Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền sư trong phòng thí nghiệm

14 Tháng Mười 201100:00(Xem: 13806)
Thiền sư trong phòng thí nghiệm

THIỀN SƯ TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM

Matthieu Ricard

blankNhiều người nói thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa học và Thiền quán.

 

Hai mươi năm trước đây hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu não bộ tin rằng não bộ của một người trưởng thành không còn có thể thay đổi và không có tế bào não mới nào sinh sản thêm khi não bộ đã trưởng thành. Có thể có những phương pháp tạm thời nhằm tăng cường hay phát động những liên hoạt động liên hệ giữa các tế bào não, trong khi số lượng tế bào não càng ngày càng suy thoái theo tuổi tác. Những thay đổi não bộ thường xảy ra khi người ta còn ‘trẻ’. Hiện nay có nhiều ý kiến mới và các nhà khoa học nghiên cứu não bộ tin rằng não bộ sinh trưởng uyển chuyển (Neuro-plasticity) hơn là chúng ta nghĩ , nghĩa là não bộ tiếp tục biến đổi theo với kinh nghiệm sống và các tế bào não tiếp tục được sinh sản và tăng cường những hoạt động liên hệ giữa các tế bào não, tăng cường các hoạt động giữa các tế bào hiện có và sinh sản các tế bào mới.

Trong một nghiên cứu, Fred Gage và các đồng nghiệp tại Salt Institute ở bang California, nghiên cứu phản ứng của chuột cho biết là não bộ của chuột sinh sản thêm nhiều tế bào não khi được chuyển qua sống trong một môi trường mới, từ một cái một cái lồng trơ trọi qua một nơi khác có gắn bánh xe cho chuột tập thể dục, có những đường hầm để chuột thám hiểm và có nhiều bạn để chuột chơi đùa. Kết quả thật bất ngờ: chỉ trong vòng 45 ngày, số lượng tế bào não tăng lên trong vùng não thùy hippocampus, nơi lưu trữ các tế bào não được chế biến và xử lý những kinh nghiệm kỳ thú- tăng thêm 15%, ngay cả trong não bộ của các con chuột già!

Điều này có xảy ra cho não bộ người như trong não bộ chuột không? Tại Thụy Điển Peter Ericksson nghiên cứu việc hình thành các tế bào não mới trong các bệnh nhân bị ung thư. Khi các bệnh nhân này qua đời não của họ được giải phẫu cho thấy cũng như trong loại chuột, tế bào não mới đã được tạo ra và tàng trữ khu não Hippocampus.

Các nhà khoa học thần kinh não bộ hiện nay nhận thấy là việc sinh sản các tế bào não suốt đời là một chuyện có thể xảy ra, như Damien Coleman nhận xét trong tác phẩm Destructive Emotions (Những tình cảm độc hại): (Khi chụp não) của các nhạc sĩ chơi vĩ cầm thực tập đàn mỗi ngày trong nhiều năm, một mô thức sinh sản tế bào não uyển chuyển xuất hiện (Neuroplasticity). Các máy chụp não cộng hưởng từ trường MRI cho thấy là, vùng não điều khiển các ngón tay chơi đàn tăng trưởng và các vùng não điều khiển các ngón tay của những người thực tập đàn từ lúc nhỏ cũng thay đổi.

Cũng thế việc nghiên cứu một số vùng não bộ của những người chơi cờ tây (Chess) và các lực sĩ thế vận cũng cho thấy vùng não điều khiển các hoạt động liên hệ cũng thay đổi. Và câu hỏi căn bảnnếu một người tình nguyện thực tập để làm giàu tâm linh bằng thiền quán, các vùng não bộ liên hệtăng trưởng không?

Đó là chính mục tiêu mà nhà khoa học thần kinh não bộ, Richie Davidson, và các đồng nghiệp của ông đang nghiên cứu tại phòng thí nghiệm W.M. Keck về Chụp Hình Não Bộ và Hành vi tại Đại Học Wisconsin- Madison (Hiện nay có tên mới là Phòng thí nghiệm Waisman về Chụp Hình Não Bộ và Hành Vi).

Cuộc gặp gỡ kỳ thú

Các công trình nghiên cứu này khởi đầu từ một nơi cách xa đây một nửa địa cầu, tại chân núi Hy Mã Lạp SơnẤn Độ, trong một ngôi làng nhỏ nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt cơ sở của chánh phủ Tây Tạng Lưu Vong, sau khi Trung Quốc xua quân vào xâm chiếm vào năm 1959. Vào mùa thu năm 2000, một nhóm các Khoa Học gia hàng đầu về Thần Kinh Não Bộ họp mặt trong 5 ngày và thảo luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma về ảnh hưởng của Thiền trên Não Bộ. Đây là lần họp thứ 10 trong một chuỗi các buổi họp đáng ghi nhớ, giữa các khoa học thần kinh não bộ và Đức Đạt Lai Lạt Ma, đã được tổ chức từ năm 1985, do viện Tâm và Đời Sống (Mind and Life) bảo trợ, do sáng kiến của nhà khoa học Francisco Varela, một nhà nghiên cứu tiên phong trong khoa học về tri thức.

Đề tài là Tình Cảm Phá Hoại (Destructive Emotions) và tôi (Matthieu Ricard) được giao phó trách nhiệm trình bày quan điểm của Phật Giáo dưới sự giám sát của Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi có cảm tưởng như mình đang bị khảo hạch trong một kỳ thi tại trường. Sau lần gặp gỡ ngoạn mục này, Daniel Coleman kể lại trong Destructive Emotions, một vài chương trình khác được tung ra để về nghiên cứu về phát triển của vùng não của những cá nhân đã thực hành thiền quán lâu hơn 20 năm.

Bốn năm sau đó, vào tháng 11 năm 2004, các tạp chí khoa học có uy tín như Báo Cáo Nghiên Cứu của Viện Khoa Học Quốc Gia (Mỹ) lần đầu công bố những công trình nghiên cứu về tác động của Thiền Quán lên não bộ. Các trình trạng xảy ra trong các giai đoạn thiền quán trước đây thường được diễn đạt qua các kinh nghiệm cá nhân, lúc đó được trình bày bằng ngôn ngữ khoa học.

Hiện nay có 12 thiền sư có nhiều kinh nghiệm, gốc Á Châu và Âu Châu trong truyền thống Tây Tạng (8 người gốc Á và 4 người gốc Âu, tăng sĩ lẫn cư sĩ) đã được Richard Davidson và Antoine Lutz, học trò của nhà khoa học não bộ lừng danh Francisco Varela, cộng tác nghiên cứu. Những thiền sư tham dự cuộc nghiên cứu này ước tính là đã từng thực tập Thiền từ 10 ngàn đến 40 ngàn giờ, từ 15 năm đến 40 năm, được so sánh với như ‘nhóm kiểm soát’, gồm 12 thiền sinh tập sự thuộc các nhóm tuổi khác nhau. Những người trong nhóm này chỉ được dạy và thực hành Thiền trong vòng 1 tuần lễ.

Thiền sư trong phòng thí nghiệm

blankTôi (Matthieu Ricard) là một người tình nguyện tham dự thí nghiệm đầu tiên (guinea pig). Một thủ tục được chấp nhận, trong đó người thực hành thiền thay đổi qua lại giữa trạng thái đang thiền địnhtrung lập. Trước tiên các trạng thái này đã được thử nghiệm, và có 4 trạng thái được chọn lựa để nghiên cứu: Thiền từ bi, Định (focused attention) chánh niệm (open presence) và quán tưởng hình tượng.

Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, để tâm bị tràn ngập bởi lòng thương lớn, không có giới hạn trên đối tượng đặc biệt nào. Trong khi đó Định đòi hỏi sự chăm chú đến một đối tượng đặc biệt đã được chọn lựa nào đó và dùng như một cái neo, và khi nào tâm đi lạc đường nhảy lung tung, thì dẫn tâm trở về cái neo đó. Đối tượng của định phải rõ ràng (ví dụ tượng Phật), im lặng, và vững vàng. Tránh những đối tượng dễ sinh ra cảm giác nhàm chán hay khiến ý tưởng dễ bị lạc hướng vì bị kích thích.

Đối tượng chánh niệm rộng rãi hơn, mở rộng, bao la và nếu tâm bị đi lạc thiền sư dùng ý thức để trở về hơi thở. Thiền chánh niệm thực ra không trụ ở chỗ nào, không để Tâm đi lạc, hoàn toàn an trú trong hiện tại. Khi có ý tưởng nào mới nổi dậy, người thực hành Thiền không ngăn chận chúng, nhưng chỉ để chúng biến mất tự nhiên.

Quán tưởng hình tượng là một tâm hành phức tạp. Hành giả hình dung hình tượng, vẻ mặt, quần áo, dáng ngồi hay đứng… và quan sát kỹ càng từng chi tiết hình tượng. Người hành Thiền hình dung toàn thể hình tượngcố gắng quân bình hóa toàn thể hình tượng này.

Những phương pháp thiền quán khác nhau là những cách mà các Thiền sư luyện tập trong nhiều năm, nên phương pháp này đối với họ trở nên ổn định và trong sáng.

Trong phòng thí nghiệm, có 2 cách chính để nghiên cứu hành giả Thiền.

Phương pháp EEGs ghi lại hoạt động của những dòng điện với thời gian chính xác, trong khi máy đo cộng hưởng từ trường (fMRI), đo lượng máu chảy trong nhiều vùng khác nhau của não bộ, cung cấp chính xác những khu nơi các tế bào não đang hoạt động.

blankCác Thiền sư trụ trong trạng thái trung lập của não chừng 60 giây sau đó chuyển sang trạng thái Thiền. Quá trình này được lập đi lập lại nhiều lần. Các dụng cụ đo đạc gồm 256 censors ghi nhận cảm thọ của Thiền sư. Các dòng điện cho thấy sự khác biệt giữa một người mới ngồi Thiền và những Thiền sưkinh nghiệm. Trong lúc thực hành Thiền từ bi, các Thiền sưkinh nghiệm cho thấy các mức hoạt động não tăng lên nhờ các tia sóng gamma. Hiện tượng này trước đây chưa bao giờ được báo cáo trong khoa thần kinh não bộ”, Davidson cho biết.

Người ta cũng thấy các chuyển động của các sóng qua não được phối hợp tốt hơn, nhịp nhàng hơn so với nhóm kiểm soát, mức hoạt động của tia gamma tăng nhẹ khi họ ở trong trạng thái Thiền. Điều này cho thấy là não có thể được huấn luyện được để thay đổi về mặt vật lý mà trước giờ nhiều người khó có thể tưởng tượng ra được. Và các Thiền sư có thể điều hành các hoạt động não một cách có chủ ý”.

Một trong những khám phá thú vị nhất là những vị sư có kinh nghiệm từng thực tập Thiền lâu năm có thể làm khởi động nhiều tia gamma nhất. Điều này khiến Davidson đưa đến kết luận là ‘Thiền không những làm thay đổi hoạt động của não ngắn hạn mà có thể tạo những thay đổi dài hạn”

“Không loại bỏ khả năng những hoạt động não của những người mới hành Thiền và các thiền sư nhiều kinh nghiệm khác nhau trước khi họ thực tập Thiền”. Tuy nhiên có bằng chứng cho thấy có sự khác biệt giữa các thiền sư mới thực tập và các thiền sư kinh nghiệmdo quá trình thực tập. Davidson nói rằng có bằng chứng cho thấy là những nhà sư thực hành Thiền nhiều năm có những thay đổi hoạt động não bộ nhiều nhất cho chúng ta thấy là thay đổi là do thực tập gây ra. Bằng chứng cũng cho thấy là những người thực tập Thiền lâu năm có nhiều tia gamma hơn những người trong nhóm kiểm soát, ngay trong khi não bộ của họ đang trong trạng thái trung lập, trước khi bắt đầu đổi sang trạng thái Thiền. Một tác giả chuyên viết về khoa học, Sharon Begley phê bình: “Điều này mở ra một khả năng thú vị là não bộ, cũng giống như các phần khác của cơ thể, có thể thay đổi một các tự ý. Cũng giống như tập thể dục dưới nước làm bắp thịt thay đổi, luyện tập óc não có thể làm thay đổi chất xám trong những cách mà các nhà khoa học có thể bắt đầu hiểu được.’

Phản xạ giật mình

Giật mình vì tiếng động lớn là một phản ứng tự nhiên sơ khai của cơ thể. Bắp thịt co rút một cách nhanh chóng khi thình lình nghe một tiếng động hay chứng kiến một cảnh kinh hãi bất ngờ. Trong phản xạ giật mình, 5 bắp thịt ở mặt, phần lớn quanh mắt, co lại tức khắc. Toàn bộ phản ứng kéo dài chừng một phần ba giây.

Cũng như các phản xạ khác, đây là một phản ứng phát sinh từ tế bào não và thường không thể kiểm soát hay ngăn chặn được. Và theo những gì khoa học biết đến nay, không có cơ chế nào có thể kiểm soát được phản xạ này. Mức độ nghiêm trọng của những phản ứng tự động đó phản ảnh cho những tình cảm tiêu cực như sợ hãi, giận dữ, buồn bã và kinh tởm. Các tình cảm tiêu cực mạnh chừng đó, phản xạ giật mình càng mạnh chừng đó.

Để thí nghiệm phản xạ giật mình của người thực hành Thiền, Paul Ekman và Robert Levenson, hai tâm lý gia tiên phong nghiên cứu về tình cảm, đã làm việc tại Phòng Thí Nghiệm Tâm Sinh lý tại Đại Học Berkeley. Các phản ứng vật lý của cơ thể người ngồi Thiền như nhịp tim, mức toát mồ hôi, và nhiệt độ của da được đo đạc. Phản ứng của mặt được quay phim để bắt kịp những phản ứng của tâm sinh lý trong phản xạ giật mình. Tiếng nổ thình lình dựa trên mức độ mà con người có thể chịu đựng được như một tiếng nổ lớn tương đương với một tiếng súng bắn bên tai.

Đối tượng thí nghiệm được cho biếttrong vòng 5 phút sẽ có một tiếng nổ lớn. Người này được yêu cầu làm mọi cách để vô hiệu hóa phản xạ giật mình thành một phản ứng không đáng kể, nếu có thể được. Một số người phản ứng tốt hơn một số người khác, nhưng không có người nào áp đảo được phản xạ một cách hoàn toàn - dù là họ cố gắng hết sức. Trong số hàng trăm đối tượng nghiên cứu của Ekman và Levenson thí nghiệm, kể cả cảnh sát chuyên bắn sẽ, không có người nào áp đảo được phản xạ khi nghe tiếng nổ thình lình. Nhưng các người thực hành thiền có thể áp đảo phản xạ này được.

Ekman giải thích: “Khi các thiền sư cố gắng đàn áp phản xạ giật mình, phản xạ này hầu như biến mất. Từ trước đến giờ chúng tôi chưa thấy người nào có thể làm được chuyện này. Đây là một sự kiện hết sức ngoạn mục. Chúng tôi hoàn toàn không biết tại sao các thiền sư có thể dằn được các phản xạ giật mình này!”

Trong lúc thử nghiệm, các thiền sư thực hành hai loại thiền quán: Quán tưởngchánh niệm. Cả hai loại Thiền này đã được rMRI nghiên cứu trước đó tại Madison. Ảnh hưởng tốt nhất là Thiền chánh niệm: “Trong trạng thái chánh niệm, họ không chủ động kiểm soát phản xạ giật mình, nhưng tiếng nổ hình như xảy ra ở một khoảng rất xa nào đó. Do đó tiếng động trở yếu ớt hơn. Ekman mô tả tại sao về phương diện vật lý: mặt của các thiền sư biến đổi, nhưng không có một bắp thịt nào ở mặt cử động. Và đối tượng được thí nghiệm giải thích: “Trong lúc ý thức bị đi lạc, tiếng nổ đem tôi về hiện tại và làm tôi ngạc nhiên. Nhưng không gian hiện tại mở rộng, tôi an trú trong hiện tại và tiếng nổ lớn xảy ra chỉ gây một ít khó chịu; Giống như con chim lướt qua bầu trời”.

Mặc dù bắp thịt trên mặt của các thiền sư không co rút lại khi họ đang ở trong trong thái thiền chánh niệm, nhưng những phản ứng vật lý khác như nhịp tim, đổ mồ hôi, áp huyết… vẫn tăng lên như trong phản xạ giật mình. Điều này cho chúng ta biết là cơ thể có phản ứng, ghi nhận ảnh hưởng của tiếng nổ, nhưng tiếng nổ đó không gây ra phản ứng tình cảm nào trên Tâm. Phản ứng của các thiền sư cho thấy tình cảm của họ trong tình trạng ‘xả’, một đặc tính trong tứ vô lượng tâmPhật Giáo hay nhắc tới như thành quả của việc ngồi thiền.

Viễn tượng huấn luyện tâm linh

Nhà nghiên cứu Coleman viết:

‘Đi tìm một họa đồ …trong đó não bộ có thể huấn luyện được những tình cảm tích cực: hài lòng thay vì tham đắm, an lành thay vì bị khích động, từ bi thay vì sân hận. Dược phẩm là phương tiện chính tại Tây phương để thay đổi tình cảm rối loạn, tuy là rất hiệu nghiệm trong việc thay đổi thay đổi trạng thái tình cảm vui buồn cho hàng vạn (triệu) bệnh nhân. Những thí nghiệm với các Thiền sư đặt ra câu hỏi là: một người qua nỗ lực của chính mình, có thể mang tới những thay đổi tích cực lâu dài bằng cách thay đổi chức năng não bộ có thể có những kết quả tốt hơn dược phẩm trong việc tác động trên tình cảm?’

Về khoa học trí năng, thí nghiệm này không phải chỉ có mục đích chứng tỏ khả năng của một số thiền sư, nhưng giúp cho chúng ta suy nghĩ lại những giả định về tác động của việc huấn luyện tâm linh để tạo ra những tình cảm tích cực. Những gì chúng ta khám phá trong việc huấn luyện tâm linh, hay óc não, về phương diện vật lý, khác với những người chưa được huấn luyện. Đến một lúc chúng ta có thể hiểu những sự quan trọng tiềm ẩn của việc huấn luyện tâm linh và khiến mọi người suy nghĩ nghiêm túc hơn về Thiền quán như là một phương pháp huấn luyện ” Davidson nói: “Điều quan trọng là khám phá ra quá trình huấn luyện tâm linh cho những ai có đủ quyết tâm thực hiện.

Chúng ta tự hỏi là cần bao nhiêu thời gian thực hành thiền quán mới đủ để làm não bộ thay đổi, nhất là trong phương pháp tế nhị như thực hành thiền. Cũng giống như đến mức nào một nhạc sĩ vĩ cầm đã thực tập bao nhiêu giờ mới có đủ khả năng thi vào Viện âm nhạc quốc gia? Phần lớn những thiền sư đang được Luts và Davidsob nghiên cứu đã thực tập 10 ngàn giờ Thiền quán, phần lớn trong các khóa tu hay trong sinh hoạt hàng ngày.

Mười ngàn giờ thực tập Thiền quán đối với nhiều người là một thời gian quá dài, phần lớn chúng ta không mấy ai đạt tới mức này. Tuy nhiên có nhiều tín hiệu đáng khích lệ từ nghiên cứu khác do Jon Kabat Zin và Davidson, các đối tượng thí nghiệm chỉ cần thực tập 3 tháng, não thùy phía trước bên trái của các nhân viên trong một công ty kỹ thuật cao cấp ở Madison thay đổi và cho thấy là có dấu hiệu kích hoạt. Những nghiên cứu của Davidson và các đồng nghiệp trong 20 năm qua cho thấy nhiều người thực tập báo cáo về tình cảm tích cực như ‘hỷ’, ‘vị tha’, ‘nhiệt tâm’, và họ cảm thấy có thêm nhiều sinh lựccảm thấy sinh động vào cuối các thời kỳ huấn luyện. Hệ thống miễn nhiễm của các người được huấn luyện thực tập Thiền cũng tăng lên, các liều chủng ngừa trong mùa trong khóa huấn luyện có hiệu quả hơn 20% so với các chủng ngừa trong các nhóm kiểm soát.

Nói tóm lại viễn tượng dùng Thiền quán để huấn luyện tâm linh để làm cho các tình cảm phá hoại biến mất. Những yếu tố thực dụng trong Thiền Quán có thể rất quý giá trong việc phối hợp với giáo dục thiếu nhi để giúp các em khi trưởng thành sống được một cuộc đời có chất lượng hơn. Những kỹ thuật Thiền Quángiá trị giải quyết cơ chế sâu xa nhất về Tâm của con người, giá trị như thế sẽ có tánh cách phổ quát, không cần phải mang nhãn hiệu Thiền ‘Phật giáo’. Tóm lại sự hợp tác hiện nay giữa khoa học và Thiền quán có thể giúp con người thấy được giá trị vô giá của việc huấn luyện Tâm Linh. Nếu sự quân bình giữa hạnh phúc và tình cảm được thực hiện bằng một khả năng có thể đào tạo, chúng ta không thể nào lượng giá đúng mức quyền lực chuyển hóa của Tâm và phải xem đây những phương pháp sâu xa giúp chúng ta trở thành con người tốt hơn.

Matthieu Ricard
(Chuyển Luân)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15570)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23018)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14046)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12976)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55100)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9162)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14437)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14161)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14199)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13878)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36312)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19873)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18163)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19207)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19137)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20279)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17633)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31523)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15932)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15014)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35930)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21047)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21591)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23393)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34375)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19483)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18943)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22939)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20179)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18362)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19524)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33407)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34474)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54509)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37715)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17871)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63636)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17379)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49651)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27429)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20272)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23025)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18889)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16319)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17911)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20933)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17357)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14466)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16860)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16369)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15993)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17465)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21975)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15097)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13501)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14362)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15384)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14983)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12696)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13348)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27395)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12511)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13186)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16231)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12400)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15412)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12865)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12194)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13195)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21641)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11276)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22720)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15080)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14944)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46179)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14570)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18899)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14728)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43853)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56968)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47480)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13651)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14569)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29005)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33306)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38375)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15396)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31226)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12523)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40385)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46658)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant