Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vọng tưởng luân hồi

10 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 15397)
Vọng tưởng luân hồi
VỌNG TƯỞNG LUÂN HỒI
Nguyên tác The Samsaric Illusion
Tác giả: Agnes Jedrzejewska 
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Thỉnh thoảng tôi thường nghe những phê bình một số cá nhân trình bày giáo lý Đạo Phật. Người ta quán sát một vị thầy Phật Giáo và thường nhìn rất thất vọng nếu họ nghe điều gì đấy không phù hợp với những định kiến trước đây của họ. Chúng ta hãy cố gắng để thẩm tra phản ứng thông thường này.

Một vọng tưởng căn bản vốn dĩ ở tâm điểm của mối quan hệ giữa cá nhân người giảng dạy giáo lýchính Quả Phật. Bài giảng mà vị nào đấy trình bày không phải của chính người đó. Nó là giáo huấn của Đức Phật mà điều ấy được người thuyết giảng chuyển tải trong khả năng cao nhất - tự học hỏi tối đa cũng như giảng dạy cho người khác.

Tôi không cảm thấy như thế mặc dù tôi là tác giả của bất cứ bài thuyết giảng nào tôi thực hiện. Tôi cảm thấy như một người lắng nghe chúng rất nhiều. Trong một bài thuyết giảng thật sự, duy người thuyết giảngGiáo Pháp thật sự, Giáo Pháp thuyết giảng. Tất cả mọi người, kể cả những vị thầy, là những học trò của Giáo Pháp. Ngay lúc tôi đang viết hay trình bày một bài thuyết giảng là một cơ hội để lắng nghe Đức Phật. Tôi đã thường hoàn toàn ngạc nhiên với những gì tôi đã nói trong bài giảng của tôi, giống như tôi không phải thật sự là tác giả.

Thật phải là thiện nghiệp một cách ngoại lệ để có thể được dạy bảo, một cách trực tiếp và cá nhân bởi một vị thầy như Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Người ta không còn có cơ hội quý báu này nữa. Nhưng điều ấy không có nghĩa là con người ngày nay là tách biệt với Giáo Pháp. Sự giảng dạy của Đức Phật tiếp tục được chuyển tải trong một sự đa dạng của những phương cách. Một cách như vậy là qua những người Tín Tâm[1].

Những người Tín Tâm không phải là những Đức Phật, mặc dù họ có thể lắng nghe Đức Phật một cách trực tiếp và bảo đảm sẽ đạt đến giác ngộ không sớm thì muộn. Những người như vậy là có thể thấy cuộc đời của chính họ, và của những người khác, trong một cung cách đặc biệt được ban cho họ bởi Đức Phật qua Niệm Phật. Tuy thế, bởi vì họ vẫn là những chúng sinh trong cõi luân hồi, họ không thể hành động trong một cung cách như một Đức Phật có thể làm. Đây là ý nghĩa của những gì ở trong cõi luân hồi. Họ sống những cuộc đời luân hồi, mặc dù tâm thức họ đã được chuyển hóa và chuẩn bị cho sự giải thoát tối hậu của họ. Để đạt đến Quả Phật, thông hiểu hầu hết giáo huấn là không đủ; vì mục tiêu này, chúng ta phải loại trừ tất cả si mê ám tối và vọng tưởng của chúng ta, và thay thế chúng với phước đức vô lậu hay công đức của Đức Phật. Chưa một người Tín Tâm nào đã từng có thể làm điều ấy và việc này tạo nên toàn bộ sự khác biệt.

Trong Tịnh Độ Tông, chúng ta tham dự trong công đức của Đức Phật bằng việc thực hành việc kêu gọi tên ngài hay Niệm Phật. Đức Phật chuyển hóa vọng tưởng của chúng ta và có thể làm cho chúng ta đạt đến một sự tương đồng với Tâm của Ngài, Tâm Phật. Sự chuyển hóa này là phương pháp duy nhất có thể làm cho chúng ta trở nên trưởng thành về tâm linh. Nhưng không là một Đức Phật chúng ta không có thể hành động như một vị Phật; chúng ta cũng không tiên liệu một khả năng như vậy trong khi vẫn là một con người.

Bất cứ thẩm quyền nào chúng ta sở hữu có thể ra mệnh lệnh, bất cứ vị thế xã hội hay tôn giáo nào chúng ta có thể nắm giữ, nhưng chúng ta chưa phải là những Đức Phật toàn giác. Chúng ta vẫn là đối tượng đối với những cảm xúc duyên nghiệpthường hành động như những người bình thường khi chúng ta bị tác động bởi những sự kiện trong đời sống. Chúng ta có những giới hạn của chúng ta (kể cả thân thể) do bởi những sự vướng mắc chấp trước bén rể lâu đời là những thứ đã ràng buộc chúng ta vào trong cõi luân hồi. Ngay cả nếu chúng ta biết tất cả những giáo huấn của Đức Phật một cách tuyệt hảo (là điều, trong thực tế, hoàn toàn không thể có với một tâm thức chưa hoàn toàn tịnh hóa), chúng ta vẫn mang chứa những vọng tưởng của kiếp nhân sinh vì vậy làm cho chúng ta không tương ứng, cả tinh thần lẫn thân thể, để hành động như một vị Phật toàn hảo.

Tổ Thân Loan thường tự thú rằng ngài thấy luân hồi hấp dẫn, mặc dù ngài nhận ra bản chất vọng tưởng của sự đam mê lôi cuốn nguy hiểm của nó. Ngài hoàn toàn thấu hiểu bản chất con ngườinhận ra sự cần thiết của việc xác định Giáo Pháp. Chỉ qua việc tiếp nhận một phương pháp cá nhân hướng đến Quả Phật, là người ta có thể chuyển hóa tâm thức của họ và lìa bỏ luân hồi lại phía sau. Nếu chúng ta không cảm thấy Giáo Pháp như kinh nghiệm đời sống của chính mình, thế thì luôn luôn sẽ có một khoảng cách giữa kiến thức Phật Phápchúng ta như chúng ta thật sự là. Nhận thức của chúng ta về giáo huấn sẽ vẫn là lý thuyết và nó không thể thật sự chuyển hóa chúng ta. Thân Loan nhấn mạnh rằng không chỉ đi theo giáo huấn chỉ như một lý thuyết, mà phải tiếp cận Đức Phật trong một cung cách rất cụ thể qua Niệm Phật.

Niệm Phật có thể làm cho chúng ta nhận ra vọng tưởng của luân hồi cũng như sự giả dối của chính chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhận rachấp nhận khả năng chân thật của chúng ta cũng như những giới hạn của chúng ta.

Nếu chúng ta thật sự thực hành Niệm Phật, chúng ta do vậy tin tưởng rằng chúng ta đã cải thiện tình trạng của thế giới hay ngay cả đời sống của những người khác. Chúng ta liên tục bị lo âu với vấn đề chúng ta là ai và ai là Đức Phật. Đây là nhiệm vụ của cả cuộc đời của chúng ta và nó đòi hỏi tất cả mọi sự cống hiến của chúng ta. Thay vì lắng nghe Đức Phậtchánh niệm với chính mình, chúng ta chỉ cố gắng tác động đến những hoàn cảnh ngoại tại của chúng ta, chúng ta không được gì nhưng chỉ bối rối thất vọng. Sự bối rối này không phải được mang đến bởi Đức Phật hay bất cứ một vị thầy nào, mà bởi cung cách suy nghĩ luân hồi của kiếp người. Chúng ta, như những con người bình thường bị mê hoặc bởi luân hồi và những lôi cuốn vô tận của nó.

Chúng ta là những con người bởi vì chúng ta bị nhấn sâu trong luân hồi. Dĩ nhiên, chúng ta không vui sướng bởi khổ đau luân hồi, nhưng chúng ta đón nhận những khoái lạc luân hồi để để duy trì sự vướng mắc với những điều kiện của kiếp nhân sinh. Một trong những vọng tưởng căn bản nhất là tin tưởng rằng luân hồi thế nào đấy có thể được cải thiện để cung ứng cho chúng ta một đời sống không có rắc rối. Nhiều người đã hy sinh sự sống của họ cho một mục tiêu như vậy. Hầu hết mọi người bắt đầu lắng nghe Giáo Pháp chỉ để cải thiện nhiều thứ trong cuộc sống hơn là bất cứ sự khao khát nào để thấu hiểu cung cách mọi thứ thật sự là, bàn chất của thực tại. Nhận thức hướng đạo sai lệch này hướng để cải thiện những gì luôn luôn duy trì sự bất toàn hơn là cố gắng để đạt đến một quan điểm đúng đắn trong đời sống, chánh kiến.

Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử. Những con người hảo tâmthiện ý thường 'làm những việc đúng' và săn sóc người khác trong niềm tin rằng họ đang làm những việc thiện thông thường. Tuy thế, không có ánh sáng của Đức Phật soi rọi chúng ta, không ai có thể thấy tính vị kỷ nằm bên trong trái tim của nhiều nhà hoạt động vị thađạo đức. Thân Loan đã nhận ra thực tế nghiệt ngã này và nói: 'Đức Phật Di Đà phát nguyện của Ngài chỉ cho con, Thân Loan'. Trong Ánh Sáng của Niệm Phật, chúng ta có thể thấy rằng tất cả mọi nỗ lực của chúng ta, bất kể chúng là đúng hay sai, mãi mãi chỉ có một xu hướng - làm cho chúng ta cảm thấy khá hơn. Chúng ta muốn gia đình chúng ta đừng gây rắc rối cho chúng ta, hơn là nguyện ước một cách chân thành cho họ được cát tường. Nếu chúng ta thương mến ai đấy, chúng ta muốn người này phục vụ lợi ích riêng của chúng tachúng ta cảm thấy giận tức nếu họ không cho chúng ta những gì chúng ta mong đợi về họ. Chúng ta thích những vị thầy thực chứng Giáo Pháp làm cho đời sống của chúng ta dễ dàng hơn và chúng ta phiền hà các ngài vì những rắc rối của chúng ta. Chúng ta cố gắng phản đối Giáo Pháp như không đủ tốt cho chúng ta, lấy thì dụ về đời sống của những người khác cho việc đi đến một kết luận như vậy. Nhưng những gì chúng ta có thể biết về đời sống của một người khác? Chúng ta ngay cả không biết đời sống của chúng ta một cách đầy đủ nữa kia mà.

Trong cách này, chúng ta thích trụ lại như chúng ta là, nhưng chúng ta muốn sống cùng với những vị bồ tát những vị phụng sự lợi ích cá nhân của chúng ta. Chúng ta không muốn nghĩ một cách có ý thức trong một cung cách như vậy nhưng chúng ta rõ ràng xử sự như vậy. Để cải thiện mọi thứ chung quanh chúng ta thay vì thế chính chúng ta thật sự muốn nói là mong muốn người khác làm cho đời sống chúng ta khá hơn.

Rõ ràng rằng những con người thông thường của thế giới luân hồi hành động để hỗ trợ sinh tử, và rằng những ai với ngưỡng vọng cho sự Giác Ngộ muốn lìa luân hồi hoàn toàn - khuynh hướng của họ là hoàn toàn đối kháng. Tại sao thế giới của xã hội luân hồi sinh tử lại mong muốn những người tôn giáo chịu trách nhiệm và hữu dụng cho thế giới luân hồi? Không có lý do xác đáng cho một quan điểm như vậy. Hãy nhìn vào lịch sử của nhân loại: 1) Đức Phật Thích Ca từ bỏ gia đình để tìm con đường tâm linh của chính Ngài; điều này làm cho gia đình của Ngài băn khoăn, bối rối và từ một quan điểm xã hội nghiệt ngã, quyết định của Ngài có thể được thấy như là một hành động đáng phiền trách hay tội lỗi; 2) Chúa Giê-su tạo ra nhiều rắc rối cho những giới thẩm quyền trong thời của Ngài, vì thế họ quyết định giết Ngài; 3) Mô-ha-mét đã bị áp lực phải trốn thoát để tránh bị giết bởi chính những người của Ngài; 4) Thân Loan bị xem như một tội phạm bởi nhà cầm quyền Nhật Bản và bị lưu đày; 5) Đức Đạt Lai Lạt Ma được xem như là một cá nhân nguy hiểm bởi chính quyền Trung Cộng.

Con người luân hồi chỉ thấu hiểu tôn giáo, trong tất cả những hình thức của nó, như một món trang trí của cõi luân hồi; như một truyền thống xã hội hay văn hóa, điều gì đấy có thể làm cho con người nghĩ tốt hơn về chính họ. 'Tôn giáo làm cho con ngườicon người hơn.' Đây là một quan điểm hoàn toàn của thế giới luân hồi.

Nếu chúng ta thích là con người, chúng ta không thể là một vị Phật. Trước nhất chúng ta phải nhận ra con người là dễ sợ như thế nào, khốn khó như thế nào để là con người! Ngoại trừ chúng ta thực hành Niệm Phật bằng không chúng ta không có bất cứ một cơ hội nào để thấy nhân duyên chân thật của con người. Không có tuệ giác thẩm thấu vọng tưởng của chính mình, chúng ta không thể tác động đến việc chuyển hóa thành Phật của chúng ta.

Thân Loan bị bình phẩm bởi người Tây phương bởi vì ngài không thích hợp với ý tưởng của con người về một vị thánh. Ngài rời tu viện của ngài, ngài kết hôn hai lần và rời bỏ cả hai người vợ, và đôi khi bị xem là tội phạm - ngài đã làm những thứ 'dễ sợ' này. Ngài đã làm những gì ngài đã làm nhằm đề khám phá ra ngài thật sự là ai và nhằm đề đối diện với khuôn mặt rực sáng của Đức Phật, bất chấp là gì. Ngài không bao giờ tìm kiếm bất cứ tín đồ hay đệ tử nào. Ngài đã hiểu rằng không có lý do gì để theo đuổi bất cứ một chúng sinh bị ràng buộc với nghiệp chướng. Đức Phật là đối tượng duy nhất để đi theo và tôn thờ.

Nhận ra điều này nhằm đề lắng nghe Đức Phật Di Đà, ngài đã viết về Giáo Pháp, ngài cuối cùng đã rời vợ ngài, Enshinni. Ngài đã không viết về sự thực chứng tôn giáo của ngài vì lợi ích của nhân loại. Ngài làm việc ấy cho chính ngài. Ngài là học trò đầu tiên của những tác phẩm của ngài. Nếu người ta thấy hữu ích trong những tác phẩm ấy, đấy chỉ là do bởi năng lực khách quan của Giáo Pháp đã tỏa hương trong chúng. Không một ai trong những người Tín Tâm là một tư tưởng gia. Tất cả là những người lắng nghe. Giáo Pháp là về việc lắng nghe và thể hiện.

Chỉ những người thực hành Đạo Phật một cách kiên quyết về Niệm Phật mới có thể làm cho chúng ta lắng nghe về Giáo Pháp. Chỉ trong cách này chúng ta mới có thể nhận ra những gì chúng ta làm, chúng ta làm cho chính chúng ta. Chúng ta thuyết phục chính chúng ta rằng chúng ta hành động cho một người nào khác đó, cho nhân loại, cho hành tinh, cho Giáo Pháp, cho Đức Phật nhưng chúng ta đang thật sự đang tìm kiếm lợi ích cho chính mình. Giới hạn sâu sắc này được liên kết một cách mật thiết đến bản chất luân hồi của sự tồn tại chính chúng ta. Chúng ta dấn thân với những người khác và tất cả chúng ta liên hệ nội tại, nhưng nhìn vào những người khác chung quanh chúng ta, chúng ta chỉ thấy chính chúng ta mà thôi. Nhược điểm này trong tình trạng con người của chúng ta không cho phép chúng ta thấu hiểu một cách thích đáng những người khác, bất chấp họ là ai. Nếu chúng ta cố gắng để thấu hiểu giáo huấn của Thân Loan mà không thực hành Niệm Phậtthực chứng Tín Tâm, thế thì chúng ta chỉ lãng phí thời gian của mình mà thôi. Không có Tín Tâm, chúng ta chỉ có thể nhìn thế giới qua mắt kính mù quáng của nghiệp chướng và thiếu quan điểm về sự tồn tại tương hỗ lẫn nhau. Tuy nhiên qua Tín Tâm, chúng ta có thể đi đến thấu hiểu cung cách mọi thứ là vì chúng ta là, rồi thì chúng ta có thể nhìn thế giới qua con mắt của Phật.

Cuối cùng, trong việc dành quá nhiều thời giannăng lượng của chúng ta trong việc theo đuổi những mục tiêu vọng tưởng luân hồi, chúng ta thất bại trong việc tập trung đến một thứ thật sự quan trọng - tỉnh thức với tâm của Phật qua sự thực chứng Tín Tâm. Nhưng làm thế nào những người đó, những kẻ hoàn toàn nhiễm ô với luân hồi sinh tử và những hứa hẹn sai lầm của nó thậm chí có thể bắt đầu tin tưởng trong khả năng của một đời sống tự do khỏi những vọng tưởng điên đảo như vậy?

Nam mô A Di Đà Phật

Nguyên tác The Samsaric Illusion
Ẩn Tâm Lộ ngày 6/12/2011
http://www.nembutsu.info/agnes1.htm

[1] Shinjin (信心): trong phạm vi của Tịnh Độ Tông Nhật Bản, nó liên hệ đến một sự tỉnh thức và an trụ tâm tỉnh giác với hoạt động của Thệ Nguyện Nguyên Sơ của Đức Phật Di Đàbảo đảm cho một sự vãng sinh.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25641)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37865)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18662)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9497)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14366)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35560)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10652)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19698)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23196)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13357)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10743)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20211)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9958)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14872)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17650)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17593)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31157)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25746)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13977)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17501)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10971)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12287)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10464)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12265)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9611)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12351)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9952)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14412)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9898)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10966)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14082)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15202)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13035)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23074)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23983)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12565)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15421)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17772)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15046)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16547)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16088)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17634)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11584)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17822)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10777)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11320)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11035)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36402)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8957)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9673)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34706)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10238)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10467)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12197)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13629)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14650)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9144)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24801)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11631)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10310)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15935)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15564)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14514)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12998)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12441)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14573)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18350)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9565)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18512)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18582)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19012)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18832)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11827)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13337)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47980)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11062)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13545)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13031)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11057)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12548)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11047)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31766)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11659)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant