Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ba thời chuyển pháp luân

11 Tháng Mười 201100:00(Xem: 11732)
Ba thời chuyển pháp luân

BA THỜI CHUYỂN PHÁP LUÂN

Cư Sĩ Nguyên Giác

Cơ hội để Phật Tử Việt Nam tiếp cận với Phật Giáo Tây Tạng ngày càng nhiều. Kim Cang Thừa đã quen thuộc với một số Phật Tử hữu duyên.

Hàng trăm Phật Tử Việt Nam đã tham dự khóa tu Kalachakra (Thời Luân) do Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền giảng trong 10 ngày giữa tháng 7-2011 tại Washington, D.C.

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII và Tăng Đoàn Truyền Thừa Drukpa đã tới Việt Nam thăm và truyền pháp Mật Tông từ ngày 14-3-2010 đến ngày 4-4-2010 theo lời mời của Thành Hội Phật giáo Hà Nội. Các năm trước đó, Ngài Drukpa cũng đã nhiều lần thăm VN.

Tháng 12-2009, phái đoàn Phật giáo Tây Tạng thuộc dòng truyền thừa Geluk, dưới hướng dẫn của Trưởng Lão Lạt Ma Dhakpa Tulku Rinpoche, đã tới thăm VN.

Câu hỏi nơi đây là, tại sao có những dị biệt thấy rõ giữa các truyền thống Phật Giáo, và chúng ta nên tu học ra sao khi phải lựa chọn một pháp tu? Hay phải chăng, như lời Phật dạy, các giáo pháp của Đấng Thế Tôn chỉ có một vị là giải thoát?

 

Điểm quen thuộc nhất với Phật Tử VN là khi quý sư Tây Tạng giảng về Bát Nhã Tâm Kinh, một bài kinh xuất hiện trong bất kỳ nghi thức nào của Phật Giáo Bắc Tông. Khi giảng về bài Tâm Kinh, quý sư Tây Tạng thường nhắc rằng đó là giáo pháp thời kỳ thứ nhì, khi Đức Phật dạy về Tánh Không.

Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không; thời kỳ thứ ba, dạy về Phật Tánh.

Có thể giải thích ngắn gọn rằng, thời kỳ đầu, Đức Phật dạy rằng có Khổ để xa lìa; thời kỳ thứ nhì, Đức Phật dạy về Tánh Không, rằng vốn thật không hề có Khổ Tập Diệt Đạo nào cả; và thời kỳ thứ ba, Đức Phật dạy rằng tâm chiếu sáng trong Tánh Không đó chính thực là Phật Tánh.

Như thế, chúng ta nên tu làm sao, khi phải đứng giữa những ngã ba, ngã tư, ngã bảy giáo pháp như thế? Thêm nữa, càng nhìn kỹ vấn đề lại càng nhìn thấy nghìn trùng hung hiểm: nghiêng lệch qua trái một chút, có thể sẽ chấp vào hư vô luận; nghiêng lệch qua phải một chút, lại xa lìa giáo pháp Vô Ngã, cơ nguy chấp vào kiểu linh hồn của ngoại đạo. Do vậy, biết Trung Đạo là đúng, nhưng thế nào là Trung Đạo?

 

Nơi đây, chúng ta thử đọc lại cuốn Vô Môn Quan, một tác phẩm lớn của PG Bắc Tông, nơi tắc thứ 41, ngài Huệ Khả (487-593) năm 40 tuổi tới Thiếu Lâm Tự tham vấn Bồ Đề Đạt Ma. Theo truyền thuyết, Bồ Đề Đạt Ma chỉ im lặng nhìn vách núi, để mặc Sư đứng trong tuyết băng nhiều ngày. Thế rồi Huệ Khả lấy dao tự chặt cánh tay trái dâng Bồ Đề Đạt Ma để tỏ quyết tâm cầu đạo.

Huệ Khả nói, “Con không an được tâm, xin thầy an tâm cho con.”

Bồ Đề Đạt Ma nói, “Đưa tâm cho ta, ta sẽ an cho.”

Huệ Khả đáp: “Con không thấy tâm đâu cả.”

Bồ Đề Đạt Ma đáp: “Ta đã an tâm cho con rồi.”

Rồi sau sáu năm tu học với Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Khả được ấn chứng, nhận y báttrở thành Nhị tổ của Thiền tông Trung Quốc.

Chuyện chặt tay hẳn là huyền thoại đời sau kể thêm. Bởi vì thời xưa không có Internet, không có phát thanh, không có báo chí thông tin, lại chuyện trên núi cao, nên các tin đồn thì vô số kể, khi nhiều năm sau được kể lại, từ người này qua người kia. Thêm nữa, khó hình dung là, có dao nào mà tay này chặt đứt phăng được tay kia, và người vừa chặt tay xong lại bình tĩnh hỏi chuyện an tâm nữa.

Nhưng khi nhìn tâm hoài mà “không thấy tâm đâu cả” hiển nhiên là một bước nhảy lớn, khi thấy Tánh Không của tâm, khi các tâm tham sân si đều rớt hết, và ngay cả “tâm muốn làm Phật” cũng không còn tông tích. Và như thế cũng là, Huệ Khả không thấy có cái gì gọi là “tôi” trong tâm, và cũng không thấy cái gì là “của tôi” trong tâm. Nếu dựa theo lý giải của PG Tây Tạng, chúng ta có thể gọi rằng Bồ Đề Đạt Ma truyền pháp cho Huệ Khả theo giáo pháp thời kỳ thứ nhì, tức là thấy tự tánh của tâm là Không.

Tuy nhiên, nói như thế lại có vẻ máy móc quá. Bởi vì chúng tathể chất vấn thêm một bậc, vậy rồi “cái gì thấy” cái tâm không đó?

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong tác phẩm Buddha Heart, Buddha Mind (NXB Crossroad, 1999), nơi trang 110, viết rằng Phật Tánh là “ánh sáng trong trẻo nguyên thủy của tâm,” nhưng ngài cảnh giác rằng nó thực sự không xuất hiện độc lập bởi vì nó có bản tánh là rỗng không.

Như thế, nghĩa là, nhìn vào tận cội nguồn của tâm, chỉ thấy Tánh Không và từ đây lưu xuất Trí Tuệ. Như thế, chỉ trong một niệm tâm, hay một tâm vô niệm, hay một niệm vô tâm, hay một cái nhìn trực nhận Tánh Không của tâm, cả ba thời chuyển pháp luân cùng xuất hiện: nơi đó không còn Khổ (thời kỳ thứ nhất), nơi đó là Tánh Không (thời kỳ thứ nhì), và nơi đó là Phật Tánh Trí Tuệ lưu xuất (thời kỳ thứ ba).

 

Đại sư Thanissaro Bhikkhu, một vị sư Nam Tông nổi tiếng, trong bài nhan đề “Emptiness” (Rỗng Không) đăng trên mạng Accesstoinsight.org, đã viết, trích dịch như sau:

“Rỗng không là một trạng thái của nhận thức, một cách nhìn vào kinh nghiệm. Nó không thêm gì vào và không lấy bớt đi từ dữ kiện tươi (chưa thanh lọc) về các sự kiện vật lýtinh thần. Bạn nhìn vào các sự kiện trong tâm và [nhìn vào] các cảm giác với không một niệm suy nghĩ nào về có phải có cái gì nằm bên dưới chúng...

Hãy lấy một thí dụ, rằng bạn đang tập thiền, và thấy xuất hiện một cảm giác sân giận đối với mẹ của bạn. Lập tức, phản ứng của tâm là đặt căn cước cho nỗi giận này là nỗi giận “của tôi,” hay là nói rằng, “tôi” nổi giận. Rồi nó nghiền ngẫm về cảm giác này, hoặc là dẫn vào câu chuyện quan hệ giữa bạn và mẹ, hay là tới cái nhìn tổng quát của bạn về khi nào và nơi đâu mà cơn giận đối với mẹ có thể là đúng đắn. Vấn đề với tất cả chuyện này, theo quan điểm Đức Phật, là những câu chuyện đó và các cái nhìn đó [của bạn về mẹ] dẫn tới nhiều đau khổ. Bạn càng dính vào chúng, bạn càng lệch ra ngoài việc nhìn vào nguyên nhân thực sự của đau khổ: việc đặt nhãn hiệu “tôi” và “của tôi” và như thế là cho cả tiến trình lưu chuyển [với đau khổ]. Do vậy, bạn không thể tìm ra cách thoát ra nguyên nhân đó, và để mang đau khổ tới sự kết thúc.

Tuy nhiên, nếu bạn có thể ứng dụng trạng thái rỗng không -- bằng cách đừng hành động, hay đừng phản ứng gì với cơn giận, mà chỉ đơn giản nhìn nó như một chuỗi sự kiện, trong nó và của nó -- bạn có thể thấy rằng cơn giận đó thì trống rỗng, không chứa bất cứ thứ gì đáng đặt căn cước cho nó, hay đáng để lưu chuyển. Khi bạn thành thạo việc ứng dụng trạng thái rỗng không liên tục, bạn thấy rằng sự thật này không chỉ ở nơi cảm giác thô như cơn giận, mà cũng cho cả các sự kiện vi tế nhất trong cõi kinh nghiệm của bạn. Đó là cảm giác trong đó vạn pháp đều rỗng không.” (hết trích dịch)

 

Như thế, chỉ trong một niệm tâm, chúng ta thấy cả ba thời giáo pháp của Đức Phật cùng xuất hiện: nơi đó, Khổ biến mất; nơi đó, Tánh Không của tâm hiển lộ; và cũng nơi đó, cái thấy trong trẻo của Trí Tuệ hiển lộ.

Do vậy, nếu trọn ngày luôn giữ tâm như thế, chúng ta sẽ không còn thắc mắc về những cách phân chia phức tạp của các thời kỳ chuyển pháp luân. Và rồi, khi nghe lời giảng từ các vị sư – dù ở các truyền thống Bắc Tông, Nam Tông, hay Kim Cang Thừa (PG Tây Tạng)... -- chúng ta cũng có thể đưa cách tu học trở về một niệm tâm như thế, vừa đơn giản, vừa thực tiễn, và vừa xa lìa mọi đau khổ.

Bất kỳ ai cũng có thể tu tập ba thời chuyển pháp luân này. Chỉ cần trong mọi thời đi đứng nằm ngồi, cảm nhận toàn thân, hơi thở dịu dàng, lòng không khởi niệm, lẳng lặng nhìn tâm.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31575)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10504)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11207)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12717)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10793)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16613)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10792)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11998)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11474)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10669)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12312)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10315)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11897)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10685)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12351)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9789)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11243)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13823)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12607)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9681)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10439)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10537)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10296)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9883)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11037)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11992)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10132)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9531)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9883)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8757)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14502)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8763)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12538)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10403)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9058)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10544)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9321)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8778)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10493)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9171)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8347)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12008)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9687)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10218)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19105)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9384)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8963)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9570)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9009)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10072)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8338)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8957)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8728)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9351)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14568)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9023)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8748)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9026)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10511)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8625)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24253)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10153)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11006)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8987)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9455)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9229)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15326)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10321)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19211)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25999)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7960)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14734)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10618)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11339)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9524)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18627)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11862)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13323)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15856)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant