Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

[25-36]

12 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 12899)
[25-36]
VI TIẾU
Tác giả: Viên Minh

[25-36]

 

25. BỊ TỰ DO NGĂN NGẠI

 Một thiền sinh mới nhập môn quen sống phóng túng theo kiểu “thiền du hí” của anh từ lâu, nên không thể nào chấp nhận luật lệ quá nghiêm cẩn của thiền viện. Anh nói:

- Thiền là tự do giải thoát. Thiền giải phóng con người ra khỏi mọi ràng buộc, vì sao thiền viện này giới luật khắt khe như vậy?

Sư nói:

- Người thật sự tự do thì có thể ung dung trong ràng buộc, cho nên ràng buộc tuy có mà không. Còn người không chịu nổi ràng buộc, vì chưa đủ sức tự tại vô ngại, cho nên ràng buộc vốn không bỗng trở thành ngăn ngại. Tiếc thay, chính anh đã bị tự do ngăn ngại mất rồi!

۞ 

Lời góp ý: 

Có hai thứ ngăn ngại:

- Ngăn ngại bên trong là những sợi dây tự mình ràng buộc như chấp ngã, hoài nghi, thủ trước, dục ái, hữu ái, phi hữu ái, sân hận, trạo cử, vô minh, tật đố, xan tham, lười biếng v.v...

- Ngăn ngại bên ngoài là những ràng buộc trong điều kiện đời sống, hoàn cảnh xã hội, không gian thời gian và những luật lệ khuôn phép v.v...

Cũng có hai loại tự do:

- Tự do nội tại là tự do của người tự mình giải thoát ra khỏi những ràng buộc của chính mình (loại ngăn ngại thứ nhất), không để cho vô minh, ái dụcbản ngã sai sử, buộc ràng và ngăn ngại.

- Tự do ngoại tại là thứ tự do không muốn bị ràng buộc bởi điều kiện xã hội, bất chấp luật lệ, tự tung tự tác, phóng túng tùy tiện.

Đối với những người đã được tự do bên trong thì những ràng buộc bên ngoài không còn là điều kiện ngăn ngại, nên đối với họ “tự do là ung dung trong ràng buộc”. Đó chinh là tự tại vô ngại vậy.

Nhưng đối với người mơ ước một đời sống tự do phóng túng bên ngoài thì tất cả mọi điều kiện thực tế của cuộc sống đều trở nên ngăn ngại. Những luật lệ khuôn phép đúng với hoàn cảnh xã hội thường không phải là ràng buộc mà chính là tạo điều kiện cho một đời sống tương đối tự do. Tự do bên ngoài luôn luôn là tự do tương đối, cho nên mơ ước một sự tự do quá tuyệt đối giữa cuộc đời tương đối chính là tự ràng buộc mình thêm.

Ví như một người tự lấy giây trói chặt mình (loại ngăn ngại thứ nhất) rồi lại muốn mang nguyên những trói buộc như thế mà đi lại tự do thì càng bị ý muốn tự do đó hành hạ thêm. Đó là hạng người bị tự do ngăn ngại vậy!


 26. QUỞ TRÁCH THIỀN ĐỊNH

Một thiền sinh quá tinh tấn tham thiền nhập định đến quên ăn bỏ ngủ. Sư trách:

- Anh tham thiền chỉ thêm dục vọng, chẳng ích gì đâu.

Ít hôm sau đi qua thiền đường, thiền sinh ấy thấy Sư đang dạy một số hành giả về cách tọa thiền, anh tức giận hỏi:

- Hôm trước Thầy quở trách tham thiền sao hôm nay Thầy lại dạy tọa thiền nhập định?

Sư mắng :

- Ta quở trách anh tham thiền chứ đâu có quở trách thiền định.

۞ 

Lời góp ý: 

Thiền định tự nó không sai, chỉ có người sử dụng nó sai mà thôi. Chỉ trích thiền định là hồ đồ và ấu trĩ, vì thiền định có cái dụng của nó nếu như sử dụng đúng thời, đúng chỗ, đúng căn cơ và đúng “pháp vị” của nó.

Có người nghe các Thiền Sư nói: “ngồi thiền không thành Phật”, “chỉ lấy đá đè cỏ”, “mài gạch thành gương”,... rồi thẳng tay tống khứ thiền định ra khỏi thành trì tu tập! Nếu chấp thiền định làm cứu cánh thì quả là không thể thành Phật, cao lắm chỉ đến Sắc Giới, Vô Sắc Giới mà thôi. Nhưng thiền định được sử dụng thiện xảo lại là “năng sinh tuệ”giải thoát ra được biết bao phiền não giữa cõi trần.

quở trách một thiền sinh vì anh ta quá ham mê thiền định đến nỗi bỏ quên đời sống thực mà đáng lẽ anh ta phải thâm quán từng giây từng phút. Thiền định như thế chỉ tự cô lập, giam hãm, ràng buộc mình và tách mình ra khỏi dòng biến hóa của pháp giới tánh (Sabhàva - dhammatà).

Một hôm Đức Phật lấy một sợi râu hạt lúa mì cầm lên và nói: “Này các Thầy tỳ kheo, nếu như cầm không đúng hướng thì sợi râu này sẽ không đâm thủng ngón tay. Cũng vậy, pháp mà Như Lai tuyên thuyết, nếu như không hành đúng hướng, sẽ không đâm thủng vô minh ái dục”.

Đức Phật không hoàn toàn tán dương thiền định, cũng không hoàn toàn bác bỏ thiền định. Ngài dạy: “Như Lai chỉ tán dương thiền định nào đoạn giảm bất thiện pháp (5 triền cái)tăng trưởng thiện pháp (5 thiền chi), chứ Như Lai không tán dương thiền định nào tăng trưởng bất thiện pháp và đoạn giảm thiện pháp”.

Bởi thế người xưa có lý khi nói:

 Thật tế lý địa bất thọ nhất trần

 Sự sự môn trung bất xả nhất pháp.

 


 

 27. CỬA TRỜI RỘNG MỞ

Chư Thiên cõi trời Đao Lợi nhìn xuống cõi trần thấy nhiều người đau khổ, động lòng từ liền bạch với vua trời Đế Thích:

- Tâu Bệ Hạ, xin Ngài rủ lòng từ bi mở cửa cho người trần được vào thiên giới, như thế mọi người mới được công bằng bình đẳng.

- Không được, nghiệp dĩ thế nào phải chịu như vậy mới gọi là công bằng.

Nhưng Chư Thiên cứ tâu mãi nên Vua Trời đành cho mở cửa.

Chẳng bao lâu Vua Trời phải triệu tập Chư Thiên để thành lập lực lượng phòng chống tệ nạn xã hội và soạn thảo bộ luật hình sự.

۞ 

Lời góp ý: 

“Trí không bi là trí thông minh điêu xảo

 Bi không trí là bi thương hảo thương quàng”

Thật vậy, nhiều người lầm tưởng tình thương dung tục được phóng đại thành lòng từ bi. Lòng từ bi và tình thương yêu chẳng có chút quan hệ nào với nhau cả, thậm chí đôi khi còn trái ngược với nhau nữa là khác.

Từ được chính thức định nghĩa là không sân, và bi là không hại. Một người trong tâm không một mảy may hờn giận oán thù và không một manh tâm ác ý làm hại bất cứ chúng sanh nào, người đó hẳn đã loại bỏ ra ngoài ý niệm thường tình về thương và ghét. Thương và ghét là tâm địa chúng sanh trong vòng bản ngã. Còn từ bi thật sự thì vô ngã, vô lượngvô cùng.

Lòng từ bi thâm sâu, quảng đại mà dường như dửng dưng lợt lạt (Lão Tử: tình thâm nhược đảm), lắm khi còn có vẻ như tàn nhẫn, vô tâmbất động, nhưng như thế mới thật là lòng từ bi vô hạn. Dường như tàn nhẫn vô tâm bởi vì như thế mới có thể sáng suốt nhìn thấy chúng sanh chịu nhân quả nghiệp báo rành rànhtâm không hề dao động. Trắc ẩn xúc động chỉ có trong lòng những kẻ tình thường.

Vì vậy từ bi không phải là ra tay cứu vớt người ác vào thiên đàng. Đó là bi không trí. Từ bi của bậc trí là chỉ khai thị cho người ác biết rõ nguyên nhân đau khổ mà họ tự làm ra. Nhưng ngay cả việc khai thị cũng phải tùy căn duyên chứ không phải bất kỳ ai cũng khai thị được.

Đem người ác vào thiên đàng đó là tình thương dung tục của kẻ ngu, vì hậu quả tất nhiên là... thiên đàng dậy sóng. Thấy người ác gặt quả khổ mà không một chút động lòng thương cảm của kẻ tình thường đó mới là từ bi đầy trí tuệ, vì đã thấy rằng chính quả khổ dạy cho người ác biết sai lầm của mình nên không để tình cảm chủ quan xen vào can thiệp. Đó là một cách thể hiện lòng từ bi tự nhiên của pháp (Thiên Chúa giáo: Bác ái của Đức Chúa Trời).

Đức Chúa nói :”Hãy vác thập tự giá mà vào thiên đàng”. Nghĩa là gánh chịu khổ đau chính là cách giải thoát ra khỏi khổ đau vậy.


 

28. NẶNG KÝ

Thấy một tín đồ thường đến chùa bố thí, cúng dường học hỏi giáo lý, tu tập thiền định rất siêng năng, Sư hỏi:

- Ông tinh tấn như vậy để cầu gì?

- Thưa Thầy, con muốn lập bồi công đức, cho đến khi phước huệ đầy đủ hầu có thể đắc thành chánh quả.

Sư nói:

- Nếu vậy lúc thành chánh quả chắc ông phải nặng ký lắm!

۞ 

Lời góp ý: 

Hướng tu hành chân chính không phải là cố gắng xây dựng cho mình thành một con người lý tưởng tài năng đức độ. Không phải bồi đắp từng chút công đức, sở tri và sở đắc cho đến khi hoàn thành “tác phẩm tuyệt đối cuối cùng”.

Chân, thiện, mỹ cuả tự tánh pháp (Sabhavàdhammatà) vốn đã tự viên mãn (Tổ Huệ Năng: hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc), chẳng phải tầm cầu (bất luận cầu chơn),chẳng cần thiết lập (chơn bất lập).Chỉ vì vọng khởi (vô minh ái dục) nên bản ngã sanh. Lấy bản ngãhoàn thiện con người lý tưởng, quả vị lý tưởng thì cũng hoàn là bản ngã. Đó chỉ là dục vọng của Tiểu ngã muốn trở thành Đại ngã của tư tưởng Bà Là Môn.

Bản ngã cùng với tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến và tất cả thuộc tính khác của vô minh ái dụcnguyên nhân của tất cả luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau. Đó là thế giới mộng ảo huyễn hóa. Vì vậy tu hành giống như tỉnh dậy giữa cơn ác mộng đêm trường, bỗng nhiên những vui buồn sợ hãi tiêu tan và cái chân như tự tánh (yathàbhùtà) hiển hịên toàn chân. Vì vậy Đức Phật dùng chữ “diệt” để diễn tả Diệt đế (chân tánh, Niết-bàn) khi Ngài dạy: “Pháp Như Lai tuyên thuyết chỉ có nhất hướng viễn ly, ly tham, ly chấp, đoạn xả, đoạn diệt, tịch tịnh, thắng trí, giải thoát, Niết-bàn”.

Đoạn diệt là điều mà bản ngã uý kỵ, nên nhiều người khi nghe nói đến đoạn diệt thì vô cùng sợ hãi, vội vàng lên án là tiêu cực, tiểu thừa. Nhưng tựu trung đoạn diệt chỉ là đoạn diệt chấp ngã chấp pháp cùng với thuộc tính vô minh ái dục của nó mà thôi. Ví như người nhìn lầm bụi cây là bóng ma sinh tâm sợ hãi. Khi nhìn kỹ thấy đó chỉ là bụi cây thì cả bóng ma lẫn sợ hãi đều viễn ly, đoạn diệt. Kinh Viên Giác nói: “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”, và Lão Tử cũng nói: “Vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn dĩ chí ư vô vi” (hành đạo ngày càng bớt, bớt rồi bớt nữa cho đến vô vi).

Vậy tu hành không phải là bồi thêm cái ngã cho nặng ký mà chính là bớt đi (ly, tổn, đoạn, diệt) tất cả mọi ràng buộc của vọng ngã để trở lại bản lai diện mục xưa nay vốn đã tròn đầy.

 


 

29. CON NGƯỜI THẬT

 Có ông tăng thuyết pháp rất lưu loát nhưng giới hạnh rất bê bối. Những người nghe pháp thì rất nể trọng pháp sư còn những người thấy đời sống của ông thì không thể nào chịu phục.

Được hỏi về con người thật của vị pháp sư, thiền sư nói:

- Con người thật nhập Niết bàn rồi.

۞ 

Lời góp ý: 

Khi còn vô minh ái dục thì mỗi người đều có hai bộ mặt, đó là con người thật và con người giả. Con người giả chính là vọng ngã, thủ đắc bởi những yếu tố ngoại lai như ý niệm, tư tưởng, quan niệm, tình cảm từ môi trường sống: hoàn cảnh xã hội, trường học, gia đình, bè bạn,... Những tập tính hay tập khí đó được huấn tập dần dần cho đến khi mình trở thành... một kẻ lạ mặt (từ của Albert Camus), càng ngày càng xa rời tự tánh, càng xa lạ với con người thật.

Con người giả cũng không phải đơn thuần, anh ta vô cùng đa diện: khi thì anh, khi thì em, khi thì cha, khi thì chú, khi vui lúc giận chẳng chút giống nhau. Vì vậy anh ta luôn luôn tự mâu thuẫn với chính mình cả tri thức lẫn tình cảm, cả hành động lẫn lý thuyết. Vì vậy chẳng có gì ngạc nhiên khi anh ta nói một đường làm một nẻo. Thực ra ai mà chẳng thế khi mình còn đa mang những con người xa lạ.

Còn con người thật ở đâu? Sư nói: “Con người thật nhập Niết bàn rồi”. Câu này hàm ý hai nghĩa:

1) Con người thật đã (bị con người giả giết) chết rồi. Ý nói anh ta chỉ là con người giả chứ làm gì còn có con người thật.

2) Con người đích thực chính là bản lai diện mục, chân như tự tánh, mà chân như tự tánh thì lúc nào lại chẳng ở nơi Niết bàn.

 


 

30. VÔ THƯỜNG

 Một chú tiểu đang tưới phong lan, có người khách hỏi:

- Chú đã biết đời là vô thường sao còn trồng làm gì thứ vô thường tạm bợ ấy?

Chú tiểu nói:

- Nhưng nếu chúng mà thường thì tôi còn trồng làm gì nữa?

 ۞

Lời góp ý: 

Khi nghe Đức Phật dạy “Sabbe Sankhàrà aniccà’ti” (tất cả hữu vivô thường), người ta nghĩ rằng một khi mọi hiện tướng đều biến đổi không ngừng thì cần phải dẹp bỏ hết đi để tìm cái gì thường còn bất biến. Đó là một hiểu lầm to lớn. Thấy vô thường chính là để đừng rơi vào ảo tưởng thường còn. Ví dụ khi ta thấy đúng thực chất một đóa hoa có nở có tàn thì ta không còn bị ảo tưởng của dục vọng ước mong đóa hoa còn mãi để rồi rước lấy thất vọng khổ sầu. Cái khổ phát xuất từ nguyên nhân thấy sai chứ không phải ở bản chất vô thường của hữu vi pháp.

Lại nữa, thật ra “hữu vi pháp” hoặc “các hành” ám chỉ tâm sinh diệt của chúng sanh hơn là các ngoại tướng (sắc, thanh, hương, vị, xúc). Chính tâm sinh diệt này tác thành bản ngã, tư tưởng, không gian, thời gianđau khổ. Cũng vậy, khi nói “vô vi, vô sinh diệt” là nói tâm không đông, không thối chuyển hoặc tâm không sinh ngã pháp, chứ không phải là thường tồn vĩnh cửu.

ngộ nhận tai hại như thế nên người ta toan lìa bỏ thế gian vô thường tạm bợ để đi tìm thế giới thường hằng vĩnh cửu. Đó là “hướng ngoại cầu huyền” nên Ngài Huệ Năng một phen phải xác định:

 “Phật Pháp tại thế gian

 Bất ly thế gian giác,

 Ly thế mích bồ đề

 Cáp như tầm thố giác”.

Người giác ngộ được bản chất vô thường của hữu vi pháp, có thể ung dung chơi trò chơi “như huyễn hạnh” để chỉ cho kẻ mê thấy đời là hư huyễn.

 


 31. PHÂN TÂM NHỊ DỤNG

Sư đến viếng một nhà Phật tử, thấy bà chủ nhà vừa thờ Phật vừa thờ Thần Tài, Sư hỏi:

- Bà thờ Thần Tài để làm gì?

- Dạ, để cầu tài.

- Thế còn thờ Phật?

- Dạ, để cầu giải thoát.

Sư nói:

- Bà quả là có tài phân tâm nhị dụng.

 ۞

Lời góp ý: 

Kẻ mê tham lam bắt cá hai tay, vừa muốn ôm đồm, vừa cầu giải thoát. Đã khởi tâm cầu sở đắc thì tất nhiên tự mình phân hóa nhị nguyên. Như trong câu Pháp Cú Đức Phật đã dạy: “Kẻ ngu đi tìm sở đắc chỉ để chẻ đầu ra làm hai”.

Người bố thí để cầu giàu sang thì sao còn gọi là bố thí, kẻ xả lợi để mua danh thì sao còn gọi là xả lợi? Cũng vậy, kẻ muốn giác ngộ giải thoát lại cầu tri thức và sở đắc thì muôn đời vẫn nằm trong vòng luẩn quẩn buộc ràng.

Tuy nhiên, khi đã dứt mê tuyệt ái thì trong một pháp tự nọ lại có đủ mọi thứ mà không hề mâu thuẫn. đúng là “Nhất Phật quốc tại nhất sa trung” mà người mê không thể nào thấy được. Vọng cầu thì “pháp pháp tương loạn”,hết mê thì “pháp pháp tự tức”, và những pháp tương khắc tương sinh trở nên hài hòa bất nhị.

Lão Tử nói: “Bậc Thánh nhân biết dùng vô vixử sự thì thấy có - không cùng sanh, khó - dễ cùng thành, dài - ngắn cùng so, cao - thấp cùng chiều, giọng - tiếng cùng họa, trước - sau cùng theo” mà chẳng hề chống trái.

Tiếc thay, kẻ mê cứ phân tâm đuổi bắt hai chiều để đánh mất thực tại hiện tiền vốn còn nguyên vẹn.

 


 32. BA VỊ THẦN

Thần Sáng Tạo, Thần Bảo Trì và Thần Hủy Diệt là ba vị thần nắm giữ vận mạng muôn loài.

Vào một thời cảnh chiến tranh, thiên tai, bịnh tật phát sinh ra nhiều khiến chúng sinh chết chóc, cảnh vật tiêu điều... Vì vậy chúng sinh than oán Thần Hủy Diệt.

Thần Hủy Diệt thấy vậy nói với hai vị kia:

- Chúng sanh than oán tôi, hơn nữa tôi làm việc cũng đã mệt, nhị vị để tôi ngủ một lát.

Nhưng chưa được bao lâu Thần Hủy Diệt lại bị đánh thức và nghe Thần Sáng Tạo hớt hải nói:

- Bây giờ dưới trần lại quay qua than oán tôi, vì không những nạn nhân mãn tràn lan mà tất cả mọi vật đều sinh sôi nẩy nở chật ních không còn chỗ nào để thở...

Thần Hủy Diệt ngái ngủ nói:

- Thì anh ngưng sáng tạo đi là xong chứ gọi tôi làm gì !

Trong khi nguy kịch, Thần Sáng Tạo vội vàng ngưng việc. Thế là lập tức dưới trần tất cả đều trở nên im lìm bất động. Đó là hậu quả tài năng đơn phương của Thần Bảo Trì mà người trần thường hay mến chuộng!

 

۞ 

Lời góp ý: 

Tôn giáo ấn độ thời xa xưa đã thần hóa tính chất biến dịch SINH - TRỤ - DIỆT của vũ trụ vạn vật thành ba vị Thần: SÁNG TẠO, BẢO TRÌ và HỦY DIỆT.

Sinh - Trụ - Diệt là định luật vô thường của sự sống, không mấy ai ưa già - bịnh - chết, nên cũng chẳng bao người thích sự diệt vong.

Nhưng nếu vạn vật có sinh mà không diệt thì chẳng bao lâu vũ trụ bao la cũng khó tìm chỗ cắm dùi ! Hoặc nếu vạn vật có diệt mà không sinh thì không gian vô tận cũng là hư vô trống rông. Còn nếu vạn vật không sinh thêm, chẳng diệt bớt thì sao? Thì chắc chắn vạn vật sẽ trở nên ù lì, bất động, tuy được bảo trì nguyên vẹn, trường tồn vĩnh cửu, nhưng liệu có còn là lý tưởng ước mơ của mọi người nữa không, hay cõi vĩnh hằng chỉ là nghĩa trang đời đời khô chết?

Vô thường sinh diệt không phải là một kết luận bi quan, mà chính là vẻ đẹp vĩnh hằng của sự sống. Sinh trụ là thành tố của sự sống mà hoại diệt cũng là thành tố của sự sống. Sự sống chẳng THƯỜNG vì nó “sinh sinh nhi họa”, sự sống không ĐOẠN vì nó “miên miên nhược tồn”. Chính vì không thấy thực tánh “vô thường thị thường” mà sinh tâm chấp thường chấp đoạn. 

Mê chấp thế giới thường còn để rồi đắm trong sinh diệt!

Chối từ trần gian tạm bợ cho nên vọng đến vĩnh hằng!

 


 33. BẢO VỆ ĐẠO PHÁP

Một thanh niên mới xin xuất gia vào thiền viện đã tỏ vẻ rất nhiệt tình… Thấy vậy, Sư hỏi:

- Chí nguyện xuất gia của anh là gì?

Thanh niên nói:

- Con muốn trở thành một người bảo vệ đạo pháp.

Sư nhìn người thanh niên từ đầu đến chân mà nói:

 - Có lẽ anh nên để đạo pháp bảo vệ anh thì hơn.

۞ 

Lời góp ý: 

Khi nói đến bảo vệ Đạo Pháp, nhiều người lầm lẫn một bên là bảo vệ hệ thống Giáo Hội hoặc tông phái, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, bảo vệ truyền thống lễ nghi, kinh điển, giáo điều, đền chùa hoặc các biểu tượng đạo giáo v.v..., và một bên là lấy việc học đạo, hành trí, tu chứnghoằng dương chánh pháp để giữ gìn chân lý.

Thực ra chân lý hay Đạo Pháp không cần phải giữ gìn bảo vệ, vì chân lý dù cho có bị nhận xuống bùn thì vẫn là chân lý, còn tà đạo dù có được tâng bốc tận mây xanh cũng vẫn là tà đạo.

Ngược lại, chân lý bảo vệ chúng ta hơn là chúng ta bảo vệ chân lý. Vì thế, Đức Phật dạy: “Thật vậy, Pháp hộ trì cho người hành trì Pháp” (Dhammo have rakkhati Dhammacàrì). Người hành bốn Thắng Xứ mới xứng đáng là người bảo vệ Đạo Pháp:

1) Tuệ thắng xứ (Pannadhitthàna): trí tuệ (bát nhã) thắng tri pháp đúng thực tướng (vô ngã), không bị khổ lạc chi phối, không rơi vào hữu vô, không chấp thủ thường đoạn, diệt tận khổ ưu, thành tựu thánh trí, chứng ngộ Niết Bàn.

2) Đế thắng xứ (Sacc’àdhitthàna): không dao động, không điên đảo, không hư vọng, chân thực kiên cố, vô thượng an ổn Niết Bàn.

3) Xả ly thắng xứ (Càg’àdhitthàna): buông bỏ tất cả chấp y: bản ngã, ngũ uẩn, trạng thái, cõi giới,... kể cả chấp y Niết Bàn.

4) Tịch tịnh thắng xứ (Upasam’àdhitthàna): đoạn tận tham, sân, si,... cùng với tất cả các triền phược, kiết sử, tùy miên v.v..., tịch diệt hiện tiền, tự tại vô ngại.

Người như thế còn được Đạo Pháp bảo vệ, huống chi kẻ phàm phu mà có thể bảo vệ Đạo Pháp.

 


 34. TRIẾT HỌC LÀ GÌ

Để mở mang kiến thức ngoại điển, Sư cho tăng chúng học thêm triết học Đông Tây.

Sau nhiều giờ học, một chú tiểu hớn hở nói với bạn:

- Đến nay, tôi đã hiểu triết học là gì rồi.

Chú tiểu kia thì đang mù tịt cái môn phiền phức này nên như người chìm vớ được phao:

- Nói nghe mau đi, triết học là gì vậy?

-Ối, có gì đâu! Triết học chỉ là một hệ thống ngôn ngữ phức tạp nói về những điều giản đơn đó mà!

۞ 

Lời góp ý: 

Triết học chỉ là hệ thống ngôn ngữ phức tạp, mang tính tri thức bác học, còn Đạo thì giản dị vô ngôn, vì thế mà “có giản dị thì mới thấy được chân lý của trời đất” (Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hỷ). Triết học lấy lý trí để nắm bắt, còn Đạo lấy “vô tri”thể nhập. Đạo để mà sống chứ không phải để thức tri. Trí tuệ minh bạch chính là vô tri, bởi vì còn có một chút “lập tri’ của kiến thức là mây mù vô minh che phủ. Vì thế khi phải phương tiện dùng ngôn ngữ làm ngón tay chỉ mặt trăng, Đức Phật không dùng hệ thống ngôn ngữ bác học phức tạp Sanskrit của Bà La Môn, mà dùng ngôn ngữ Pàli giản dị bình dân của người Màgadha. Còn Lão Tử thì nói: “Sáng suốt mọi bề có thể vô tri được chăng?” (Minh bạch tứ đạt năng vô tri hồ), hoặc “biết dừng lại ở chỗ không biết là tới rồi vậy” (cố tri chỉ kỳ sở bất tri chí hỷ). Thế thì một thiền sư cũng có lý khi nói: “Chân lý mà đem ra quy định quả là việc làm của kẻ ngốc nghếch”.

 


35. NGHIỆP CÒN NẶNG

Thấy một bà tín nữ đem một lồng chim tới chùa, chú tiểu mừng rỡ nói:

- Để tôi phóng sinh cho.

tín nữ giải thích là bà không có ý định phóng sinh tại thiền viện, bà chỉ gởi lại nhờ chú tiểu giữ để ngày mai đem xuống chùa dưới phóng phóng sinh trong dịp lễ ở đó.

Chú tiểu tiu nghỉu than thầm: “Đem chim rừng về lại phố, lại để đến ngày mai đi thêm cả buổi đường nữa, chắc nghiệp bầy chim này còn nặng!”

 ۞

Lời góp ý: 

Những người không thấy Đạo, dù có tu hành “vị tha” cách mấy cũng chỉ làm khổ thiên hạ. Nếu phóng sinh để đổi lấy lợi, lấy danh, lấy quả báu vị lai thì đâu phải là vị tha mà chỉ là vị kỷ, không những không phước mà còn thêm tội.

Phóng sinh là một hành động đúng đắn tự nhiên khi người ta biết tôn trọng sự sống, chứ không phải đem sinh mạng của chúng sanh làm vật bán buôn danh lợi.

Người không có vô minh ái dục tự nhiêntrí tuệ, có trí tuệ tự nhiêntừ bi, có từ bi đương nhiên thấy chúng sanh bị nạn thì cứu v.v... Việc làm đó không hề có bóng dáng của bản ngã làm gì có ích kỷ với vị tha.

Mặc Tử nguyện mài mình từ đầu đến chân để lợi thiên hạ, chính vì lòng kiêm ái.

Dương Tử thề dù chỉ mất một sợi lông mà lợi thiên hạ cũng không làm, đâu phải vì ích kỷ mà chỉ sợ người đời ham lợi khổ thân.

Vậy trên đời dễ mấy ai biết thế nào là vị tha, thế nào là ích kỷ.

 


  36. HÃY ĐỂ YÊN

Một giáo sư triết học muốn biết Đạo Phật chủ trương “Thường tại luận” hay “Vô thường luận”.

Sư nói:

- Đó là những hý luận tà kiến.

Giáo sư ngạc nhiên:

- Như vậy Đạo Phật chủ trương luận nào?

Sư đáp:

- Chân lý nằm ngoài chủ trương và lý luận, cho nên Đạo Phật không chủ trương luận nào cả. Cái gì vô thường hãy để yên cho nó vô thường, cái gì thường tại hãy để yên cho nó thường tại.

 ۞

Lời góp ý: 

Các triết gia, các nhà tư tưởng toan nắm bắt chân lý bằng những kết luận vu vơ phiến diện của mình, rồi gán lên cho nó đủ thứ nhãn hiệu: đoạn - thường, cấu - tịnh, hữu - vô, nhất - dị,..., tưởng rằng có thể nhốt chân lý trong cái lồng quan niệm vàng son của mình, chẳng ngờ, chính quan niệm nhốt họ vào ngục tù, còn chân lý thì muôn đời vẫn ung dung tự tại.

Thường - đoạn, có - không, tăng - giảm, nhất - dị v.v... đều đúng cả vì pháp chẳng thiếu một phương diện nào, nhưng cũng đều sai cả khi ta chỉ toan kết luận một chiều. Cho nên, trong Kinh Brahmàjàla, Đức Phật gọi sáu mươi hai quan niệm của Triết học ấn độ thời bấy giờ là hý luận tà kiến.

Như những người mù sờ voi, vì không thấy toàn diện, nên sờ đụng phần nào liền kết luận voi là phần đó.

Muốn thấy chân lý một cách trọn vẹn chỉ cần biết lặng lẽ chiêm quan, hồn nhiên cảm nghiệm, hay nói một cách khác là phải biết... chính mình là chân - lý - không - hai.

Đứng ngoài mà kết luận thị phi, rồi bỏ đoạn lấy thường, chê tướng chọn tánh, xả hữu chấp vô v.v..., không những là thái độ lăng mạ Pháp, mà còn tự chìm sâu trong luân hồi sinh tử. Sao không bỏ cái ngã mình đi để cho chân lý được yên thân như nó đang là, như chân như thật?

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25592)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37842)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19531)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18621)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14216)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20070)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9482)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14336)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35525)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10634)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19659)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10733)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20175)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10583)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9933)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14846)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17628)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17568)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13154)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31110)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25698)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13958)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17482)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10944)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12262)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10444)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12242)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11738)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9599)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12321)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9166)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9933)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9744)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12005)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14390)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9886)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11190)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8285)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10951)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14057)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9880)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15176)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13017)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23053)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23939)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12539)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15408)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17745)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15026)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16523)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16022)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17576)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11567)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11595)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17787)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10748)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10504)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11291)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12059)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11020)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36369)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8940)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9648)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17234)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10219)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10449)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12180)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13592)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14632)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9131)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24772)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11618)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10299)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15913)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15546)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14486)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14551)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18320)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9555)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18497)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18557)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18991)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18800)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11799)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13305)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47953)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11038)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13530)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13014)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11048)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12531)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11038)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31734)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11647)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant