Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cuộc đời của tổ sư Long Thọ

06 Tháng Mười 201100:00(Xem: 22504)
Cuộc đời của tổ sư Long Thọ

CUỘC ĐỜI CỦA TỔ SƯ LONG THỌ

Nguyên tác: Biography of Nagarjuna - Alexander Berzin
Tuệ Uyển chuyển ngữ

blankLong Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không từ Văn Thù Sư Lợi, trong khi Vô Trước (cùng với Thiên Thân) truyền thừa những giáo nghĩa bao la của những sự thực hành bồ tát từ Di Lặc.

Long Thọ - Nagarjuna sinh ra trong một gia đình bà la môn chắc chắn khoảng giữa đầu hay đầu thế kỷ thứ hai sau Tây lịch ở miền Nam Ấn Độ, trong vương quốc Vidarbha, ngày nay là vùng Maharashatra và Andhra Pradesh. Ngài đã được tiên đoán trước trong nhiều kinh điển khác nhau, như Kinh Lăng Già. Lúc sinh ra, một vị tiên tri dự đoán ngài sẽ chỉ sống trong bảy ngày, nhưng nếu cha mẹ ngài cúng dường đến một trăm vị sa môn, ngài có thể sống đến bảy tuổi. Lo sợ cho sự sống của ngài, vào lúc bảy tuổi, cha mẹ Long Thọ-Nagajuna đưa ngài đến Đại học Tu viện Na Lan Đà ở miền Bắc Ấn, nơi ngài gặp vị đạoPhật giáo Saraha. Saraha nói với ngài rằng nếu trở thành một vị xuất gia và trì tụng mật ngôn A Di Đà, ngài sẽ sống trường thọ. Long Thọ-Nagajuna làm như thế và rồi thì gia nhập tu viện, nhận một tên là “Shrimanta.”

Tại Na Lan Đà, Long Thọ-Nagajuna học kinh điển hiển giáomật điển tantra với Ratnamati – một hóa thân của Văn Thù Sư Lợi – và, với Saraha, đặc biệt Tantra Bí Mật. Thêm nữa, ngài học thuật giả kim với một vị Bà la môn, và đạt đến khả năng biến sắt thành vàng. Dùng khả năng này, ngài có thể nuôi dưỡng những tu sĩ của Na Lan Đà trong nạn đói. Cuối cùng, Long Thọ-Nagajuna trở thành Viện trưởng của Na Lan Đà. Ở đấy, ngài đã tống xuất tám nghìn tu sĩ, những người không giữ gìn giới luật xuất gia một cách thích đáng. Ngài cũng đánh bại năm trăm người không phải Phật tử trong tranh luận.

Hai người trai trẻ, là hóa thân của những đứa con của long vương, đến Na Lan Đà. Họ có trong họ những hương thơm tự nhiên của trầm hương. Long Thọ-Nagajuna hỏi làm thế nào như thế và họ thú nhận với ngài họ là ai. Long Thọ-Nagajuna rồi thì yêu cầu tinh dầu trầm hương cho bức tượng của nữ Bồ Tát Tara và sự giúp đỡ của dòng dõi rồng để dựng chùa chiền. Họ trở lại thế giới rồng và yêu cầu cha của họ, và ông nói rằng ông chỉ có thể giúp nếu Long Thọ-Nagajuna đến thế giới của họ dưới biển để giảng dạy cho họ. Long Thọ-Nagajuna đã đi, tiến hành nhiều lễ cúng dường, và dạy cho loài rồng.

Long Thọ-Nagajuna đã từng biết rằng loài rồng có bộ Kinh Một Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đathỉnh cầu cho một bản. Khi Đức Phật thuyết giảng về Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, tuệ trí toàn thiện, hay tỉnh thức phân biệt sâu xa, loài rồng đã đem về long cung để bảo quản, chư thiên một bản khác, và những chúa dạ xoa của thịnh vượng một bản nữa. Long Thọ-Nagajuna đem về bản một trăm nghìn bài kệ, mặc dù long chúng giữ hai chương cuối cùng để bảo đảm rằng ngài sẽ trở lại để giảng dạy cho họ xa hơn. Sau này, hai chương cuối cùng được bổ xung vào với hai chương cuối cùng của Kinh Một Trăm Nghìn Bài Kệ Bát Nhã Ba La Mật Đa. Đây là tại sao hai chương cuối cùng của hai văn kiện duyệt lại là giống nhau. Long Thọ-Nagajuna cũng đem về đất sét của rồng và xây dựng nhiều chùa chiền và tháp miếu với nó.

Một lần, khi Long Thọ-Nagajuna đang giảng dạy Bát Nhã Ba La Mật Đa, sáu con rồng đã đến và làm thành một bảo cái phía trên đầu ngài để che ngài khỏi nắng mặt trời. Do bởi điều này, ngài có tên là Long-Naga. Và từ sự kiện khả năng thiện xảo của ngài trong giảng dạy Phật Pháp đi thẳng tới trọng điểm của vấn đề, giống như những mũi tên của nhà cung thủ nổi tiếng Arjuna (tên một anh hùng của Ấn Độ cổ đại trong bộ kinh Ấn giáo Bhagavad Gita), ngài có tên là Arjuna. Vì thế, ngài trở thành được gọi là “Nagarjuna” hay Long Thọ.

Sau này Long Thọ đi lên miền Bắc Hải đảo (Bắc Lục địa) để giảng dạy. Trên đường, ngài đã gặp một số trẻ con đang nô đùa trên đường. Ngài tiên tri rằng một đứa trong chúng, tên là Jataka, sẽ trở thành một vị vua. Khi Long Thọ trở lại từ Bắc Hải đảo, cậu bé trong thực tế đã trưởng thànhtrở thành vị vua của một vương quốc rộng lớn ở Nam Ấn. Long Thọ đã ở lại với vị vua trong ba năm, dạy dỗ ông, và sau đó dành những năm cuối cùng ở những nơi khác trong vương quốc ấy, tại Shri Parvata, ngọn núi thiêng liêng trông xuống ngày nay là Nagarjunakonda [1]. Long Thọ-Nagarjuna đã viết tác phẩm Quốc vương một Tràng Hoa Quý BáuBảo Hành Vương Chính Luận (Ratnavati). Đây cũng là vị vua mà Long Thọ viết tác phẩm Lá Thư Cho Một Người Bạn (Suhrllekha), vua tên là Udayibhadra.

Một số học giả phương Tây xác quyết Vua Udayibhadra với Vua Gautamiputra Shatakarni (trị vì 106- 130 sau Tây lịch) của triều đại Shatavahana (230 trước Tây lịch đến 199 sau Tây lịch), hiện nay là Andhra Pradesh. Một số xác quyết ông với vị vua kế là Vashishtiputra Pulumayi (130 – 158 sau Tây lịch). Thật khó khăn để xác định vị vua này một cách chính xác. Những vị vua triều đại Shatavahana là những người bảo trợ bảo tháp ở Amaravati, nơi Đức Phật thuyết Mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra) lần đầu tiên và nó gần Shri Parata.

Quốc vương Udayibhadra có một người con trai, Kumara Shaktiman, người muốn trở thành vua. Mẹ ông ta nói với ông rằng ông ta sẽ chẳng bao giờ có thể lên ngôi cho đến khi Long Thọ chết, vì Long ThọQuốc vương Udayibhadra có cùng tuổi thọ. Mẹ ông ta nói hãy thỉnh cầu Long Thọ cho thủ cấp của ngài và vì Long Thọ là người rất bi mẫn, không nghi ngờ gì nữa ngài sẽ đồng ý ban cho ông. Long Thọ thật sự đã đồng ý, nhưng Kumara không thể cắt đầu ngài với một thanh gươm. Long Thọ nói rằng trong tiền kiếp, ngài đã từng giết hại một con kiến trong khi cắt cỏ. Như một kết quả nghiệp báo, đầu của ngài chỉ có thể cắt rời với lá của của cỏ kusha. Kumara làm như thế và Long Thọ lìa đời. Máu từ cái đầu bị cắt đứt biến thành sửa và thủ cấp nói, “Bây giờ ta sẽ đi đến Cực Lạc Tịnh Độ, nhưng ta sẽ nhập vào thân thể này lần nữa.” Kumara đưa thủ cấp xa khỏi thân thể, nhưng như được kể lại rằng thủ cấp và thân thể đang đi đến gần lại với nhau mỗi năm. Khi chúng hợp lại, Long Thọ sẽ trở lại và giảng dạy lần nữa. Nói chung, Long Thọ đã sống sáu trăm năm.

Trong nhiều tác phẩm trên chủ đề kinh điểnLong Thọ đã viết là

- Tập Họp Lý Luận, Collections of Reasoning - Nhập Trung Luận
 Madhyamakavata,
- Tập Họp Những Bài Kệ Tán, Collections of Praises.
- Tập Họp Những Giải Thích Mô Phạm, Collections of Explanations.

Sáu Tập Họp của Lý Trí hay Nhập Trung Luận là:

- Những Bài Kệ Căn Bản của Trung Quán Luận, Tỉnh Thức Phân Biệt 
- Discriminating Awareness - Prajna-nama- mulamadhyamaka-karika.

- Tràng Hoa Quý Báu – Precious Galand – Ratnavati.
- Hồi Tránh Luận ThíchBác Bỏ Chống Đối – Vigrahavyavarti.
- Thất Thập KhôngTính Luận – Bảy Mươi Bài kệ Tánh Không – Sunyatasaptati.
- Quãng Phá Kinh Danh – Vaidalya sutra nama.
- Lục Thập Tụng Như Ý Luận – Yuktishashtika.

Bao gồm Tán Dương Kệ Tập là:

- Pháp Giới Tán – Dharmadhatu stava.
- Chân Đế tán – Paramartha stava.
- Siêu Thế Gian tán – Lokatita stava.

Bao gồm Mô Phạm Thích Tập là:

- Giác Ngộ Tâm Luận – Bodhicittavana.
- Tập Kinh Luận – Sutrasamuccaya.
- Lá Thư cho Một Người Bạn – Suhrllekha.

Cũng được cho là của Long Thọ là vài luận giải về mật điển Tantra Bí Mật, bao gồm:

- Phương tiện Thực chứng giản lược – Pindikrta sadhana.

- Phương pháp Thiền quán trên Tầng bậc Đầu tiên của Đại toàn thiện Bí mật tantra phối hợp với nguyên văn của nó - Shri-guhyasamaja-mahayogatantra-utpattikrama-sadhana-sutra- melapaka

- Năm Tầng bậc (Tầng bậc Hoàn tất) – Pancakrama.

Đệ tử nổi tiếng nhất của Long ThọThánh Thiên (Aryadeva) tác giả của Bốn trăm Bài kệ Luận thuyết trên những Hành vi của Du già Bồ tát và vài luận giải của Tantra Bí mật.

[1] Nagarjunakonda (skt): Ðịa danh Phật giáo ở vùng Nam Ấn Ðộ. Theo Giáo sư Bapat trong Hai Ngàn Năm Trăm Năm Phật Giáo, người ta không được biết gì về ngôi tháp lớn ở Nagarjunakonda hay đồi Nagarjunakonda cho đến khi tháp nầy được phát hiện vào năm 1934. Tháp nằm trên mạn phía nam của sông Krishna trong quận Guntur. Ðây cũng là một đại tháp vì có cất giữ di hài của Ðức Phật, và có lẽ được xây vào thời vua A Dục. Tháp được tân tạo và xây cất bổ sung bởi Santisiri cùng các mệnh phụ khác trong hoàng tộc. Những người nầy được xem là đã có công giúp cho Phật giáo phát triển tại Andhra trong thế kỷ thứ 3. Tháp nầy ngày nay tuy đã đổ nát nhưng trông còn đồ sộ hơn tháp ở Amaravati. Hàng trăm công trình điêu khắc thực hiện theo phong cách Amaravati đã được tìm thấy tại đây. Qua các dòng chữ khắc trên các cây trụ Ayaga, người ta thấy rõ rằng Nagarjunakonda, thành phố cổ của Vijayapuri, có tầm quan trọng to lớn của một trung tâm Phật giáo đã có danh tiếng quốc tế. Nhiều tu viện đã được xây cất tại nơi nầy để làm nơi trú ngụ cho tu sĩ Phật giáo thuộc các tông phái khác từ nhiều nước đến như Tích Lan, Kashmir, Gandhara, Trung Hoa, vân vân. Người dân Andhra giao thương với cả trong nước và nước ngoài, họ đã có sự tiếp xúc sâu xa với xã hội La Mã thời ấy. Ðiều nầy được chứng minh qua sự phát hiện những bản khắc và công trình điêu khắc mô tả một chàng lính râu ria mặc áo chẽn, quần tây, và nhiều vật dụng khác có nguồn gốc từ La Mã. Tại Andhra, các nơi như Guntapali, cách ga xe lửa Ellore chừng 28 dặm, và Sankaram, cách Anakapalli một dặm về phía Ðông, là những địa điểm nổi tiếng vì các công trình kiến trúc trong đá. Các địa điểm khác trong vùng lân cận cũng được xem là có tầm quan trọng trong thời đại của Phật giáo, điều nầy được xác nhận qua sự hiện diện của các ngôi tháp cùng các di tích cổ tại đây. Các địa điểm đáng chú ý nhất trong số nầy là Goli, Chezarta, Gummatia, Bezwada, Garikapadu, Uraiyur, Kuvain, Chinve và Vidyadharpur. (Từ điển Phật học Thiện Phúc)

Biography of Nagarjuna
Alexander Berzin 
February 2006
Tuệ Uyển chuyển ngữ
08-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20403)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22294)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18746)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 26985)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18698)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19918)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38050)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20129)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28285)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46292)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15411)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65624)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13718)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18613)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15524)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14556)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18707)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12614)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17641)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25450)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38687)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17684)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11219)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18578)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17391)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13195)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13301)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17521)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24286)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12363)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13795)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12983)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12879)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14152)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14612)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21086)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22606)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29960)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13852)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18221)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17040)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12614)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30716)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22782)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14620)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12990)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12731)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12500)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13048)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16299)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15182)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23827)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16162)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28974)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20269)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15544)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37214)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45011)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36872)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant