hoặc nếu thái độ của những người yêu mến chúng ta quấy động sự buồn thảm, ái luyến, hoặc giận dữ của chúng ta, tâm của chúng ta chẳng thể nào trực chỉ tới Tây Phương Cực Lạc Sukhavati bởi vì nó sẽ bị giằng xé giữa hai tâm niệm: lòng mong muốn đi tới Tây Phương Cực Lạc Sukhavati và kí ức của những kẻ thân mến nhiều ảnh hưởng đó. Thế nên những sợi giây ái luyến có thể quá câu thúc chúng có thể hủy bỏ cái thúc bách mong cầu hướng tới Tây Phương Cực Lạc Sukhavati. Cũng chướng ngại như thế nếu chúng ta ái luyến với cái thế giới chúng ta vừa mới rời khỏi, với những sở hữu của chúng ta, hoặc địa vị xã hội của chúng ta. Những ràng buộc này sai khiến tâm của chúng ta một lần nữa lại hướng về cái mà chúng ta vừa mới bỏ lại phía sau và làm chúng ta đổi lộ trình để không còn hướng về Tây Phương Cực Lạc Sukhavati. Tuy thế, may mắn có một phương pháp ngăn ngừa cái nguy hiểm này, và đó là từ nay phát triển tập quán nghĩ về mỗi người và mỗi sự vật chúng ta ái luyến như là một dâng hiến hiện thời tới Đức A Di Đà và Đức Quán Thế Âm. Cái tâm niệm các hữu tình và các sự-sự vật-vật chẳng còn thuộc về chúng ta nữa có thể trung hoà cảm xúcnếu không nghĩ như thế, nó sẽ trói buộc chúng ta với chúng. Thế nên chúng ta có thể dâng hiến Đức A Di Đà và Đức Quán Thế Âm tất cả sự-sự vật-vật chúng ta ái luyến; có dâng hiến một cách toàn thể như thế chúng ta sẽ chẳng còn giữ lại ái luyến với bất cứ cái gì cả.

Những người già mới tu học Pháp, có thể suy nghĩ biện minh là họ sẽ không có thời gian để cố gắng tu tập các pháp tu tập thâm sâu, tỉ dụ đại thủ ấn và các pháp khác dẫn đến giác ngộ trong đời sống này. Họ cũng có thể tự bảo họ rằng họ chẳng còn khả năng hoặc thời gian để dốc lòng họ cho những tu tập khó khăn, kéo dài. Đây là những điều không làm họ mất hi vọng: đại tín tâm nơi đức A Di Đà và Đức Quán Thế Âm, cầu nguyện chân thành để tái sinh vào Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc Sukhavati, và tụng đọc mantra của Đức Quán Thế Âm tạo kết quả có tính quyết định là được tái sinh nơi đó sau khi chết.

Sinh vào Tây Phương Cực Lạc Sukhavati là hoá hiện, nghĩa là hữu tình tái sinh nơi đó tức thời xuất hiện trước Đức A Di Đà và Đức Quán Thế Âm. Thị kiến trực tiếp đó (= diện kiến trực tiếp nhị vị Phật) làm chúng ta đạt tới bồ tát địa thứ nhất, Hoan hỉ địa (Sublime Joy) ngay tức thời. Trạng thái này tương ứng với sự tỉnh giác khởi đầu, sau đó thì chẳng còn trở lại sự trói buộc của sinh tử tương tục.

Tên của Tịnh độ của Đức A Di Đà, Sukhavati, có nghĩa là Cực Lạc ( “great bliss”), bởi vì tâm, không còn trói buộc của đau thương có tính sinh tử tương tụcđau đớn; chẳng nhận biết gì ngoài hạnh phúchoan hỉ. Tái sinh trong trạng thái tâm linh này là chấm dứt chu kì của những tái sinh. Ở đó, tâm thì được giải thoát cách tuyệt với những che lấp do nghiệp và những phẩm chất viên giác của tâm bắt đầu tự hiển khai và phục vụ cho lợi ích của những hữu tình. Nhưng nếu ngay cả tâm được hoàn toàn tịnh hoá các che lấp của nghiệp và gần hết các che lấp của phiền não tâm ý, vẫn còn lại những che lấp vi tế. Tuy nhiên, đó là một trạng thái trong đó chúng ta trải nghiệm những phẩm chất giác ngộ quan trọng từ đó chúng ta có thể giúp những ai còn ở lại trong sinh tử tương tục. Có nhiều cách đến để giúp họ và hướng dẫn họ hướng tới giải thoát.

Tổng quát, có nhiều quốc độ của giác ngộ: ở mức độ của Chân Thân hoặc pháp thân (the Truth Body or dharmakaya); ở mức độ Thân Thọ Dụng hoặc báo thân (the Enjoyment Body or sambhokaya); hoặc ở mức độ Thân Ứng Hoá hoặc hoá thân (the Emanation Body or nirmanakaya). Sukhavati là một quốc độ giác ngộ với những hình tượng, ở mức độ của Thân Ứng Hoá (Emanation Body or nirmakaya). Bởi vì điều này, nó vẫn là chủ thể đối với những giới hạn nhất định. Tỉ dụ, trong Sukhavati, một loại biến dịch nhất định, hoặc vô thường vẫn còn. Đây không phải Vô thường thô thiểnbiến dịch chúng ta nhận biết trong bình diện của hiện hữu của chúng ta, nhưng một loại vi tế hơn.

Có bốn thành tố quyết định tái sinh nơi Tây Phương Cực Lạc Sukhavati. Thành tố thứ nhất là tưởng tượng (=quán tưởng) rõ ràng sự hiện diện của Tây Phương Cực Lạc Sukhavati cộng thêm sự hiện diện của Đức A Di Đà và Đức Quán Thế Âm; phát triển một cảm thức mạnh mẽ của sự hiện diện đương hiện hữu của nhị vị Phật, sự huy hoàng của nhị vị Phật và quốc độ của nhị vị, nơi mà tất cả các hiện tướng đều rực rỡ và phát sáng dường như chúng được tạo nên bằng những bảo châu. Thành tố thứ nhì là sự tu tập của sự tịnh hoá và hai tích lũy: sự tịnh hoá của tính tiêu cực và hai tích lũy của phúc đứctrí tuệ. Thành tố thứ ba là động cơ vị tha của tâm bồ đề. Căn cứ vào tâm bồ đề, thành tố thứ tư là nguyện vọng sinh khởi từ những mong ước mạnh mẽ và chân thành được tái sinh vào Tây Phương Cực Lạc Sukhavati. Trong bốn thành tố này, nguyện vọng (= nguyện) là thành tố quyết định quan trọng nhất.

Những chỉ giáo này về Tây Phương Cực Lạc Sukhavati không chỉ là một lời hứa cho tương lai; tín nhiệm vào tác động hữu hiệu của những chỉ giáo và đem những giáo pháp này vào tu tập làm tiêu tán nhiều loại đau thương trong đời sống này. Già thì đặc biệt đi cùng với những vấn đề: ăn quá nhiều sinh ra rắc rối, trong khi ăn quá ít gây ra những vấn đề khác; chúng ta chẳng thoải mái trong những quần áo ấm áp dày nặng, nhưng những quần áo mỏng nhẹ chẳng giữ cho chúng ta đủ ấm. Trên đỉnh của những bất tiện vật lí, cái chết đương đến gần của chúng ta đè nặng trên tâm của chúng ta. Một mặt khác, nếu chúng ta mong ước từ nay được tái sinh vào Tây Phương Cực Lạc Sukhavati, và nếu chúng taniềm tin quyết định rằng những mong ước của chúng ta sẽ thành hiện thực, thì tuổi già thay vì làm đau đớn, phiền muộn chúng ta, lại trở thành một nguồn vui thích do nhờ có hi vọng sớm rời thế giới này để tới một thế giới khác, tốt đẹp hơn.

Nếu bạn chẳng có thể thực hiện những tu tập, cũng chẳng phát ra ước nguyện tái sinh Tây Phương Cực Lạc Sukhavati, ít nhất bạn có thể làm cho bạn thông hiểu về mười hành động thiện và mười hành động ác. Bạn có thể gắng làm những hành động thiện hảo và tránh làm những hành động ác hại. Một cách tối hậu, làm thiện, không làm ác sẽ dẫn bạn đến một tái sinh làm người hạnh phúc nơi mà bạn sẽ gặp Diệu Pháptiến bộ theo thứ bậc trên con đường đạo đi tới giác ngộ.

------------------------------------

Phụ bản 1

Ngài Tịch Thiên (Santideva). Nhập Bồ tát hạnh

Chương 7. Tinh tấn .Tụng 44. (bản dịch Việt: Thích nữ Trí Hải)

Nhờ những thiện nghiệp về trước, tôi sẽ sinh vào trong lòng mát rượi của một đoá sen thơm tho khoáng đạt.

Nhĩ căn tôi được nuôi dưỡng bằng Pháp ngữ vi diệu của đức Như Lai, thân tâm thấm nhuần phát sáng.

Khi hào quang Phật chiếu đến, hoa sen trắng nở ra một thân thể thù thắng, tôi sung sướng thành Con Phật đứng trước đức Như Lai.

Nhập Bồ tát hạnh. Bản Hán dịch: Trần Ngọc Giao

Đệ Thất Phẩm. Tinh tấn. Tụng 44

Nhân tích tịnh thiện nghiệp,

Sinh cư đại liên tạng,

Phân phân cực thanh lương;

Văn cực diệu Phật ngữ,

Tâm nhuận quang trạch sinh;

Quang chiếu bạch liên khai,

Sinh xuất tối thắng thân,

Hỉ thành Phật tiền tử.

------------------------

Santideva.The Bodhicaryavatara.

A new translation by Kate Crosby and Andrew Skilton.

The Perfection of Vigour

Verse 44.

Born in the womb of lake-growing lotuses, expansive, sweet-smelling, and cool, with thriving splendor granted by the sustenance of the Conqueror’s melodious voice, their beautiful forms emerging from the water-born lotuses as they blossom in the rays of light from the Sage, the Sons of the Sugata appear before him in consequence of their skilful deeds.

-----------------------------------------------------------

Phụ bản 2 : Bản chất của tâm 

Bản dịch Việt (dịch lần thứ hai): Đặng Hữu Phúc

---------------------------------------------------------------------------------

Tất cả những hiện tượng đều là những phóng chiếu của tâm.

Tâm chẳng phải là ‘một’ tâm; tâm thì chân không diệu viên trong bản chất căn bản.

Tuy chân không diệu viên, sự sự vật vật sinh khởi liên tục trong tâm.

Xuyên qua sự khảo sát thâm sâu nhất của tâm, mong chúng ta tìm thấy gốc rễ tự nội của tâm .

--The Third Karmapa, Wishes of Mahamudra .

---------------------------------------------------------------------------------

Trải nghiệm thật của bản chất căn bản của tâm thì vượt ngoài ngôn từ. Muốn miêu tả nó thì cũng giống như cảnh một người câm muốn miêu tả hương vị của một viên kẹo trong miệng người ấy: người ấy thiếu hẳn một phương tiện diễn tả thích hợp. Dẫu có khó khăn như thế, tôi cũng muốn đưa ra vài ý niệm gợi ý nơi trải nghiệm này.

Bản chất của tâm thanh tịnh có thể được nghĩ đến trong trạng thái có ba phương diện bản chất căn bản, kết hợp, và đồng thời : chân không diệu viên [openness; emptiness; open to possibilities for manifestations; Skt. sunyata; chân không là rỗng thông lìa các tướng và diệu viên là mở ra các khả hữu cho hiển hiện -- gặp sắc trần thì cái thấy hiển hiện, gặp thanh trần thì cái nghe hiển hiện,v,v.. nên gọi diệu viên], quang minh giác chiếu (clarity; lucidity; Skt. prabhasvara; quang minh viên chiếu; tràn đầy sáng tỏ chiếu khắp thường trụ; thường tịch quang),và phân biệt vô ngại (sensitivity; nhận biết phân biệt rành rẽ không bị ngăn ngại).

Chân không diệu viên (Openness; Emptiness)

Tâm là chủ thể nghĩ: ‘Tôi là, Tôi muốn, Tôi không muốn’; nó là người tư duy, người quan sát, chủ thể của tất cả trải nghiệm. Tôi là tâm. Từ một quan điểm, tâm này hiện hữu, bởi vì tôi là và tôi có một khả năng cho hành động. Nếu tôi muốn thấy, tôi có thể nhìn; nếu tôi muốn nghe, tôi có thể chăm chú nghe; nếu tôi quyết định làm một việc gì với hai bàn tay của tôi, tôi có thể điều động thân thể của tôi, và mọi thứ. Trong nghĩa này, tâm và những khả năng của tâm có vẻ hiện hữu.

Nhưng nếu chúng ta tìm kiếm tâm, chúng ta không thể tìm thấy được bất cứ phần nào của tâm trong chúng ta, không ở trong đầu của chúng ta, thân thể của chúng ta, hoặc ở bất cứ nơi nào khác.

Thế nên từ toàn cảnh khách quan khác này, tâm hình như không hiện hữu.Thế nên, về một phương diện, tâm hình như hiện hữu, nhưng về một phương diện khác, tâm thì không là một cái gì đó thật sự hiện hữu.

Tuy những thẩm tra của chúng ta tốn bao nhiêu công sức đi nữa, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể tìm thấy được bất cứ một đặc hữu hình tượng của tâm: tâm chẳng có chiều kích, màu, hình tượng, cũng chẳng có một tính đức có thể thấy hiển nhiên, chắc chắn được. Tâm ở trong ý nghĩa này, được gọi là chân không diệu viên, rỗng thông mở ra các khả hữu cho hiển hiện, bởi vì tâm về bản chất cơ bản, không quyết định, không quy định phẩm tính được, vượt ngoài khái niệm, và như thế có thể so sánh với hư không. Bản chất không quy định được này là tính chân không diệu viên, tính đức bản chất căn bản thứ nhất của tâm. Nó thì vượt ngoài cái tâm thức hư dối (illusory consciousness; tâm thức tưởng tượng sai lầm, tâm thức biến kế chấp) là cái làm cho chúng ta kinh nghiệm tâm trong trạng thái ‘tôi’, khách thể, sở hữu những đặc hữu mà chúng ta theo tập quán vẫn cho là thuộc tính của chúng ta.

Nhưng chúng ta phải cẩn thận ở đây! Bởi vì nói tâm thì chân không diệu viên, rỗng thông mở ra các khả hữu cho hiển hiện, giống như hư không thì không thu giảm tâm tới mức một cái gì đó không hiện hữu trong cái ý nghĩa là không chức năng. Cũng giống như hư không, tâm thanh tịnh không thể bị xác định trú sở, nó vô sở trú, nhưng nó thì có khắp mọi nơithâm nhập tất cả; tâm bao trùm và phân tán trong tất cả sự sự vật vật, tâm vô tận viên dungviên dung vô tận. Hơn thế nữa, tâm thì vượt ngoài sự đổi thay biến dịch, và bản chất chân không diệu viên của nó thì bất khả hoại và phi thời gian. 

Tính quang minh giác chiếu (Clarity)

Nếu tâm thực sự về bản chất căn bản chân không diệu viên, trong ý nghĩa như được giải thích ở trên, nó thì không chỉ rỗng thông mở ra các khả hữu cho các hiển hiện, bởi vì nếu nó là như thế, nó sẽ là tính ì trơ, quán tính, và sẽ không trải nghiệm hoặc nhận biết bất cứ sự sự vật vật gì, cũng chẳng có những cảm thức, cũng chẳng có niềm vui và đau thương. Tâm thì không chỉ chân không diệu viên, rỗng thông mở ra các khả hữu cho các hiển hiện– Tâm sở hữu một tính đức bản chất căn bản thứ nhì là khả năng của nó đối với những trải nghiệm, đối với nhận thức. Cái tính đức động năng thứ nhì này được gọi là quang minh giác chiếu (clarity; nhận biết tràn đầy sáng tỏ chiếu khắp). Nó là cả sự sáng tỏ thấu suốt của tính giác (lucidity; tính giác quang chiếu) và sự sáng tỏ thấu suốt của những trải nghiệm của nó (luminosity; tính giác cảnh chiếu).

[Quang là chủ thể năng chiếu; Cảnh là đối tượng sở chiếu. Nếu năng sở (chủ khách) hợp làm một thì gọi là quang cảnh nhất như. Nếu tâm chiếu vật và cảnh sở chiếu không đối lập nhau mà dung hợp nhau để đạt đến cảnh giải thoát, thì gọi là quang cảnh câu vong (quang cảnh đều mất), quang cảnh mẫn tuyệt (quang và cảnh dứt bặt) -- Phật Quang Đại Từ Điển ]

Để làm tốt hơn sự hiểu biết của tính quang minh giác chiếu của chúng ta, chúng ta có thể so sánh tính chân không diệu viên của tâm -- openness of mind -- với không gian trong một căn phòng chúng ta đang ở trong. Cái không gianhình tượng này mở ra khả hữu cho trải nghiệm của chúng ta; nó chứa trải nghiệm trong tính toàn thể của nó. Nó là nơi những trải nghiệm của chúng ta xảy ra.Tính sáng tỏ chiếu khắp, ngay lúc đó, sẽ là ánh sáng -- quang sắc -- chiếu sáng căn phòng và cho phép chúng ta nhận định những sự sự vật vật khác nhau. Nếu chỉ có cái không gian rỗng thông ì trơ, thì sẽ không có khả hữu cho nhận biết sáng tỏ (awareness). Đây chỉ là một tỉ dụ, bởi vì tính sáng tỏ chiếu khắp thường trụ của tâm thì không giống như ánh sáng thông thường của mặt trời, mặt trăng, hoặc điện năng. Nó chính là quang minh giác chiếu làm cho tất cả nhận thức và trải nghiệm thành khả hữu.

Bản chất chân không diệu viênquang minh giác chiếu là cái chúng ta gọi là ‘thường tịch quang’ (Skt. prabhasvara;‘clear light; thường tịch quang; quang minh thanh tịnh; tịnh quang); nó là quang minh giác chiếu rỗng thông mở ra các khả hữu cho các hiển hiện và, ở mức độ của tâm thanh tịnh,  quang minh giác chiếu trong chính nó và của chính nó; và đó là lí do tại sao chúng ta gọi nó là tính giác tự chiếu, linh tâm tự chiếu, nhất điểm linh quang, hoặc tính tràn đầy sáng tỏ chiếu khắp (self-luminous cognition or clarity).

(The open and luminous nature of mind is what we call the ‘clear light’; it is an open clarity that, at the level of pure mind is aware in and of itself; that is why we call it self-luminous cognition or clarity)

[Cognition; Skt. jnana, trí tuệ bát nhã; Skt. buddhi, giác ] [ĐHP: linh tâm tự chiếu; nhất điểm linh quang]

Không có một tỉ dụ nào thích hợp thực sự để minh họa tính quang minh giác chiếu này ở mức độ thanh tịnh. Nhưng ở mức độ bình thường, chúng ta có thể liên tưởng dễ dàng hơn, chúng ta có thể có được một thoáng nhìn thấy vài phương diện của nó bằng sự hiểu biết sáng tỏ một trong những hiển hiện của tâm -- trạng thái chiêm bao. Chúng ta hãy nói đó là một đêm tối, và trong bóng tối toàn thể này chúng ta đang chiêm bao, hoặc đang trải nghiệm một thế giới chiêm bao. Hư không tâm ý nơi mà chiêm bao xảy ra -- độc lập với nơi chốn vật lí nơi chúng ta đang ở -- có thể được so sánh với tính chân không diệu viên, rỗng thông mở ra các khả hữu cho các hiển hiện của tâm, trong khi đó khả năng của tâm cho trải nghiệm, mặc dù bóng tối bên ngoài, tương ứng với tính quang minh giác chiếu của nó.

Tính giác quang chiếu này ôm trọn, viên dung tất cả nhận thức của tâm và là tính quang minh giác chiếu bản nhiên trong những trải nghiệm này. (This lucidity encompasses all mind’s knowledge and is the clarity inherent in these experiences)

Nó cũng là tính giác quang chiếu của cái gì hoặc ai đang trải nghiệm chúng; chủ thể nhận biếttính giác quang chiếu và cái được biết là tính giác cảnh chiếu chỉ là hai phương diện của cùng một tính đức (It is also the ludicity of what or who experiences them; knower and known, lucidity and luminosity are but two facets of the same quality). Trong trạng thái viên minh giác chiếu (intelligence), đang trải nghiệm chiêm bao, nó là tính giác quang chiếu, và trong trạng thái quang minh giác chiếu hiện diện trong những trải nghiệm của nó, nó là tính giác cảnh chiếu

(As the intelligence that experiences the dream, it is lucidity, and as the clarity present in its experiences, it is luminosity)

Nhưng ở mức độ bất nhị của tâm thanh tịnh, nó là một và cùng một tính đức, ‘quang minh giác chiếu’, được gọi là ‘prabhasvara’ trong Phạn ngữ, hoặc ‘selwa’ trong Tạng ngữ. Tỉ dụ này có thể hữu ích trong sự hiểu biết sáng tỏ, nhưng hãy ghi nhớ trong tâm rằng nó chỉ là một minh họa để chỉ vào mức độ tập quán của một hiển hiện đặc thù của tính quang minh giác chiếu.

Trong tỉ dụ, có một sự khác biệt giữa tính giác quang chiếu của chủ thể nhận thức, và tính giác cảnh chiếu của những trải nghiệm của chủ thể đó. Đó là bởi vì chiêm bao là một trải nghiệm nhị nguyên đối đãi, được phân biệt trong thuật ngữ của chủ thể và khách thể, trong đó tính quang minh giác chiếu hiển hiện chính nó tức thời trong tính nhận biết sáng tỏ (awareness; tính giác chiếu) hoặc tính giác quang chiếu của chủ thể và trong tính giác cảnh chiếu của những đối tượng của nó.

Thật ra, tỉ dụ thì bị hạn hẹp, bởi vì, về căn bản không có nhị nguyên đối đãi trong những tâm thanh tịnh: tính bất nhị cũng là tính đức của tính quang minh giác chiếu, có bản chất căn bảnbất nhị.

(In fact, the example is limited, because fundamentally there is no duality in pure minds: it is the same quality of clarity that is essentially nondual)

Tính phân biệt vô ngại

(Sensitivity; the unimpededness; tính nhận biết phân biệt rành rẽ không bị ngăn chặn).

Để làm bản miêu tả đầy đủ của tâm thanh tịnh, một phương diện thứ ba nên được thêm vào hai tính đức đã được thảo luận ở trên, đó là tính phân biệt vô ngại (sensitivity; the unimpededness; nhận biết phân biệt rành rẽ không bị ngăn chặn; liễu tri biện biệt vô ngại).

Tính quang minh giác chiếu của tâm là khả năng của tâm để trải nghiệm; mỗi sự-sự vật-vật có thể sinh khởi trong tâm, thế nên những khả hữu của chúng cho các nhận biết sáng tỏ hoặc viên minh giác chiếu thì chẳng có giới hạn. (The clarity of mind is its capacity to experience; everything can arise in the mind, so its possibilities for awareness or intelligence are limitless). Thuật ngữ Tây Tạng để phác họa tính đức này được gọi là ‘sự vắng mặt của sự ngăn chặn’ (‘absence of impediment’). Đây là tự do của tâm để trải nghiệm mà không có chướng ngại. Ở mức độ thanh tịnh, những trải nghiệm này có những tính đức của giác ngộ (enlightenment); Ở mức độ nhân duyên, chúng là những nhận thức của tâm của mỗi sự- sự vật-vật trong trạng thái này hoặc kia; đó là, cái khả năng để phân biệt rành rẽ, để nhận thức, và suy nghĩ, tưởng tượng về tất cả sự sự vật vật.

Để trở lại tỉ dụ của chiêm bao, tính đức tự nhiên của nhận biết phân biệt rành rẽ không bị ngăn chặn sẽ là, bởi vì tính rỗng thông chân không diệu viên mở ra các khả hữu cho hiển hiện và tính quang minh giác chiếu-- khả năng của nó để trải nghiệm tính vạn thù sai biệt của những phương diện của chiêm bao, cả những nhận thức của chủ thể chiêm bao và những trải nghiệm của thế giới được chiêm bao. Tính quang minh giác chiếu là cái cho những trải nghiệm cơ hội, phương tiện sinh khởi, trong khi đó tính phân biệt vô ngạitính toàn thể của tất cả những phương diện được trải nghiệm một cách phân biệt rành rẽ.

(To return to the example of the dream, mind’s inherent quality of sensitivity would be, because of its openness and clarity, its ability to experience the multiplicity of aspects of the dream, both the perceptions of the dreaming subject and the experiences of the dreamed world. Clarity is what allows experiences to arise, whereas sensitivity is the totality of all aspects distinctly experienced)

Tính phân biệt vô ngại này tương ứng, ở mức độ nhị nguyên đối đãi, tập quán, tất cả những kiểu loại của những tâm niệm và những cảm xúc đang sinh khởi trong tâm và, ở mức độ thanh tịnh của một vị phật, để trở thành tất cả trí tuệ bát nhã hoặc những tính đức giác ngộ đi vào thực hành để cứu độ những hữu tình.

Thế nên, tâm thanh tịnh có thể được hiểu như sau: về bản chất căn bản: chân không diệu viên -- rỗng thông mở ra các khả hữu cho các hiển hiện, về bản chất: quang minh giác chiếu, về các phương diện của nó: phân biệt vô ngại. Ba phương diện này, chân không diệu viên, quang minh giác chiếu, và phân biệt vô ngại, không li cách nhưng đồng thời. Chúng là những tính đức đồng thờikết hợp của tâm đã tỉnh thức (the awakened mind).

Ở mức độ thanh tịnh, những tính đức này là trạng thái của một vị phật; ở mức không thanh tịnh của vô minhngu si vô trí, chúng trở thành tất cả những trạng thái của tính giác bị lệ thuộc nhân duyên, tất cả những trải nghiệm của sinh tử tương tục.

Nhưng khi tâm được giác ngộ hoặc bị huyễn tượng, không có một sự-sự vật-vật nào vượt ngoài tâm, và tâm về bản chất căn bản thì như nhau trong tất cả hữu tình, loài người hoặc loài khác người. Tính Phật, với tất cả những năng lựctính đức giác ngộ của nó, thì đều hiện diện trong mỗi hữu tình. Tất cả những tính đức của một vị phật thì ở trong những tâm của chúng ta, mặc dầu bị bao phủ hoặc ngăn che, cũng hoàn toàn giống như ở trong trạng thái một khung kính cửa sổ vốn vẫn trong suốt và trong mờ nhưng một lớp phủ dày dặc cát bụi đã làm thành mờ đục.

Tịnh hoá, hoặc sự trục xuất những cái bất tịnh, cho tất cả những tính đức đã giác ngộ hiện diện trong tâm cơ hội, phương tiện được hiển hiện.

Thực sự, tâm của chúng ta có một chút tự do và một ít tính đức tích cực bởi vì nó bị lệ thuộc nhân duyên do bởi nghiệp của chúng ta, hoặc những tập khí của chúng ta từ thời quá khứ.

Tuy nhiên, dần dần, những sự thực hành Phápthiền định tạo tự do cho tâm và đánh thức tâm để trở thành tất cả những tính đức của một vị phật. 

------------------------------------

Kalu Rinpoche

The Nature of Mind

All phenomena are projections of the mind.

Mind is not ‘a’ mind, the mind is empty in essence.

Although empty, everything constantly arises in it.

Through the deepest examination of the mind may we find its innermost root.

--- The Third Karmapa, Wishes of Mahamudra

 -------------------------------------------------------------------------------

The actual experience of the essential nature of mind is beyond words. To wish to describe it is like the situation of a mute who wants to describe the flavor of a candy in his mouth: he lacks an adequate means of expression. Even so, I would like to offer some ideas that hint at this experience.

The nature of pure mind can be thought of as having three essential, complementary, and simultaneous aspects: openness, clarity, and sensitivity.

OPENNESS

Mind is what thinks: ‘I am, I want, I don’t want’; it is the thinker, the observer, the subject of all experiences. I am the mind. From one point of view, this mind does exist, since I am and I have a capacity for action. If I want to see I can look; if I want to hear, I can listen; if I decide to do something with my hands, I can command my body, and so on. In this sense, the mind and its faculties seem to exist.

But if we search for it, we cannot find any part of it in us, not in our head, our body, or anywhere else. So from this other perspective,it seems not to exist. Therefore, on the one hand, the mind seems exist, but on the other, it is not something that truly exists.

However exhaustive our investigations, we will never be able to find any formal characteristics of mind : it has neither dimension, color, form, nor any tangible quality. It is in this sense that it is called open, because it is essentially indeterminate, unqualifiable, beyond concept, and thus comparable to space. This indefinable nature is openness, the first quality of mind. It is beyond illusory consciousness that causes us to experience mind as a ‘me’ possessing characteristics we habitually attribute to ourselves.

But we must be careful here! Because to say mind is open like space is not to reduce it to something nonexistent in the sense of being nonfunctional. Like space , pure mind cannot be located, but it is omnipresent and all-penetrating; it embraces and pervades all things. Moreover, it is beyond change, and its open nature is indestructible and atemporal.

 CLARITY

If the mind is indeed essentially open, in the sense explained above, it is not only open or void, because if it were, it would be inert and would not experience or know anything, neither sensations nor joy and suffering. Mind is not only open—it possesses a second essential quality, which is its capacity for experiences, for cognition. This dynamic quality is called clarity. It is both the lucidity of mind’s intelligence and the luminosity of its experiences.

To better our understanding of clarity, we can compare the openness of mind to the space in a room we are in. This formless space allows for our experience; it contains experience in its totality. It is where our experience took place. Clarity, then, would be the light that illuminates the room and allows us to recognize different things. If there were only inert empty space, there would be no possibility for awareness.This is only an example, because clarity of mind is not like the ordinary light of the sun, the moon, or electricity. It is a clarity of mind that makes possible all cognition and experience.

The open and luminous nature of mind is what we call the ‘clear light’; it is an open clarity that, at the level of pure mind, is aware in and of itself; that is why we call it self-luminous cognition or clarity. 

There is no truly adequate example to illustrate this clarity at a pure level. But at an ordinary level, which we could relate to more easily,we can get a glimpse of some of its aspects by understanding one of mind’s manifestations – the dream state. Let’say it is a dark night, and in this total darkness we are dreaming, or experiencing a dream world. The mental space where the dream took place – independent of physical place where we are –could be compare to the openness of mind, while its capacity for experiencing, despite the external darkness, corresponds to its clarity.

This lucidity encompasses all mind’s knowledge and is the clarity inherent in these experiences. It is also the lucidity of what or who experiences them; knower and known, lucidity and luminosity are but two facets of the same quality.

As the intelligence that experiences the dream, it is lucidity, and as the clarity present in its experiences, it is luminosity. But at the nondual level of pure mind, it is one and the same quality, ‘clarity’, called ‘prabhasvara’ in Sanskrit, or selwa in Tibetan. This example may be helpful in understanding, but bear in mind that it is just an illustration showing at a habitual level a particular manifestation of clarity.

In the example, there is a difference between the lucidity of the knower and the luminosity of that subject’s experiences. This is because the dream is a dualistic experience, differentiated in terms of subject and object, in which clarity manifests itself at once in the awareness or lucidity of the subject and in the luminosity of its objects.

In fact, the example is limited, because fundamentally there is no duality in pure minds: it is the same quality of clarity that is essentially nondual.

SENSITIVITY

For a complete description of pure mind, a third aspect should be

added to the first two qualities already disscussed, which is sensitivity or uimpededness. The clarity of mind is its capacity to experience; everything can arise in the mind, so its possibilities for awareness or intelligence are limitless. The Tibetan term that designates this quality literally means ‘absence of impediment’. This is the mind’s freedom to experience without obstruction. At a pure level, these experiences have the qualities of enlightenment. At a conditioned level , they are the mind’s perceptions of each thing as being this or that ; that is, the ability to distinguish, perceive, and conceive of all things.

To return to the example of the dream, mind’s inherent quality of sensitivity would be, because of its openness and clarity, its ability to experience the multiplicity of aspects of the dream, both the perceptions of the dreaming subject and the experiences of the dreamed world. Clarity is what allows experience to arise, whereas sensitivity is the totality of all aspects distinctly experienced.

This sensitivity corresponds, at the habitual, dualistic level, to all the types of thoughts and emotions arising in the mind and, at a pure level of a buddha, to all wisdom or enlightened qualities put into practice to help beings.

So, pure mind can be understood as follows: in essence, open; in nature, clear; and in its aspects, an unimpeded sensitivity. These three facets, openness, clarity, and sensitivity, are not separate but concomitant.They are the simultaneous and complementary qualities of the awakened mind.

At the pure level, these qualities are the state of a buddha; at the impure level of ignorance and delusion, they become all the states of conditioned awareness, all the experiences of samsara. But whether the mind is enlightened or deluded, there is nothing beyond it, and it is essentially the same in all beings, human or nonhuman. Buddha nature, with all its powers and enlightened qualities, is present in each being.All the qualities of a buddha are in our minds, though veiled and obscured, just as a windowpane is naturally transparent and translucent but made opaque by a dense coat of dirt.

Purification, or the removal of these impurities, allows all the enlightened qualities present in the mind to be revealed.

Actually, our mind has a little freedom and few positive qualities because it is conditioned by our karma, or our habitual imprints from the past.

Little by little, however, the practices of Dharma and meditation free the mind and awaken it to all the qualities of a buddha.

--------------------------------------------------------------------------------- 

Kalu Rinpoche

Practices at the Moment of Death

Without thinking that death will come, I am absorbed in plans for the future.

After having done the many and futile activities of this life,

I will leave utterly empty-handed.

What a blunder; as I will certainly need an understanding of the excellent Dharma.

So why not practice now?

Padmasambhava. The Tibetan Book of the Dead

------------------

We do not become free at death. Since karma conditions our mind, it determines the course of our bardo experience and the rebirth we will take. What is most important is our karma and our inner experience.This is why it is essential to become aware of the need for spiritual work from now on: study, devotion to practice, living according to discipline based on an understanding of karma, and cultivating the practices that will help us at the time of death.

Liberating Practices in the Different Bardos

The theorical durations of the bardos are: for the bardo of death, the time it takes to finish a meal; for the bardo of emptiness, three and a half days; and for the bardo of becoming, forty-nine days.

These, however, are very general approximations. The duration of the different bardos varies according to the power of the positive and negative actions that make up the individual’s karma; however, it is not calculated according to the twenty-four hour day of the human realm. Liberation can also occur after an indeterminate period of time. It is also possible for there to be no bardo at all.

On the basis of Dharma practice in general, if certain practices are mastered during our lifetime, we can gain liberation while passing through the different bardos at the moment of death and after.

If we have realized mahamudra, or the nature of mind, during our lifetime, we can, at the end of the bardo of death, recognize the clear light and achieve liberation. Instead of the state of ordinary consciousness, the luminous essence of this mind appears, which like the light of a torch, completely dissipates the darkness of ignorance. If we practiced with a yidam or meditational Buddha such as Chenrezig, the buddha of compassion, recited his mantra, and developed a good meditation practice, this would be especially precious at the time of death. Such a practictioner might encounter Chenrezig’s blessing as well as the mental habits and positive imprints left on the mindstream from doing that practice. The stages of the sadhana have the power to liberate us during the bardos. We can gain liberation at any one of these stages, really become Chenrezig, and be born in his presence in a pure land.

There are also specific meditations and instructions on the bardos, such as those of The Tibetan Book of the Dead. These meditations and instructions allow for liberation at different stages of the bardos, by helping us to recognize the nature of the bardos and in particular the illusory nature of the appearances encountered in the bardo of becoming. These instructions are applied from the moment of total unconsciousness in the bardo of emptiness, when one awakens to fleeting manifestations of luminous forms and divinities, and for the entire duration of the bardo of becoming.

If we have not realized the clear light, meditated with a yidam, or practiced the bardo teachings, it is still possible to do a phowa, or transference of consciousness at the moment of death. Phowa allows the consciousness to be transferred to a state free from samsara. If it is practiced successfully during the moment of the bardo of death, the consciousness will not be carried through the bardos of emptiness or becoming. Instead, it will be immediately projected toward a higher realm. This is possible because of training in the life or through the compassion of a qualified lama who performs a phowa on our behalf.

In the best-case scenario, which would be completely mastery, this practice allows us to be reborn in what is known as a field of enlightenment, a spiritual state free from samsara and karmic propensities. It is as though we were catapulted directly to Sukhavati’s pure land, Dewa Chen in Tibetan, the realm of great bliss, or if we were a bird able to fly straight to the firmament of enlightenment. Phowa is a meditation that we can do easily, and for that reason it is extremely precious.

Otherwise, if phowa is only halfway mastered, we will take a samsaric rebirth, but in a fortunate celestial realm favourable to liberation. In the worst case, we would take rebirth as a human endowed with conditions favourable for spiritual practice.

Through realization of phowa, liberation takes place without passing through bardos. The absence of bardos, on the other hand, can also occur to people who have committed very serious negative actions whose force is so intense as to propel them straight to a hell realm right after they die, without the reprieve of other bardos.

In general, if we have developed the habit of praying to our lamas, to the Three Jewels, or to a particular aspect of Buddha, the impression on our minds establishes a connection with them and connects us with their blessing, which protects us and leads us to liberation in the bardo of becoming.

WISHES TO BE REBORN IN A PURE LAND

Even if we have not done the specific practices just described or received their instructions, it is still a given that the impressions on our mind determine our death and bardo experience; and prayers and wishes we have made during our lifetime which have saturated our mind can spontaneously lead our mind toward a pure land free from samsara’s conditioning.

Among the many aspects of Buddha toward whom we can direct our minds are Amitabha, Chenrezig, and their enlightenment field, Sukhavati. These are especially important.

Merely wishing to be reborn in Sukhavati while we are alive will cause us to be actually reborn there, rather than going to an ordinary physical place. In fact, this life’s fully matured “karmic body” is made of substantial elements with which we identify, and these prevent the mind from freely going where it wishes. On the contrary, in the bardo of becoming, there is no more physical body, but the mental body has the power to move like thought. This is why, by the power of wishes generated by Buddha Amitabha, Chenrezig, and ourselves, we can make a connection that leads our mind toward Sukhavati and causes it to truly be reborn there. This is particularly possible during the first week of the bardo of becoming, when we repeatedly become aware that we are dead, so by the power of the habits established during our lives, we pray to Amitabha and Cherezig to be reborn in Sukhavati; by their power, we can instantly be reborn there. If we regularly utter sincere prayers to be reborn in Sukhavati, we carry with us the aspiration to go there when we die. This aspiration will act on our mind, becoming the means for being reborn there and for achieving liberation more quickly than if we had traveled by plane or rocket!

In the meantime, obstacles to being reborn in Sukhavati can arise. If, for example, our family or spouse weeps over us or demands that we come back to life, or if the attitude of our loved ones provokes our sadness, attachment, or anger, our mind will not be able to direct itself toward Sukhavati because it will be torn between two thoughts: the desire to go to Sukhavati and the memory of those held dear. The strings of attachment can therefore be so restrictive that they negate the impulse to aspire toward Sukhavati. It would be the same if we remained attached to the world we just left, to our possessions or our social status. These ties direct our mind once again toward what we just left behind and cause a detour away from Sukhavati. Luckily, though, there is a method for warding off this danger, and that is to develp the habit from this moment on of considering everyone and everything we are attached to as an actual offering for Amitabha and Chenrezig. The thought that beings and things do not belong to us anymore can neutralize the emotion that otherwise binds us to them. So we can offer to Amitabha and Chenrezig everything we may be attached to; having dedicated that totally, we will retain no attachment whatsoever.

Elderly people whose involvement in Dharma is recent may justifiably think they won’t have time to tackle a lot of profound practices, such as mahamudra and others that lead to enlightenment in this life.They might also tell themselves that they no longer have the capacity or the time to devote themselves to long, difficult practices. This should not discourage them: to have great faith in Amitabha and Chenrezig, to pay sincerely to be born in Sukhavati‘s pure land, and to recite Chenrezig ‘s mantra definitely result in being born there after death.

Birth in Sukhavati is apparitional, which is to say that a being who is reborn there instantly appears before Amitabha and Chenrezig. That direct vision causes us to reach the first bodhisattva bhumi, Sublime Joy, immediately. This state corresponds to initial awakening, after which there is no return to the bonds of samsara. The name of Amitabha ‘s pure land, Sukhavati, means “great bliss” because the mind, free of all samsaric suffering and pain, knows nothing but happiness and joy. To be reborn in this spiritual state puts an end to the cycle of rebirths. There, the mind is freed from karmic obscurations and its enlightened qualities begin to reveal themselves and to work for the benefit of beings. But even if the mind is quite purified of the karmic veils and most of the veils of mental afflictions, subtle obscurations still remain. Nevertheless, it is a state in which we experience important enlightened qualities from which we can help those who remain in samsara.There are many ways to come to help them and guide them toward liberation. In general, there are many fields of enlightenment: at the level of the Truth Body, or dharmakaya; at the level of the Enjoyment Body, or sambhogakaya; or at the level of the Emanation Body, or nirmanakaya. Because of this, it is still subject to certain limitations. For example, in Sukhavati, a certain type of change, or impermanence, remains. These are not the gross impermanence and chang we know in our plane of existence, but a subtler kind.

There are four factors that determine taking rebirth in Sukhavati. The first is to clearly imagine the presence of Sukhavati as well as that of Amitabha and Chenrezig; to develop an intense sense of their actual presence, their magnificence, and their realm, where all appearance are as bright and luminous as though they were made of jewels. The second is our practice of purification and the two accumulations: the purification of negativity and the two accumulations of merit and wisdom. The third is the altruistic motivation of bodhicitta, or the mind of enlightenment. Based on bodhicitta, the fourth factor is the aspiration arising from strong and sincere wishes to be reborn in Sukhavati. Of these four, aspiration is the most important determining factor.

These instructions on Sukhavati are not just a promise for the future; to be convinced of their validity and to put these teachings into practice dispels many kind of suffering in this life. Old age is typically accompanied by a series of problems: eating too much causes trouble, while eating too little causes the other problems; we’re not comfortable in heavy warm clothes, but light ones do not keep us warm enough. On top of the physical inconveniences, our impending death weighs heavily on our mind. On the other hand, if we wish from now on to be born in Sukhavati, and if we have the conviction that our our wishes will come true, old age, rather than tormenting us, becomes a source of joy thanks to the hope of quickly leaving this world for another, better one.

If you can neither do the practices nor generate the wish to be reborn in Sukhavati, you can at least acquaint yourself with the ten positive acts and the ten negative acts. You can strive to adopt those positive actions and abandon the negative ones. Ultimately, that will guide you to a happy human rebirth where you will meet with Dharma and gradually progress on the path to enlightenment.

--------------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha. Wisdom, 1997.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31590)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10518)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11211)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12729)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10800)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16631)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10801)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12009)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11483)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10671)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12321)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11186)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10003)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10322)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11898)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10690)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12358)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9795)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11246)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13825)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9573)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12614)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9686)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10445)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10538)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10307)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9888)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11045)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12001)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10134)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10777)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9533)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9887)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8761)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9488)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14509)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8769)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12542)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10408)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9070)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10552)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9326)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8782)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10497)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9175)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8350)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12010)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9690)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10211)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10223)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19118)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9397)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8967)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9574)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14732)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10074)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8342)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8937)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8966)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8731)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9362)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14579)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9029)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8754)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10515)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8630)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24260)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10155)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11012)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8990)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9458)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7997)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9248)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15334)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10331)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9561)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17430)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21369)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12149)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10227)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19217)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26020)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7970)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14758)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10620)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9527)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18644)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12341)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11871)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10730)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13332)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9365)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15874)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant