Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tự tánh Di Đà

24 Tháng Mười 201100:00(Xem: 15181)
Tự tánh Di Đà

TỰ TÁNH DI ĐÀ

Minh Mẫn

blankTất cả kinh điển Phật giáo nói chung và kinh điển Phật giáo Bắc truyền nói riêng, đều xoay quanh vấn đề sống và chết, nhất là Phật giáo Tây Tạng, để mở ra con đường giải thoát. Sống như thế nào để hiện tại được an lạc, hạnh phúc và chuẩn bị cho cái chết tốt đẹp, chết như thế nào cho cuộc sống tương lai thanh thoát nếu không nói là được giải thoát.

Sự diễn dịch của kinh điển đều hướng hành giả đi vào chọn lựa cách sốngrèn luyện thân tâm. Nhất là kinh tạng Bắc truyền chứa đựng triết lý uyên thâm dưới dạng truyền tích. Thêm vào đó là những luận giải của chư tổ, các hành giả, học giảthiện tri thức giúp cho nội dung kinh điển thêm phần sáng tỏ.

 

Kinh điển Bắc truyền, trên cơ sở Nikaya, sau 6 thế kỷ, triển khai sâu rộng qua nhiều triết luận và pháp hành, đến độ diện mạo nguyên thủy không còn nhận dạng rõ nét. Nhưng tinh túy vẫn không xa tôn chi của Tam pháp ấn. Nhờ thế, Phật giáo Bắc truyền đã lan tỏa sâu rộng hơn Phật giáo Nam truyền, cũng từ đó, tinh thần “Phật giáo phát triển” thấm sâu vào mọi sinh hoạt xã hội châu Á: – âm nhạc - hội họa – kịch nghệ - phim ảnh – chính trị - văn hóa – tập quán – ngoại giao…. Riêng pháp hành cũng đa dạng. Mỗi thời đại, tùy căn cơ tín chúng mà chư tổ triển khai một pháp môn tương thích. Khi Phật giáo Trung Hoa bàng bạc pháp môn Tịnh độ, chốn già lam gắn kết với nông nghiệp, việc trì bình khất thực không còn thích ứng; Từ vua quan đến thứ dân quen nghe đến việc hành thiện cầu phước, việc tạo tượng xây chùa đúc chuông là tiêu điểm để lập công bồi đức thì việc hướng nội tham thiền trở nên xa lạ, dành cho những bậc thượng căn trí tuệ. Từ đó, có sự phân cách giữa hành trạng tu tịnh và hành thiền, cứ như hai lãnh vực nầy không liên quan đến nhau. Do vậy, khi Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến Trung Hoa, phủ nhận việc tạo 72 cảnh chùa của Lương Võ Đế thuộc về công đức, liền bị nhà vua xem Ngài là bọn ngoại đạo, vì không tương thích với truyền thống Phật giáo bản địa chứng tỏ vua chưa hiều giữa phước đức và công đức, cũng có nghĩa Phật giáo lúc bấy giờ chú hướng đến ngoại tướng và cầu phước báu nhiều hơn chiều sâu của con đường giải thoát.

Sau kỷ nguyên Bồ Đề Đạt Ma, chư tổ triển khai Thiền phái qua nhiều dạng thức: Tổ sư thiền - khẩu đầu thiềncông ánđại thừa thiềntối thượng thừa thiền – phản văn văn tự tánh – nhĩ căn viên thông, một số giòng phái như Liễu Quán, Thiên Thai, Trúc Lâm, Thảo Đường… và hiện nay có “Tri vọng chỉ vọng” – “Hiện pháp lạc trú” của những Thiền sư đương đại. Một số cố chấp kinh văn, xem những loại Thiền tự phát đều là ngoại giáo, bởi lẽ không có sự miên tục bắt nguồn từ khởi thủy nhưng quên rằng: Thế gian pháp tức Phật phápvô lượng pháp môn tu. Nghĩa là bất cứ pháp môn nào hiện tại, đưa hành giả đến an lạctrí tuệlòng từ phát triển đều là chánh pháp. Giáo lý Bắc truyền linh động uyển chuyển tùy đối cơsanh pháp. Nếu chỉ duy nhất “Minh sát tuệ” thì làm gì có “Tu Bụi” ra đời làm gì có trạng thái “Thỏng tay vào chợ” !

Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng, làm điểm tựa cho niềm tin quảng đại quần chúng. Thế nhưng, lý tánh của A Di Đà vẫn biểu thị tự tánh trong mỗi chúng sanh, đó là tự tánh hay còn gọi là Pháp thân Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang. Tử Thư Tây Tạng đi sâu vào chi tiết qua từng trạng thái cỏi trung giới khi mà thần thức chưa quyết định việc tái sanh. Một vị thầy hướng dẫn linh thức trải qua những kinh nghiệm về bardo, cho đến khi linh thức rơi vào tình trạng vô thức, bấy giờ ánh quang minh tự tánh xuất hiện. Có nghĩa trong mọi linh thức đều ẩn tàng ánh sáng chơn như. Tùy ánh sáng trong đục, mờ tỏ mà thần thức đầu thai vào cảnh giới đó. Ai Cập cũng có nói về Tử Thư, nhưng không chuyên sâu như Tạng Thư. Bằnh kinh nghiệm và kỷ thuật hướng linh, một Guru có thể chuyển linh thức vượt thoát Tam giới.

1/ Hiện tượng lâm sàng: Y khoa ngày nay không còn lạ về hiện tượng chết lâm sàng. Người chuyên môn ngành y bảo đó là trạng thái giữa sống và chết. Trạng thái lâm sàng như thế, có thể vài giờ, vài ngày, thỉnh thoảng có những trường hơp hy hữu, người chết nhiều năm sống lại, trạng thái đó coi là hôn mê. Thường những cảnh trạng như thế người ta đo thân nhiệt, xác định điện tâm đồ ngưng họat động, riêng điện não đồ còn chút dấu hiệu yếu ớt chập chờn. Quyết định cuối cùng của y học, xác định một người thật sự chết là lúc toàn bộ cơ năng không còn hoạt động. Nhưng khoa học vẫn chưa giải thích được một người chết lâm sàng, sau khi sống lại, diễn tả những cảnh tượng khi thần thức lìa khỏi xác; có thể họ bảo đó là trạng thái ảo giác mà người chết nhìn thấy từ thế giới bên kia, nhưng làm sao giải thích cái thấy của nạn nhân những hoạt cảnh trong bệnh viện, nơi thân thể nạn nhân đang nằm, các y bác sĩ và những gì diễn ra chung quanh lúc nạn nhân vẫn còn hôn mê. Khoa học chưa giải thích được mặc dù hiện tượng chết lâm sàng đã có từ ngàn xưa. Về lãnh vực tâm linh, nhất là đối với tôn giáo cổ Ai cập cũng như Tây Tạng, chúng không phải là vấn đề xa lạ thiếu kiểm soát. Điều chúng ta muốn đề cập đến không phải vấn đề hồi sinh hay hồi dương, mà là trạng thức khi thần khí ra khỏi xác.

2/ Ánh sáng cuối đường hầm: Một số trường hợp chết lâm sàng, thường thấy mình chui qua đường hầm hẹp và tối đen, sau đó bềnh bồng trong không gian mênh mông hoặc vụt đi với một tốc độ kinh hãi không thấy đâu bờ bến. Một số vừa thoát khỏi đường hầm, gặp những người thân quen đã chết trước hoặc gặp cảnh trí tươi mát thanh thản. Cũng có người vừa thoát con đuòng hầm hẹp tăm tối, ra đến vùng sáng chói chang hoặc êm dịu. Những dạng hồi sinh như thế đều bị tác động tâm lý và thay đổi tính tình, cư xử tốt hơn, cuộc sống an phậnđạo đức hơn. Nơi đây, chú ý đến hai dạng hồi sinh, một, qua vùng tăm tối, gặp cảnh vật hoặc người thân quen, sống lại sẽ biết chan hòa hơn, hướng nội và có đức tin thầm lặng. Dạng khác, người hồi sinh sẽ phát kiến nhiều hiểu biết hơn, trí tuệ khác thường hoặc có năng khiếu đặc biệt nếu không rút mình vào ốc đảo tự thân để chiêm nghiệm thể nghiệm tâm linh sau khi trở lại từ vùng ánh sáng.

Dĩ nhiên một linh thức mang nặng ác nghiệp, khi xuất ra khỏi thân thể, khó mà nhận được ánh sáng ngay. Nghĩa là ánh sáng tự tâm bị ác nghiệp che khuất, vì trường năng lượng nhuốm màu ô trược đen tối bao phủ. Ánh sáng tâm thức tỏa sáng được gọi là hào quang. Ánh sáng đó, trường năng lượng đó mang điện tích âm, được duy trì bởi một phần tâm thứctín ngưỡng nhân gian gọi là vía, đây không phải là linh hồn. Thần thức gồm cả vía và phách. Vía nằm giữa Thần và Phách, Phách là âm tính của Thức. Đây là cái nhìn của Đạo học. Riêng Phật giáo, không chủ hướng đến Phách và Vía. Thần khí là dạng năng lượng của tâm thức. Tâm thức tồn tại thì sự sống tồn tại, sự sống tồn tại nhờ năng lượng vật chất sản sanh huyết và khí. Huyết là dạng vật chất thô, Khí là dạng năng lượng vi tế. Khí sung thì Thần mãn, Thần khí sung túc thì trí tuệ phát sinh. Năng lượng có hai dạng, một, từ vật chất phát sanh, hai từ năng lượng ngoại biên hỗ trợ tác thành. Do tiếp nhậntiêu hóa vật chất trược thì sản sanh năng lượng ô trược, khó tiến hóa, có khuynh hướng xấu. Tiếp nhậntiêu hóa vật chất thanh như thực vật dương tính thì thanh khí phát triển, tâm hồn trong sáng, có khuynh hướng đạo đứclòng từ ái dồi dào. Tuy nhiên, tâm chủ đạo, nếu được rèn luyện hoặc tu tập, tâm có thể tác động đến khí huyết, phát sanh một trường năng lượng trong sáng, tột đỉnh của trường năng lượng sinh học của chư Phật, chư Thánh là trí tuệ phát quang. Đạo gia chú trọng luyện tinh để hóa Khí, luyện Khí để hóa Thần, luyện Thần để huờn Hư, Hư đây là chân tánh, là Tuệ tri. Ánh sáng của trí tuệ và ánh sáng của năng lượng sinh học khác nhau. Ánh sáng bức xạ của trường năng lượng vật chất thuộc loại vô cơ. Ánh sáng tâm thức hay năng lượng nghiệp thức thuộc loại hữu cơ. Thần thức lìa khỏi xác dù tạm thời hay vĩnh viễn đều mang theo năng lượng hữu cơ và vô cơ. Năng lượng vô cơ tồn tại trong một thời gian ngắn nếu thân xác có thể hồi sinh. Khi thân xác hoàn toàn mất sự liên kết với thần thức thì năng lượng vô cơ chan hòa vào vũ trụ, năng lượng hữu cơ tiếp tục đi theo sự dẫn dắt của nghiệp lực đối với một thần thức bình thường. Năng lượng hữu cơ của một bậc cực thiện sẽ là tuệ giác. Ánh sáng trí tuệ đó tồn tại vĩnh viễn, phủ trùm khắp không biên giới. Chư Phật, chư Bồ Tát Thánh Tăng là ánh sáng tuyệt đối của một tâm thức toàn giác. Đó là Pháp thân Vô Lượng Quang.

Yoga, Tiên gia, Đạo học, huyền linh thần bí học, Cao Đài Tiên giáo và những phép luyện công đều tiến đến đẳng cấp thăng hoa tâm linh. Bởi Đạo Học Đông phương quan niệm “Nhất Bản tán vạn thù” theo thuật ngữ Phật giáo khởi niệm “vô minh sanh ra vạn pháp”, nghĩa là từ một gốc mà sanh ra vạn loại, muốn quy về nguồn cội, “vạn thù phải quy nhất bản”, tức là vạn pháp khởi xuất từ vô minh, phải quy về vô minh để hóa giải vạn pháp. Nhưng khi quy về “Nhất Bản” rồi thì “Nhất quy hà xứ”? Cái một sẽ về đâu? Đây là vấn đề mà hầu hết các bộ môn huyền linh tâm pháp cố gắng lập thành từng bước hóa giải. Đạo gia dụng tâm chuyển hóa kinh mạch lạc, bằng cách luyện đơn, kết Thánh thai với phương thưc phổ dụng là “Thủy hỏa ký tế” hoặc “Tiểu châu Thiên” hòa nhập với “Đại châu Thiên”; Yoga cũng kết hợp âm dương như khí công. Cổ thư Bà La Môn giáo tương thích là Atman và Bhraman. Tiểu ngã trở về hòa hợp với Đại ngã. Dĩ nhiên bộ phái như thế đều có pháp hành và quá trình trãi nghiệm cùng thể nghiệm. Trong khi đó, Kito giáo phổ truyền thì sau khi lìa đời, trở về hầu cạnh chúa nơi Thiên quốc mà không trao cho tín hữu chìa khóa của bí pháp rèn luyện thân tâm, hoặc kết hợp cùng Chúa làm một. Tuy nhiên, một số rất ít Giám mục tiếp cận được bí pháp bế quan để hòa nhập cùng Thánh thể là chuyện ngoại lệ do có duyên gặp những bí pháp từ các chân sư trao truyền. Yoga từ Hatha cho đến Raja trãi qua 11 cấp, nghĩa là từ loại thể dục đến hoạt dụng tâm linh đưa đến giải thoát đều theo một chuẩn mực nhất định, chuyển hóa thể chất đến tâm linh một cách nhịp nhàng:

1- HathaYoga.
2- KarmaYoga.
3- JnanaYoga.
4- BhaktiYoga.
5- LayaYoga.
6- MantraYoga.
7- KriyaYoga.
8- ShivaYoga.
9- YantraYoga.
10- MudraYoga.
11- RajaYoga

Điểm gặp gỡ chung giữa các pháp thuật của Tôn giáo Phương Đông như Lão gia, Tiên Thiên Đại Đạo, một bộ phận của Yoga và mật pháp Ấn Tạng, đều lấy nội thể làm đối tượng tu luyện.

Những pháp cổ, truyền thống dùng Tam bửu nội thân (Tinh-Khí-Thần) để thăng tiến, thì vài thập niên của tiền bán thế kỷ 20, một số pháp môn được cải biên hoặc sáng tạo để đưa hành giả đến trình độ xuất hồn, đây không phải là pháp tối thắng để giải thoát, chỉ đáp ứng tính hiếu kỳ như một trò chơi tâm linh trong cõi tam giới. Lục tự Di Đàhồng danh của giáo chủ Tịnh Độ, thế mà vẫn có tông pháp kết hợp giữa Lục tự để luân chuyển qua các đại huyệt châu thân, họ gọi là “Pháp luân thường chuyển”, tuy vậy, vẫn có vị đắc pháp, phát huệ với pháp hành nầy. Thuật ngữ Yoga gọi các đại huyệt đó là luân xa (chakra). Võ thuật – y học Trung hoa gọi là đại huyệt. Những đám rối thái dương nầy có công năng thu – phát năng lượng để nuôi cơ thể, đạo thuật dùng nó để thăng tiến tâm linh. Luồng chơn khí luân lưu từ mạch nhâm qua mạch đốc vận sinh lực chạy dọc xương sống nuôi trí não. Các pháp thuật cũng dùng nguồn sinh lực đó chạy ngược từ luân xa 7 vòng xuống để xuất ra yết hầu hoặc kích thích kundalini bò theo cột sống khai mở huyệt bách hội thông qua tuyến tùng. Những vận hành pháp thuật đều có kết quả nhất định, nhất là chữa được bệnh thân và đem lại sức khỏe dồi dào, thế nhưng, theo nhà Phật, vẫn chưa thoát khỏi tam giới. Có những vị học lóm pháp thuật Đạo gia, lạm dụng “Khí Hải”, không biết chuyển hóa, lâu ngày tích khí phát cuồng dâm nộ, luôn hoang tưởng đạt được Thánh quả, hàng đêm lên cõi trời học pháp rồi đem xuống dạy cho trần gian, ai cũng biết đó là ma giới.

Tóm lại, cho dù bất cứ pháp hành nào cũng có một sở chứng nhất định trong cõi tam giới, đều mang thân ánh sáng của cảnh giới đắc pháp đó, loại ánh sáng như thế chưa phải Pháp thân thanh tịnh Vô lượng quang mà chỉ là vòng hào quang của năng lượng sinh học được nâng cấp. Cái tương thích giữa Yoga và Phật giáo trong quá trình tu dưỡng đều “phục vụ vô ngã” lợi thatự tâm phải diệt ngã. Tuyệt đỉnh Yoga là hòa nhập với Chân ngã, như một loại chân như Phật tánh. Vậy tiến trình chuyển hóa của Tự Tánh Di Đà là gì?

Theo Mật giáo, A Di Đàmật chú AMITA, Trí tánh của ngũ bộ Phật:

Tỳ Lô Giá Na Phật - A Súc Bệ Phật – Bảo Sanh PhậtA Di Đà PhậtBất Không Thành Tựu Phật. Đã là Trí tánh phải là ánh quang minh vĩnh hằng không giới hạn nên gọi là Vô Lượng Quang.

“Khi Đức Pháp Tạng Tỳ kheo đang hành trì tu tập, muốn thiết lập cõi Tịnh như chư Phật mười phương, xin thầy (Đức Thế Tự Tại Như Lai) chỉ giáo và hiện tướng 210 ức Phật độ, từ đó, ngài Pháp Tạng phát nguyện sẽ xây dựng một cảnh Tịnh Độ như chư Phật để giáo hóa hỗ trợ chúng sanh liễu sanh thoát tử, nương vào y báo của Ngài mà tiến tu đạo nghiệp giải thoát.”

Tạng là kho chứa, Pháp hữu vi lẫn vô vitâm hành. Hạnh nguyện tục đế để chuyển hướng đến chơn đế đều do tâm hành. Khác nhau tâm hành tục đế bị vô thường hoại diệt. Tâm hành chơn đế của bậc đại giác thoát khỏi vọng tưởng, mọi hiện tướngcông năng duy trì miên tục, vì thế ngoài Vô Lượng Quang còn là Vô Lượng Thọ. Một hành giả trong quá trình chuyển hóa ý thứ c- mạt na thức- a lại da thức- và năm thức trở thành: - Diệu Quan sát TríBình đẳng tánh tríĐại viên cảnh tríThành sở tác trí, là những diệu dụng để phổ hóa chúng sanh của một A la Hán, một Bồ Tát, một vị Phật. Hỷ-nộ-ái-ố-ai-lạc-dục được chuyển hóa thành bảy loại quý tính như sen mọc từ bùn nhơ. Thất giác chi phần là những vòng đai bảy lớp lưới giăng cây quý, không những biểu thị cảnh giới của Phật mà còn là cảnh giới của tâm thanh tịnh giải thoát hoàn toàn. Chấn động lực của tâm thức thanh khiết là sóng âm trang trí nhạc điểu. Một cõi Tịnh Vô Lượng Quang như thế đều được chư Phật mười phương tán dương hoan hỷ, cũng có nghĩa tâm giải thoát hoàn toàn thì vạn vật muôn loài trong không gian đều mang sắc màu tươi nhuận giải thoát. Vì vậy “Nhất thiết duy tâm tạo” trong cảnh giới huyền môn của Hoa Nghiêm xác định được “nhất đa tương dung” để minh chứng cảnh cực lạc có đủ mọi hiện tướng cõi tục nhưng bản chất phi tục khi ánh sáng tâm thức được chuyển hóa phủ trùm vô tuyến tính. Vậy hiểu thế nào khi Phật giáo không chấp nhận một linh hồn tồn tại? Cái gì hòa nhập với cõi Tịnh độ?

1/ Phải chăng có một linh hồn ? Khoa học ngày nay cũng như một số quan điểm thế tục đều chấp nhận một linh hồn trường cửu sau khi lìa khỏi xác. Phật giáo không thừa nhận như thế, nhưng tập khí nghiệp lực là một dạng sóng giao động. BS Camille Flammarion sau 60 năm nghiên cứu qua 4.800 bức thư, dùng pháp thực chứng khoa học, kết luận rằng ngoài xác thân còn có phần hồn mà mắt thường không nhìn thấy, ngoại trừ tần sóng giao động của người chết có cùng tần số giao động của người sống như các nhà ngoại cảm, họ mới thấy hoặc cảm nhận sự hiện hữu của thế giới vô hình. Tuy sự tồn tại hoàn toàn khác với thế giới vật chất, nhưng họ có khả năng tác động lên tâm thức của người sống để chúng ta cảm nhận được sự hiện hữu của họ sau khi thân xác đã chết.

Ánh sáng của một sinh động vật nói chung và của con người nói riêng, biểu lộ ra bên ngoài quanh thân thể, mang nhiều thông tin của sức khỏebệnh hoạn trong ngũ tạng. Cộng hưởng với tâm thức cho màu sáng tối thanh đục tùy tâm thức khởi niệm. Huyền bí học phương Tây gọi là thể phách. Khoa học gia người Nga, Semyon Kirlian chụp được phim, đặt tên là Bioplasmic energy. Nó lưu giữ những ký ức những tư tưởng của đương sự. Đông phương huyền học gọi nó là ngoại Khí, ngày nay gọi là năng lượng sinh học ngoại biên. Như thế, nó không phải là linh hồn, từ việc chẩn đoán bệnh qua ánh sáng đó, thầy thuốc chữa bằng y dược hoặc trường sinh học chữa bằng Nhân điện; cách chữa đó đã điều chỉnh, bổ sung từ trường nội tạng. Khác nhau cách chữa của Đông y là dùng dược liệu kết hợp ngũ hành âm dương trong thang thuốc Quân-Thần-Tá-Sứ. Trường sinh học nhân điện chữa theo khu vực trách nhiệm nội tạng. Mỗi đại huyệt phụ trách một cơ phận, ví dụ luân xa ba phụ trách vùng bụng, luân xa hai chịu tác động thận… Dĩ nhiên Đông y Tây y, pháp thuật, tôn giáo mỗi lãnh vực có một quan niệm khác nhau về bệnh lý nên việc chữa trị cũng khác nhau; như thế thể xác và linh hồn không thể là một. Linh hồn nào chịu trách nhiệm về bệnh thân? Nếu bệnh thân tùy thuộc vào quyết định của linh hồn thì phải trực tiếp chữa linh hồn mà không phải chỉ duy nhất chữa bệnh thân! Linh hồnsứ mạng gì với cơ thể con người? Khoa học thực dụng ngày nay, kể cả duy vật, không thể quyết đoán con người sống chỉ thuần vật chấtvật chất quyết định tất cả, nhưng khoa học vẫn chưa chứng minh sự hiện hữu của linh hồn mặc dù họ vẫn chấp nhận ngoài thể xác phải có một linh hồn. Họ mơ hồ hiểu rằng linh hồn là một dạng sóng có khả năng tồn tại biệt lập hoặc đôi khi tác động được thể chất của người sống nếu cùng tần số giao động.

Saint Augustine từng bảo: “Điều kỳ diệu xảy ra không ngược với tự nhiên mà chỉ ngược với cái ta biết trong tự nhiên”.

Một linh hồn thuần túy là một linh hồn, có chức năng điều khiển sự sống của một động vật, thì mỗi sinh vật là một ốc đảo tự cô lập, không hề có sự liên hệ nghiệp thức lẫn nhau mà Phật giáo gọi là cộng nghiệp. Thực tế cho thấy sự hiện hữu gần hay xa đối với một sinh vật đều ít nhiều có tính tương tác cộng đồng. Sự tương tác như thế không thể có một linh hồn độc lập của một cá thể độc lập. Và một linh hồn được tạo dựng sẳn như một khối cố định thì linh hồn đó không có khả năng chuyển đổi cũng như không có khả năng chịu trách nhiệm với việc làm chính mình. Các nhà tâm linh huyền bí đều nhận thức rất rõ về nhân và quả của một sinh động vật qua trường lực ánh sáng. Trường lực đó có thể tăng hoặc giảm, có thể tồn tại hoặc hủy diệt tự thể mà không do tác động bởi ngoại lực, như thế không thể xem nó là một linh hồn tồn tại độc lập. Năng lượng sóng từ của một sinh vật, khoa học vật lý gọi là viba. Khoa học có cái nhìn tiến bộ hơn khi xác định cấu tạo con người không chỉ đơn thuần bằng phân tử. Trường năng lượng bao phủ mọi thể chất của mọi sinh vật. Tùy theo lưu hoạt nội tại mà trường năng lượng lưu xuất ra ngoại biên. Thực vật lưu hoạt hạn chế, động vật hạ đẳng lưu hoạt bất định, con người văn minh lưu hoạt năng động hơn con người bộ tộc cổ xưa, và người trí xuất phát từ trường khác hẳn người chậm phát triển. Cũng thế, hành giả chuyên chính và cao cấp thì trường lực cũng phát triển rộng hơn người không tu luyện. Màu sắc trường năng lượng thông tin cho biết đẳng cấp tâm linh của một người và từ đó, chúng có thể thay đổi thăng tiến hoặc thụt lùi. Cái mà khoa học gọi là thế giới vật chất tĩnh, thực ra là dạng năng lượng cô đặc, hào quang hay ánh sáng sinh học là dạng năng lượng vi tế, tất cả đều là sóng, hạt sóng và sợi sóng. Sự tiến bộ của khoa học chế tạo ra điện não đồ, điện tâm đồ, và xa hơn nữa là thiết bị đo từ trường con người gọi là superconducting Quantum Interference Device (Thiết bị giao thoa lượng tử siêu dẫn) nghĩa là khoa học chỉ đo được xung lực điện trường phát ra từ con người mà chưa biết rõ gì về một linh hồn. Nhận thức, hiểu biết không phải là một linh hồn, đó chỉ là cái dụng của một tâm thức. Tâm thức không là linh hồn, nó là kết tinh từ nhiều tập khí, tập khí không phải là linh hồn, nó là thói quen thâm nhập bởi vô minh vọng niệm… Nói đúng ra, bẹ chuối không phải là thân cây chuối.

BS Leonard Ravitz trường đại học tổng hợp William and May xác định trường năng lượng giao động theo tâm lýnhận thức của mỗi người. Ông xác định thay đổi tư duy sẽ gây hiệu ứng tâm thể. Như vậy không thể có một linh hồn cố định bị tác động bởi bất cứ điều kiện nào. Bs Robert Becker cũng xác định hình thù và cường độ của hào quang con người thay đổi tùy thuộc tâm-sinh lý của con người.

Năm 1950, bs người Nga cũng tách bạch được yếu tính của trường năng lượng với cơ chế thể chất tĩnh: “trường năng lượng bioplasmic” gồm có ion-proton- và electron tự do khác biệt với trạng thái : rắn-dịch-khí và plasma của vật chất. Bioplasmic quá trình vận động chuyển hóa bởi hóa học trong té bào. Nhưng ông không nói đến sự liên hệ trực tiếp của chuyển đổi đó ảnh hưởng từ tâm thức, nói cách khác, có sự liên hệ chặt chẽ giữa tâm-sinh lý. (còn tiếp)

MINH MẪN

20/10/2011

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15471)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22850)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13926)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12870)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54892)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9033)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14284)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14057)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14095)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13780)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36087)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19757)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18083)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19076)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19021)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20164)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17532)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31349)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15826)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14867)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14590)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46010)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35769)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20938)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21436)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23225)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34133)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19395)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18780)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22791)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20064)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18240)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19700)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19436)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33281)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34261)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54314)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37500)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21012)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17774)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63399)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17241)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49438)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27175)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20139)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22861)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18789)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16224)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17762)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20823)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17232)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14372)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16761)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16240)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15913)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17353)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21813)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 14986)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13370)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14288)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15280)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14882)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12568)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13245)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27268)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12401)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13092)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14391)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16099)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12308)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15292)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12789)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12118)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13087)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21488)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11188)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22546)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14910)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14838)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 45998)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22281)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14333)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12493)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18774)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14597)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43658)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56760)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13736)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47286)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13543)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14441)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28847)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33133)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38216)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15302)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31053)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12398)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40154)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43203)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46433)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant