Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiền sư trong phòng thí nghiệm

14 Tháng Mười 201100:00(Xem: 13720)
Thiền sư trong phòng thí nghiệm

THIỀN SƯ TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM

Matthieu Ricard

blankNhiều người nói thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa học và Thiền quán.

 

Hai mươi năm trước đây hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu não bộ tin rằng não bộ của một người trưởng thành không còn có thể thay đổi và không có tế bào não mới nào sinh sản thêm khi não bộ đã trưởng thành. Có thể có những phương pháp tạm thời nhằm tăng cường hay phát động những liên hoạt động liên hệ giữa các tế bào não, trong khi số lượng tế bào não càng ngày càng suy thoái theo tuổi tác. Những thay đổi não bộ thường xảy ra khi người ta còn ‘trẻ’. Hiện nay có nhiều ý kiến mới và các nhà khoa học nghiên cứu não bộ tin rằng não bộ sinh trưởng uyển chuyển (Neuro-plasticity) hơn là chúng ta nghĩ , nghĩa là não bộ tiếp tục biến đổi theo với kinh nghiệm sống và các tế bào não tiếp tục được sinh sản và tăng cường những hoạt động liên hệ giữa các tế bào não, tăng cường các hoạt động giữa các tế bào hiện có và sinh sản các tế bào mới.

Trong một nghiên cứu, Fred Gage và các đồng nghiệp tại Salt Institute ở bang California, nghiên cứu phản ứng của chuột cho biết là não bộ của chuột sinh sản thêm nhiều tế bào não khi được chuyển qua sống trong một môi trường mới, từ một cái một cái lồng trơ trọi qua một nơi khác có gắn bánh xe cho chuột tập thể dục, có những đường hầm để chuột thám hiểm và có nhiều bạn để chuột chơi đùa. Kết quả thật bất ngờ: chỉ trong vòng 45 ngày, số lượng tế bào não tăng lên trong vùng não thùy hippocampus, nơi lưu trữ các tế bào não được chế biến và xử lý những kinh nghiệm kỳ thú- tăng thêm 15%, ngay cả trong não bộ của các con chuột già!

Điều này có xảy ra cho não bộ người như trong não bộ chuột không? Tại Thụy Điển Peter Ericksson nghiên cứu việc hình thành các tế bào não mới trong các bệnh nhân bị ung thư. Khi các bệnh nhân này qua đời não của họ được giải phẫu cho thấy cũng như trong loại chuột, tế bào não mới đã được tạo ra và tàng trữ khu não Hippocampus.

Các nhà khoa học thần kinh não bộ hiện nay nhận thấy là việc sinh sản các tế bào não suốt đời là một chuyện có thể xảy ra, như Damien Coleman nhận xét trong tác phẩm Destructive Emotions (Những tình cảm độc hại): (Khi chụp não) của các nhạc sĩ chơi vĩ cầm thực tập đàn mỗi ngày trong nhiều năm, một mô thức sinh sản tế bào não uyển chuyển xuất hiện (Neuroplasticity). Các máy chụp não cộng hưởng từ trường MRI cho thấy là, vùng não điều khiển các ngón tay chơi đàn tăng trưởng và các vùng não điều khiển các ngón tay của những người thực tập đàn từ lúc nhỏ cũng thay đổi.

Cũng thế việc nghiên cứu một số vùng não bộ của những người chơi cờ tây (Chess) và các lực sĩ thế vận cũng cho thấy vùng não điều khiển các hoạt động liên hệ cũng thay đổi. Và câu hỏi căn bảnnếu một người tình nguyện thực tập để làm giàu tâm linh bằng thiền quán, các vùng não bộ liên hệtăng trưởng không?

Đó là chính mục tiêu mà nhà khoa học thần kinh não bộ, Richie Davidson, và các đồng nghiệp của ông đang nghiên cứu tại phòng thí nghiệm W.M. Keck về Chụp Hình Não Bộ và Hành vi tại Đại Học Wisconsin- Madison (Hiện nay có tên mới là Phòng thí nghiệm Waisman về Chụp Hình Não Bộ và Hành Vi).

Cuộc gặp gỡ kỳ thú

Các công trình nghiên cứu này khởi đầu từ một nơi cách xa đây một nửa địa cầu, tại chân núi Hy Mã Lạp SơnẤn Độ, trong một ngôi làng nhỏ nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt cơ sở của chánh phủ Tây Tạng Lưu Vong, sau khi Trung Quốc xua quân vào xâm chiếm vào năm 1959. Vào mùa thu năm 2000, một nhóm các Khoa Học gia hàng đầu về Thần Kinh Não Bộ họp mặt trong 5 ngày và thảo luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma về ảnh hưởng của Thiền trên Não Bộ. Đây là lần họp thứ 10 trong một chuỗi các buổi họp đáng ghi nhớ, giữa các khoa học thần kinh não bộ và Đức Đạt Lai Lạt Ma, đã được tổ chức từ năm 1985, do viện Tâm và Đời Sống (Mind and Life) bảo trợ, do sáng kiến của nhà khoa học Francisco Varela, một nhà nghiên cứu tiên phong trong khoa học về tri thức.

Đề tài là Tình Cảm Phá Hoại (Destructive Emotions) và tôi (Matthieu Ricard) được giao phó trách nhiệm trình bày quan điểm của Phật Giáo dưới sự giám sát của Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi có cảm tưởng như mình đang bị khảo hạch trong một kỳ thi tại trường. Sau lần gặp gỡ ngoạn mục này, Daniel Coleman kể lại trong Destructive Emotions, một vài chương trình khác được tung ra để về nghiên cứu về phát triển của vùng não của những cá nhân đã thực hành thiền quán lâu hơn 20 năm.

Bốn năm sau đó, vào tháng 11 năm 2004, các tạp chí khoa học có uy tín như Báo Cáo Nghiên Cứu của Viện Khoa Học Quốc Gia (Mỹ) lần đầu công bố những công trình nghiên cứu về tác động của Thiền Quán lên não bộ. Các trình trạng xảy ra trong các giai đoạn thiền quán trước đây thường được diễn đạt qua các kinh nghiệm cá nhân, lúc đó được trình bày bằng ngôn ngữ khoa học.

Hiện nay có 12 thiền sư có nhiều kinh nghiệm, gốc Á Châu và Âu Châu trong truyền thống Tây Tạng (8 người gốc Á và 4 người gốc Âu, tăng sĩ lẫn cư sĩ) đã được Richard Davidson và Antoine Lutz, học trò của nhà khoa học não bộ lừng danh Francisco Varela, cộng tác nghiên cứu. Những thiền sư tham dự cuộc nghiên cứu này ước tính là đã từng thực tập Thiền từ 10 ngàn đến 40 ngàn giờ, từ 15 năm đến 40 năm, được so sánh với như ‘nhóm kiểm soát’, gồm 12 thiền sinh tập sự thuộc các nhóm tuổi khác nhau. Những người trong nhóm này chỉ được dạy và thực hành Thiền trong vòng 1 tuần lễ.

Thiền sư trong phòng thí nghiệm

blankTôi (Matthieu Ricard) là một người tình nguyện tham dự thí nghiệm đầu tiên (guinea pig). Một thủ tục được chấp nhận, trong đó người thực hành thiền thay đổi qua lại giữa trạng thái đang thiền địnhtrung lập. Trước tiên các trạng thái này đã được thử nghiệm, và có 4 trạng thái được chọn lựa để nghiên cứu: Thiền từ bi, Định (focused attention) chánh niệm (open presence) và quán tưởng hình tượng.

Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh, để tâm bị tràn ngập bởi lòng thương lớn, không có giới hạn trên đối tượng đặc biệt nào. Trong khi đó Định đòi hỏi sự chăm chú đến một đối tượng đặc biệt đã được chọn lựa nào đó và dùng như một cái neo, và khi nào tâm đi lạc đường nhảy lung tung, thì dẫn tâm trở về cái neo đó. Đối tượng của định phải rõ ràng (ví dụ tượng Phật), im lặng, và vững vàng. Tránh những đối tượng dễ sinh ra cảm giác nhàm chán hay khiến ý tưởng dễ bị lạc hướng vì bị kích thích.

Đối tượng chánh niệm rộng rãi hơn, mở rộng, bao la và nếu tâm bị đi lạc thiền sư dùng ý thức để trở về hơi thở. Thiền chánh niệm thực ra không trụ ở chỗ nào, không để Tâm đi lạc, hoàn toàn an trú trong hiện tại. Khi có ý tưởng nào mới nổi dậy, người thực hành Thiền không ngăn chận chúng, nhưng chỉ để chúng biến mất tự nhiên.

Quán tưởng hình tượng là một tâm hành phức tạp. Hành giả hình dung hình tượng, vẻ mặt, quần áo, dáng ngồi hay đứng… và quan sát kỹ càng từng chi tiết hình tượng. Người hành Thiền hình dung toàn thể hình tượngcố gắng quân bình hóa toàn thể hình tượng này.

Những phương pháp thiền quán khác nhau là những cách mà các Thiền sư luyện tập trong nhiều năm, nên phương pháp này đối với họ trở nên ổn định và trong sáng.

Trong phòng thí nghiệm, có 2 cách chính để nghiên cứu hành giả Thiền.

Phương pháp EEGs ghi lại hoạt động của những dòng điện với thời gian chính xác, trong khi máy đo cộng hưởng từ trường (fMRI), đo lượng máu chảy trong nhiều vùng khác nhau của não bộ, cung cấp chính xác những khu nơi các tế bào não đang hoạt động.

blankCác Thiền sư trụ trong trạng thái trung lập của não chừng 60 giây sau đó chuyển sang trạng thái Thiền. Quá trình này được lập đi lập lại nhiều lần. Các dụng cụ đo đạc gồm 256 censors ghi nhận cảm thọ của Thiền sư. Các dòng điện cho thấy sự khác biệt giữa một người mới ngồi Thiền và những Thiền sưkinh nghiệm. Trong lúc thực hành Thiền từ bi, các Thiền sưkinh nghiệm cho thấy các mức hoạt động não tăng lên nhờ các tia sóng gamma. Hiện tượng này trước đây chưa bao giờ được báo cáo trong khoa thần kinh não bộ”, Davidson cho biết.

Người ta cũng thấy các chuyển động của các sóng qua não được phối hợp tốt hơn, nhịp nhàng hơn so với nhóm kiểm soát, mức hoạt động của tia gamma tăng nhẹ khi họ ở trong trạng thái Thiền. Điều này cho thấy là não có thể được huấn luyện được để thay đổi về mặt vật lý mà trước giờ nhiều người khó có thể tưởng tượng ra được. Và các Thiền sư có thể điều hành các hoạt động não một cách có chủ ý”.

Một trong những khám phá thú vị nhất là những vị sư có kinh nghiệm từng thực tập Thiền lâu năm có thể làm khởi động nhiều tia gamma nhất. Điều này khiến Davidson đưa đến kết luận là ‘Thiền không những làm thay đổi hoạt động của não ngắn hạn mà có thể tạo những thay đổi dài hạn”

“Không loại bỏ khả năng những hoạt động não của những người mới hành Thiền và các thiền sư nhiều kinh nghiệm khác nhau trước khi họ thực tập Thiền”. Tuy nhiên có bằng chứng cho thấy có sự khác biệt giữa các thiền sư mới thực tập và các thiền sư kinh nghiệmdo quá trình thực tập. Davidson nói rằng có bằng chứng cho thấy là những nhà sư thực hành Thiền nhiều năm có những thay đổi hoạt động não bộ nhiều nhất cho chúng ta thấy là thay đổi là do thực tập gây ra. Bằng chứng cũng cho thấy là những người thực tập Thiền lâu năm có nhiều tia gamma hơn những người trong nhóm kiểm soát, ngay trong khi não bộ của họ đang trong trạng thái trung lập, trước khi bắt đầu đổi sang trạng thái Thiền. Một tác giả chuyên viết về khoa học, Sharon Begley phê bình: “Điều này mở ra một khả năng thú vị là não bộ, cũng giống như các phần khác của cơ thể, có thể thay đổi một các tự ý. Cũng giống như tập thể dục dưới nước làm bắp thịt thay đổi, luyện tập óc não có thể làm thay đổi chất xám trong những cách mà các nhà khoa học có thể bắt đầu hiểu được.’

Phản xạ giật mình

Giật mình vì tiếng động lớn là một phản ứng tự nhiên sơ khai của cơ thể. Bắp thịt co rút một cách nhanh chóng khi thình lình nghe một tiếng động hay chứng kiến một cảnh kinh hãi bất ngờ. Trong phản xạ giật mình, 5 bắp thịt ở mặt, phần lớn quanh mắt, co lại tức khắc. Toàn bộ phản ứng kéo dài chừng một phần ba giây.

Cũng như các phản xạ khác, đây là một phản ứng phát sinh từ tế bào não và thường không thể kiểm soát hay ngăn chặn được. Và theo những gì khoa học biết đến nay, không có cơ chế nào có thể kiểm soát được phản xạ này. Mức độ nghiêm trọng của những phản ứng tự động đó phản ảnh cho những tình cảm tiêu cực như sợ hãi, giận dữ, buồn bã và kinh tởm. Các tình cảm tiêu cực mạnh chừng đó, phản xạ giật mình càng mạnh chừng đó.

Để thí nghiệm phản xạ giật mình của người thực hành Thiền, Paul Ekman và Robert Levenson, hai tâm lý gia tiên phong nghiên cứu về tình cảm, đã làm việc tại Phòng Thí Nghiệm Tâm Sinh lý tại Đại Học Berkeley. Các phản ứng vật lý của cơ thể người ngồi Thiền như nhịp tim, mức toát mồ hôi, và nhiệt độ của da được đo đạc. Phản ứng của mặt được quay phim để bắt kịp những phản ứng của tâm sinh lý trong phản xạ giật mình. Tiếng nổ thình lình dựa trên mức độ mà con người có thể chịu đựng được như một tiếng nổ lớn tương đương với một tiếng súng bắn bên tai.

Đối tượng thí nghiệm được cho biếttrong vòng 5 phút sẽ có một tiếng nổ lớn. Người này được yêu cầu làm mọi cách để vô hiệu hóa phản xạ giật mình thành một phản ứng không đáng kể, nếu có thể được. Một số người phản ứng tốt hơn một số người khác, nhưng không có người nào áp đảo được phản xạ một cách hoàn toàn - dù là họ cố gắng hết sức. Trong số hàng trăm đối tượng nghiên cứu của Ekman và Levenson thí nghiệm, kể cả cảnh sát chuyên bắn sẽ, không có người nào áp đảo được phản xạ khi nghe tiếng nổ thình lình. Nhưng các người thực hành thiền có thể áp đảo phản xạ này được.

Ekman giải thích: “Khi các thiền sư cố gắng đàn áp phản xạ giật mình, phản xạ này hầu như biến mất. Từ trước đến giờ chúng tôi chưa thấy người nào có thể làm được chuyện này. Đây là một sự kiện hết sức ngoạn mục. Chúng tôi hoàn toàn không biết tại sao các thiền sư có thể dằn được các phản xạ giật mình này!”

Trong lúc thử nghiệm, các thiền sư thực hành hai loại thiền quán: Quán tưởngchánh niệm. Cả hai loại Thiền này đã được rMRI nghiên cứu trước đó tại Madison. Ảnh hưởng tốt nhất là Thiền chánh niệm: “Trong trạng thái chánh niệm, họ không chủ động kiểm soát phản xạ giật mình, nhưng tiếng nổ hình như xảy ra ở một khoảng rất xa nào đó. Do đó tiếng động trở yếu ớt hơn. Ekman mô tả tại sao về phương diện vật lý: mặt của các thiền sư biến đổi, nhưng không có một bắp thịt nào ở mặt cử động. Và đối tượng được thí nghiệm giải thích: “Trong lúc ý thức bị đi lạc, tiếng nổ đem tôi về hiện tại và làm tôi ngạc nhiên. Nhưng không gian hiện tại mở rộng, tôi an trú trong hiện tại và tiếng nổ lớn xảy ra chỉ gây một ít khó chịu; Giống như con chim lướt qua bầu trời”.

Mặc dù bắp thịt trên mặt của các thiền sư không co rút lại khi họ đang ở trong trong thái thiền chánh niệm, nhưng những phản ứng vật lý khác như nhịp tim, đổ mồ hôi, áp huyết… vẫn tăng lên như trong phản xạ giật mình. Điều này cho chúng ta biết là cơ thể có phản ứng, ghi nhận ảnh hưởng của tiếng nổ, nhưng tiếng nổ đó không gây ra phản ứng tình cảm nào trên Tâm. Phản ứng của các thiền sư cho thấy tình cảm của họ trong tình trạng ‘xả’, một đặc tính trong tứ vô lượng tâmPhật Giáo hay nhắc tới như thành quả của việc ngồi thiền.

Viễn tượng huấn luyện tâm linh

Nhà nghiên cứu Coleman viết:

‘Đi tìm một họa đồ …trong đó não bộ có thể huấn luyện được những tình cảm tích cực: hài lòng thay vì tham đắm, an lành thay vì bị khích động, từ bi thay vì sân hận. Dược phẩm là phương tiện chính tại Tây phương để thay đổi tình cảm rối loạn, tuy là rất hiệu nghiệm trong việc thay đổi thay đổi trạng thái tình cảm vui buồn cho hàng vạn (triệu) bệnh nhân. Những thí nghiệm với các Thiền sư đặt ra câu hỏi là: một người qua nỗ lực của chính mình, có thể mang tới những thay đổi tích cực lâu dài bằng cách thay đổi chức năng não bộ có thể có những kết quả tốt hơn dược phẩm trong việc tác động trên tình cảm?’

Về khoa học trí năng, thí nghiệm này không phải chỉ có mục đích chứng tỏ khả năng của một số thiền sư, nhưng giúp cho chúng ta suy nghĩ lại những giả định về tác động của việc huấn luyện tâm linh để tạo ra những tình cảm tích cực. Những gì chúng ta khám phá trong việc huấn luyện tâm linh, hay óc não, về phương diện vật lý, khác với những người chưa được huấn luyện. Đến một lúc chúng ta có thể hiểu những sự quan trọng tiềm ẩn của việc huấn luyện tâm linh và khiến mọi người suy nghĩ nghiêm túc hơn về Thiền quán như là một phương pháp huấn luyện ” Davidson nói: “Điều quan trọng là khám phá ra quá trình huấn luyện tâm linh cho những ai có đủ quyết tâm thực hiện.

Chúng ta tự hỏi là cần bao nhiêu thời gian thực hành thiền quán mới đủ để làm não bộ thay đổi, nhất là trong phương pháp tế nhị như thực hành thiền. Cũng giống như đến mức nào một nhạc sĩ vĩ cầm đã thực tập bao nhiêu giờ mới có đủ khả năng thi vào Viện âm nhạc quốc gia? Phần lớn những thiền sư đang được Luts và Davidsob nghiên cứu đã thực tập 10 ngàn giờ Thiền quán, phần lớn trong các khóa tu hay trong sinh hoạt hàng ngày.

Mười ngàn giờ thực tập Thiền quán đối với nhiều người là một thời gian quá dài, phần lớn chúng ta không mấy ai đạt tới mức này. Tuy nhiên có nhiều tín hiệu đáng khích lệ từ nghiên cứu khác do Jon Kabat Zin và Davidson, các đối tượng thí nghiệm chỉ cần thực tập 3 tháng, não thùy phía trước bên trái của các nhân viên trong một công ty kỹ thuật cao cấp ở Madison thay đổi và cho thấy là có dấu hiệu kích hoạt. Những nghiên cứu của Davidson và các đồng nghiệp trong 20 năm qua cho thấy nhiều người thực tập báo cáo về tình cảm tích cực như ‘hỷ’, ‘vị tha’, ‘nhiệt tâm’, và họ cảm thấy có thêm nhiều sinh lựccảm thấy sinh động vào cuối các thời kỳ huấn luyện. Hệ thống miễn nhiễm của các người được huấn luyện thực tập Thiền cũng tăng lên, các liều chủng ngừa trong mùa trong khóa huấn luyện có hiệu quả hơn 20% so với các chủng ngừa trong các nhóm kiểm soát.

Nói tóm lại viễn tượng dùng Thiền quán để huấn luyện tâm linh để làm cho các tình cảm phá hoại biến mất. Những yếu tố thực dụng trong Thiền Quán có thể rất quý giá trong việc phối hợp với giáo dục thiếu nhi để giúp các em khi trưởng thành sống được một cuộc đời có chất lượng hơn. Những kỹ thuật Thiền Quángiá trị giải quyết cơ chế sâu xa nhất về Tâm của con người, giá trị như thế sẽ có tánh cách phổ quát, không cần phải mang nhãn hiệu Thiền ‘Phật giáo’. Tóm lại sự hợp tác hiện nay giữa khoa học và Thiền quán có thể giúp con người thấy được giá trị vô giá của việc huấn luyện Tâm Linh. Nếu sự quân bình giữa hạnh phúc và tình cảm được thực hiện bằng một khả năng có thể đào tạo, chúng ta không thể nào lượng giá đúng mức quyền lực chuyển hóa của Tâm và phải xem đây những phương pháp sâu xa giúp chúng ta trở thành con người tốt hơn.

Matthieu Ricard
(Chuyển Luân)

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14315)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14030)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39520)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15204)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13747)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13813)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37138)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39873)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14519)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14200)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12549)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14720)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19118)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13699)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42442)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37045)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12568)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11657)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22406)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12402)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12462)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12910)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 12996)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17165)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33046)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14682)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 10959)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12330)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11865)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11830)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13045)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51047)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12293)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6522)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30234)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13039)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13216)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30487)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19209)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12391)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11693)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14627)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13104)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13085)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30487)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 11929)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11745)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12598)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31712)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29246)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11710)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11659)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10333)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11460)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9542)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9556)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9848)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35206)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10064)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10011)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 9966)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9556)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27616)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15355)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9752)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13569)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9753)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9591)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18168)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 11963)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9483)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9600)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8610)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8831)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8312)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11345)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31528)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12223)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13209)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8721)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9334)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11812)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9119)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 8990)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9542)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29179)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 8984)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9009)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33057)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8348)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30439)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31050)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 36842)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32060)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9833)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 26857)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8317)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19115)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12916)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9672)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant