Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán đảnh

17 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 13645)
Quán đảnh

QUÁN ĐẢNH (灌頂- Abhiṣeka)

DONALD K. SWEARER
Thanh Hòa dịch

Quán đảnh đã được định nghĩa một cách khái quát là “hành động hay nghi thức ban ý nghĩa tôn giáo (thánh phước) cho những đồ vật, nơi chốn, hoặc con người; thường bằng năng lực và sự thánh thiện” (Bowker, tr. 234). Trong Phật giáo, quán đảnh đã được miêu tả như một nghi thức biến đổi một pho tượng hoặc một ngôi tháp từ một vật thể thế tục thành tinh tủy của một đức Phật (Bentor 1997). Vật được quán đảnh không chỉ có những pho tượng và tháp mà còn bao gồm cả những tranh, sách, và những đồ vật khác mang ý nghĩa tượng trưng. Abhiṣeka, từ tiếng Phạn này thường được dịch là “consecration—quán đảnh”, mở rộng ý nghĩa này bao gồm cả vương vị (rājābhiṣeka) và chỉ định cho những hành động hay nghi thứcđặc biệt là việc rưới hoặc xoa bằng nước thánh. Mục này bàn đến các nghi thức thánh hóa những đồ vật tiêu biểu, đặc biệt trong sự thờ cúng của Phật giáo, cụ thể là những tượng và xá lợi được thờ trong bảo tháp, ngoại trừ những nơi thiêng liêng như tự viện và những nhân vật tôn kính như các cao tăng hoặc vua chúa. Hơn nữa, dù thanh tẩy bằng nước là yếu tố đặc thù trong các nghi thức quán đảnh, bài viết này còn mở rộng ý nghĩa của abhiṣeka vượt lên trên hành động thoa xức để kể đến nhiều kỹ thuật và dụng cụ mà qua đó những vật dụng trên được thánh hóa, làm cho chúng trở thànhnăng lựctốt lành cả về những gì chúng tượng trưng hay biểu trưng cho cũng như những gì chúng trở thành thông qua việc quán đảnh.

Chẳng hạn như, một tượng Phật đã được quán đảnh đồng thời tượng trưng và là sự hiện diện sống động của đức Phật, trong khi một tượng chưa được quán đảnh chỉ tượng trưng cho Đấng giác ngộ mà thôi.
Một bức tượng Phật hay Bồ tát trở thành biểu tượng trong ý nghĩa rằng nó có cái tinh túy của cái mà nó biểu trưng nhờ thông qua một nghi thức quán đảnh. Trái lại, một viên xá lợi Phật tự bản chất nó đã có cái tinh túy của đức Phật. Vì thế, một ngôi tháp trở thành một biểu tượng khi nó thờ một viên xá lợi, và một viên xá lợi có thế được đặt vào trong một pho tượng Phậtmục đích tương tự. Một viên xá lợi được sử dụng theo cách đó sẽ đóng vai trò như một phương tiện mà thông qua đó những pho tượng Phật và ngôi tháp được quán đảnh. Tục tôn thờ thi thể được lưu lại (toàn thân xá lợi) của những vị cao tăng ở Trung Hoa có thể được xem như lối biểu đạt cao nhất sự biểu tượng hóa ấy—sự dung hợp hoàn toàn hình ảnh của một vị thánh và di cốt (xá lợi). Cũng như nhiều ký hiệu hay những di vật đã được sử dụng và liên quan—dấu chân, cây bồ đề, bình bát, tượng, và thậm chí cả sách—đã hướng đến biểu thị sự hiện hữu của một đức Phật không còn nữa (parinirvāṇīzed), nhiều nghi thức được phát triển để đưa vào chúng sự hiện hữunăng lực của Phật. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những biểu tượng chính yếu được gắn liền với những nơi quan trọng nhất của sự tu tập, cụ thể là những viên xá lợi và những pho tượng Phật. Khắp châu Á Phật giáo, từ Ấn Độ đến Nhật Bản, những ngôi tháp, những ngôi chùa, những tượng sảnh trở thành những đặc điểm chính yếu của kết cấu phức hợp mang tính chất tự viện, nơi được xem như là “trú sở của Như Lai” (buddhavāsa), kết hợp với “trú sở của tăng – tăng già lam” (saṅghāvāsa). Như những thuật ngữ này cho thấy, tu viện đã và tiếp tục giữ vai trò làm nơi mà ở đó những vị tăng không chỉ theo đuổi những lộ trình thiền định và học tập mà còn tham dự vào những buổi lễ cầu nguyện như những chức sắc nghi lễ. Một trong những hoạt động nghi lễ được cử hành bởi những vị tăng, mà trọng tâm là việc cúng Phật, bao gồm cả những biểu tượng quán đảnh.

Thỉnh Phật quang lâm

Không có gì lạ lắm, tất cả những khóa lễ quán đảnh khắp châu Á không giống như nhau. Chúng phản ánh những truyền thống Phật giáo khác nhau cũng như những nền văn hóa đặc thù mà ở đó chúng thịnh hành. Tuy không một nghi thức nào thích hợp cho tất cả các hoàn cảnh nhưng vẫn có những sự tương đồng. Nổi bật lên trên tất cả, những hình tượngxá lợi Phật cũng như những di vật khác liên hệ đến đức Ngài khiến cho đức Ngài trở nên hiện hữu trong một khoảng thời giankhông gian nhất định. Bằng vào cách ấy, chúng đảm nhiệm vai trò vật tương đương hay thay thế thiết thực của đức Phật, đặc biệt là trong những bối cảnh lễ lạt.

Cuốn Kosalabimbavaṇṇanā (Bản tán dương pho tượng ở Kosala), một bản văn Pāli của người Sir Lanka vào thế kỷ thứ XIII, miêu tả tượng giữ vai trò thay thế đức Phật như thế nào. Cũng như phiên bản đại thừa được biết đến khá nhiều về câu chuyện liên quan đến vua Ưu Điền (Udayāna - 優填王), sự vắng mặt của đức Phật trở thành nhân duyên cho việc kiến tạo một hình tượng của đấng Thế tôn. Trong tạng Pāli, vua Ba-tư-nặc (P: Pasenadi, skt: Prasenajit - 波斯匿) của nước Kiều-tát-la (Kosala -憍薩羅) đến viếng thăm đức Phật mới biết Ngài đã đi du hóa phương xa. Vài ngày sau, khi đức Phật trở về, vua bày tỏ là đã thất vọng chừng nào khi không gặp được Phật và thỉnh cầu làm một pho tượng giống như đức Như lai cho cả thế gian được lợi lạc. Đức Thế Tôn đã ưng thuận và dạy thêm rằng nếu ai kiến tạo được một pho tượng dù bất cứ kích cỡ hay chất liệu gì thì cũng đã tích lũy được vô lượng vô số công đức. Trở về nơi ở của mình, vua Ba-tư-nặc cho làm một pho tượng Phật bằng gỗ chiên đàn (skt: candana - 栴檀 - 檀香 - 栴檀香) thể hiện 32 tướng tốt của một bậc Vĩ nhân (Skt, mahāpuruṣa; Pāli, mahāpurisa), pho tượng được dát vàng và quấn y vàng. Sau khi hoàn tất, vua thỉnh Phật đến xem tượng được tôn trí trong một bảo điện. Khi đức Phật bước vào điện, pho tượng hành động như thể nó được ban cho sự sống, đứng dậy chào bậc Chánh đẳng giác; đức Phật tuyên bố rằng sau khi Ngài nhập niết bàn, pho tượng này sẽ khiến cho giáo pháp của Ngài tồn tại trong vòng năm ngàn năm. Câu chuyện này xác định rằng việc thể hiện đức Phật thông qua những di vật, trường hợp này là một pho tượng, tạo ra một điểm quy chiếu cho sự bày tỏ những tình cảm tôn giáo và cơ hội tu tạo phước thiện nhờ vào sự hiến cúng. Hơn thế nữa, trong khi vật thế hóa Phật và pháp—một chi tiết quan trọng của nghi thức quán đảnh—những sự thể hiện như thế làm tăng thêm sự tồn tại của giáo pháp (skt. śāsana).

Quán đảnh như một sự chuyển hóa

Về mặt hiện tượng học, những buổi lễ quán đảnh chuyển đổi những pho tượng, tháp, và những biểu tượng vật thể khác của đức Phật thành những vật thay thế Ngài. Như được thuật lại trong kinh Đại bát niết bàn (Mahāparinirvāna-Sutra), tại lễ trà tì đức Phật, thân thể của Ngài chuyển đổi thành những viên xá lợi không phải thông qua nước như trong nghi thức quán đảnh mà thông qua lửa. Thân thể đã nhập diệt nhận một hình tướng mới dưới dạng phân tán qua những viên xá lợi—những di vật được thực thể hóa từ thần lực của Phật. Đối với những tượng Phật, bản Kosalabimbavaṇṇanā và những biên khảo khác quy chiếu những phẩm tính của một đức Phật sống vào những biểu tượng, gồm cả sự sinh động hóa. “Điểm nhãn Phật”, một thuật ngữ thuần túy Phật giáo chỉ cho những buổi lễ quán đảnh tượng, mang một ý nghĩa tương tự. Chỉ là một đồ vật, trong trường hợp này là một sự mô phỏng dáng hình hơn là một viên xá lợi óng ánh, trở thành một đức Phật. Ở Đông Nam Á, những buổi lễ khai nhãn cũng được tin là làm sống lại những bức chân dung của những vị cao tăng cũng như tăng thêm năng lực cho những bài vị tổ tiên được thờ trong các tự việnbàn thờ tư gia.

Ở Đông nam á, như Bernard Faure đề cập đến trong bài nghiên cứu của ông về các biểu tướng của những vị thiền tăng đã viên tịch mà còn lưu lại toàn thân xá lợi, sự chuyển hóa như thế đòi hỏi một quá trình hành lễ mang tính mô phỏng được truyền đạt bằng “phép hoán dụ và biểu trưng mà trong đó dấu tích trở thành thực như thân thể” (tr. 170). Lễ quán đảnh ở miền bắc Thái lan bắt đầu từ lúc mặt trời lặn và kết thúc vào lúc mặt trời mọc, phản ảnh ba giai đoạn quán chiếu trong đêm Bồ tát đạt được Phật quả. Trong suốt khóa lễ đêm ấy, những vị tăng đọc lại câu chuyện từ bỏ những mục tiêu thế gian của vị Phật sắp thành, những năm thực hành khổ hạnh lang thang, những cám dỗ của ma quân, và sự giác ngộ sau cùng của Ngài. Ở Cam pu chia và bắc Thái lan, sự tái hiện lại những cảnh từ lịch sử của Phật, đặc biệt sự cúng dường sữa và cháo mật của nàng Sujātā, làm nổi bật bản chất biểu đạt của nghi lễ. Vào lúc mặt trời mọc, những vị tì kheo tụng lại các bài kệ an vui của đức Phật về sự giác ngộ của Ngài: “Trải qua nhiều kiếp sống ta lang thang trong nẻo luân hồi; kiếm tìm nhưng không tìm được kẻ dựng nhà. Đau khổ thay sanh tử cứ tiếp nối. Ôi kẻ dựng nhà! Ngươi đã bị tìm thấy. Ngươi sẽ không dựng được nhà nữa. Tất cả rui mè của ngươi đã bị bẻ gãy, những xà nhà của ngươi đã bị phá hủy. Tâm ta đã đạt được trạng thái tuyệt đối; khát ái đã bị chấm dứt.”

Không gian vật lý để cử hành nghi thức quán đảnh cũng được tái hiện theo lối mô phỏng lịch sử đức Phật. Trong suốt buổi lễ, pho tượng chính sẽ được quán đảnh được đặt trên một cái nệm cỏ bên dưới cây bồ đề xanh tươi ở trong tượng sảnh của một tu viện. Khu vực ấy được thiết kế giống như một Bồ đề tòa, tòa giác ngộ ấy đã mọc lên một cách diệu kì từ một chiếu cỏ—phẩm vật cúng dường do Sottiya, người sống trong rừng, dâng cho đức Phật sẽ thành. Một sợi dây cát tường kéo dài từ một pho tượng đã được quán đảnh của tu viện bao quanh bồ đề tòa, nhờ đó mà thiết lập được một mối liên hệ với pho tượng Phật đầu tiên—pho tượng đã được ấn chứng bởi chính đức Phật. Những pháp cụ khác tượng trưng cho những cảnh đặc biệt trong câu chuyện về sự truy tầm giác ngộ của Bồ-tát, cũng như các đức Phật Như lai khác trong Hiện kiếp.
Trong suốt buổi lễ, đầu của những pho tượng đặt trong bồ đề tòa được phủ bởi một tấm vải trắng và mắt được che kín bằng sáp ong. Chúng vẫn còn ẩn khuất, cũng như vị Phật tương lai đã từ giã cung điện của mình và tìm kiếm sự tịch mịch nơi rừng vắng. Vào lúc bình minh, các vị tì kheo tụng bài kệ giác ngộ và những vật che đậy đầu và mắt được tháo bỏ, tượng trưng rằng với việc khai nhãn, những pho tượng đã được truyền vào những phẩm tính của Phật quả: “Đức Phật đã viên mãn tâm từ không giới hạn, đã tu tập 30 ba la mật trong nhiều a tăng kì kiếp, cuối cùng đạt được giác ngộ. Con kính lễ đức Phật ấy. Nguyện xin những phẩm đức ấy thể nhập vào trong pho tượng này. Nguyện xin sự giác ngộ không ngằn mé của Phật được truyền vào trong pho tượng này cho đến khi chánh pháp không còn tồn tại nữa.” Trong những nền văn hóa Phật giáo khác nhau, nghi thức khai nhãn tượng cũng có những hình thức khác nhau. Mắt có thể được vẽ một cách biểu trưng hay rõ ràng trên pho tượng, hoặc mắt được khắc nhẹ bằng một cây kim; tuy nhiên, dù là hình thức nào, chính nhờ việc khai nhãn mà nó trở thành một biểu tượng tín ngưỡng sống động.

Buổi lễ chuyển hóa một pho tượng đơn thuần thành biểu tượng thay thế cho Phật luôn in dấu lịch sử của Phật lên trên pho tượng ấy. Những mẩu chuyện đóng một vai trò cũng quan trọng trong việc chuyển hóa những di vật khác thành những vật biểu trưng cho Phật và các vị thánh tăng. Những tháp thờ xá lợi đánh dấu hành trình của Phật khắp Á châu rộng lớn: Sự ban bố rộng rải tóc xá lợi, những tiên đoán về việc phát hiện xương xá lợi về sau bởi các vị vua đức hạnh, và những dấu chân đã được in dấu trên đá và đất minh chứng cho sự hiện hữu không gián đoạn của Phật. Những câu chuyện liên quan đến những sự kiện này trở nên nổi bật không chỉ trong việc tạo nên những địa điểm linh thiêng mà còn vào những kỳ lễ tái quán đảnh hằng năm và những buổi lễ làm mới.

Sự việc một viên xá lợi thật có thể được đặt vào trong một pho tượng Phật và những pho tượng có thể được thờ bên trong một bảo tháp cùng với những viên xá lợi cho thấy một niềm tin rằng cả hai đều là những biểu tượng cho đức Phật sống. Thêm một minh chứng cho niềm tin này, những buổi lễ quán đảnh tượng ở miền bắc Thái lan có thể bao gồm việc đặt thêm một bộ nội tạng được làm bằng bạc vào trong pho tượng. Khi một khoang trống sau lưng pho tượng gỗ chiên đàn được Chōnen (938–1016) — một vị Phật tử Nhật bản đi hành hương — mang về Nhật và thờ ở Seiryōji (清涼寺-Thanh lương tự), Kyoto, được mở ra vào năm 1954, người ta phát hiện nó chứa một bộ nội tạng tương tự như thế được từ tơ lụa.

Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh. Ở bắc Thái lan, người ta tụng kinh quán đảnh tượng Phật để truyền những sự toàn thiện về mặt tâm linh (ba la mật) vào trong pho tượng, những vị tăng được cho là đã đạt được sự tỉnh giácthần lực ở cấp độ cao được mời “rót” chúng vào trong những pho tượng được quán đảnh trong khi đã tọa thiền định xung quanh bồ đề tràng. Trong truyền thống Tây tạng những phương pháp thiền sādhana (thành tựu) là tâm điểm của lễ quán đảnh (rab gnas) những pho tượng và bảo tháp. Quy trình quán tỉ mỉ gồm có nhiều bước như sau: phân tích đối tượng cần quán đảnh thành không; tưởng đến đức Phật được chọn (yi dam) từ cái không; thỉnh đức Phật này và hình tướng được tưởng tượng của ngài nhập vào pho tượng; chuyển chúng thành bất nhị; và cuối cùng chuyển cái không có tính bất nhị thành tướng trạng ban đầu của pho tượng. (Bentor 1997).

Quán đảnh như một sự pháp hóa

Vào đêm giác ngộ, đức Phật đã quán triệt nguyên nhân của khổ đau và con đường dẫn đến sự diệt tận khổ đau ấy. Sự giác ngộ này được thành tựu nhờ quá trình thấu suốt những mê mờ mà nó ngăn cản sự hiểu đúng bản chất của các pháp là vô thường và cùng khởi lên do duyên và phụ thuộc lẫn nhau (PRATĪTYASAMUTPĀDA). Tóm lại, thuật ngữ Phật và Pháp là bao trùm lẫn nhau; Phật quả cần phảisự pháp hóa. Chính vì vậy, những bảo tháp, tôn tượng, và những biểu tượng khác của đức Phật, như cây bồ đề, cũng tiêu biểu cho pháp, điều đó gợi lại câu nói của đức Phật, “ai thấy ta, người đó thấy pháp.” Cho nên, những buổi lễ quán đảnh không chỉ Phật hóa các sự vật mà còn pháp hóa chúng nữa.

Là một bộ phận của những nghi thức quán đảnh, pháp hóa gồm có nhiều dạng khác nhau. Những bản sao các bộ kinh và nhiều văn bản khác có thể được đặt trong những pho tượng lớn hơn kích người hoặc trong những bảo tháp trong suốt những buổi lễ quán đảnh. Thông lệ này góp phần tạo nên “tín ngưỡng thờ kinh sách” như một di vật của đức Phật, đặc biệt trong truyền thống đại thừa. Cội nguồn của thông lệ truyền một cách thần bí bài kệ duyên khởi (“Những pháp mà chúng khởi lên từ một nhân / Như lai đã tuyên bố về nhân của chúng / và trạng thái diệt của chúng / đấng từ bỏ vĩ đại đã dạy như thế”) vào trong những pho tượng và bảo tháp có từ thế kỷ thứ II Công nguyên và tiếp tục cho đến hiện tại như một phương pháp tu tập thuần túy Phật giáo. Trong truyền thống Tây tạng, Atisha (982–1054) đề cập đến việc sử dụng mang tính chất thần chú câu kệ này trong những nghi thức quán đảnh, và ngày nay nó được dùng chung với việc tiên đoán cát hung trong những buổi lễ quán đảnh tượng PhậtTrung quốc và Hàn quốc. Những truyền thống Phật giáo khác sử dụng những bộ kinh quan trọng nhưyếu tố trung tâm của buổi lễ quán đảnh tượng. Trong trường phái Nhật liên tông của Nhật bản, người ta tin rằng đặt cuốn kinh Pháp Hoa trước pho tượng trong suốt thời gian làm lễ quán đảnh bảo đảm nó sẽ trở thành một vị Phật của giáo pháp thanh tịnhhoàn hảo.

Ở Đông Nam Á, những kỹ thuật phức tạp được phát triển cho việc pháp hóa những pho tượng Phậtbảo tháp. Ở bắc Thái lan, việc xây cất một pho tượng Phật hay một bảo tháp bao gồm cả việc đính kèm theo những pháp đồ vào trong đó; và ở Cam pu chia, việc khắc những pháp ấn (Sanskrit, lakṣaṇa; Pāli, lakkhaṇa) giữ vai trò trung tâm trong lễ quán đảnh tượng Phật. Vị tăng hành lễ chạm vào các bộ phận của thân tượng trong khi tụng những câu tiếng Pāli (những thần chú), nhờ đó tạo nên một pháp thân của những khái niệm mang tính giáo lý tương đương với các thân phần của pho tượng. Sự biến đổi này có thể khiến cho một sự tái hiện được thể hiện từ gỗ hoặc đồng, đã được diễn tả một cách sống động bởi phép khai nhãn, trở thành một biểu tượng tín ngưỡng đáng tôn thờ (Bizot).

Quán đảnh như một sự gia trì

Tập quán thờ cúng những di vật, tượng, ảnh, xá lợi, và những biểu tượng khác của đức Phật và các vị thánh tăng phản ánh một tín ngưỡng mang tính thần biến rằng những năng lực thần bí đi cùng với sự đạt ngộ tâm linh phi thường có thể được cụ thể hóa dưới dạng vật thể. Như thế, những nghi thức quán đảnh thể hiện đức Phật và các vị A la hán không phải chủ yếu như những nhà thông thái tâm linh lý tưởng hóa và sự nhân cách hóa pháp mà như những vị ban phép mầu, những người bảo hộ, và những bậc ban phát ân huệ. Cho nên, những nghi thức quán đảnh xông ướp vào những biểu tượng này những năng lực tương ứng đặc biệt với những thuộc tính tinh thầnvật chất đã đạt được thông qua sự tu tập khổ hạnh, đặc biệtthiền định.

Bởi vì từ đầu đức Phật đã được tôn thờ không chỉ như một bậc đạo sư mà còn như một người có năng lực thần thông, cho nên những biểu tượng thay thế cho đức Thế Tôn có thể được coi như tương đồng. Sự tin tưởng vào năng lực của những xá lợitôn tượng không phải là một hình thức suy thoái và hậu kỳ của lòng tín mộ trong Phật giáo mà là một trong những bộ phận tạo nên tín ngưỡng và sự hành trì của Phật giáo từ thời kỳ đầu. Về phương diện này, những nghi thức quá đảnh có thể được xem như một phương tiện thực tiễn qua đó khía cạnh này của Phật giáo lan truyền và phát triển khắp châu Á Phật giáo.

Ở Cam pu chia, lễ quán đảnh truyền không chỉ những phẩm đức thiêng liêng do sự giác ngộ đem lại của đức Phật vào trong tôn tượng mà còn có cả nhiều năng lực hộ trì, bao gồm năng lực của các vị trời và thần, linh hồn của tổ tiên, và các vị thiên thần hộ vệ. Trong suốt lễ quán đảnh năm 1989 cho ngôi bảo tháp được trùng tu trên đỉnh núi Doi Suthep nhìn xuống thành phố Chiang Mai ở miền bắc Thái lan, thần lực của những vị thần hộ vệ núi, linh thể của những vị khổ hạnh kỳ bí ở trên núi, và những vị vua nổi tiếng của Chiang Mai đã được khấn lên, cũng như thần lực của xá lợi Phật được tôn trí ở đó.

Những nghi thức hằng năm quán đảnh lại các pho tượng và những bảo tháp thờ xá lợi thường được kèm theo bởi những chuyện kể chứng nhân cho những năng lực thần bí của chúng. Xá lợi phát ra những tia sáng rực rỡ trước mắt người xem đầy kinh ngạc, hoặc những pho tượng quý được cho là đã biến mất trước đây hay đã bị lấy trộm bỗng dưng xuất hiện để được thanh tẩy và được tôn kính hơn do lòng tín mộ. Hơn nữa, những buổi lễ quán đảnh không chỉ là dịp để làm sống dậy và tăng thêm năng lực cho những pho tượng mới hoặc được sửa chữa lại. Những tín đồ có thể mang những pho tượng thờ ở nhà đã được quán đảnh trước đây, những bùa chú, và những biểu tượng khác của Phật và bồ tát ra để được quán đảnh lặp đi lặp lại nhiều lần, nhờ đó để tăng thêm năng lực hộ trìgiá trị kinh tế thực thụ của chúng.

Nghi thức quán đảnh của Phật giáo thể hiện một bức tranh văn hóa phong phú của tôn giáo. Cụ thể chúng mở ra một hướng nhìn cho một sự hiểu biết đa dạng hơn về lòng tín mộ trong Phật giáo, nơi mà tượng, xá lợi, và nhiều biểu tượng vật thể khác của Phật và các vị thánh tăng giữ vị trí trung tâm.

Thư mục tham khảo

Bentor, Yael. Consecration of Images and Stū pas in Indo-Tibetan Tantric Buddhism. Leiden, Netherlands: Brill, 1996.
Bentor, Yael. “The Horseback Consecration Ritual.” In Religions of Tibet in Practice, ed. Donald S. Lopez, Jr. Princeton, NJ: Princeton University Press, 1997.
Bizot, François. “La consecration des statues et le culte des morts.” In Recherches nouvelles sur le Cambodge, ed. François Bizot. Paris: École Francaise d’Extreme-Orient, 1994.
Bowker, John, ed. Oxford Dictionary of World Religions. Oxford and New York: Oxford University Press, 1997.
Faure, Bernard. The Rhetoric of Immediacy: A Cultural Critique of Chan/Zen Buddhism. Princeton, NJ: Princeton University Press, 1991.
Gombrich, Richard. “The Consecration of a Buddha Image.” Journal of Asian Studies 26, no. 1 (1966): 23–36.
Ruelius, Hans. “Netrapratisthapana-eine Singhalesische Zeremonie zur Weihe von Kultbildern.” In Buddhism in Ceylon and Studies in Religious Syncretism in Buddhist Countries, ed. Heinz Bechert. Götttingen, Germany: Vandenhoeck und Ruprecht, 1978.
Stone, Jacqueline. “Opening the Eyes of Wooden and Painted Images.” In The Writings of Nichiren Daishonin. Tokyo: Sōka Gakkai, 1999.
Swearer, Donald K. “Hypostasizing the Buddha: Buddha Image Consecration in Northern Thailand.” History of Religions 34, no. 3 (1995): 263–280.
Swearer, Donald K. Becoming the Buddha. Princeton, NJ: Princeton University Press, 2004.
Thompson, Laurence G. “Consecration Magic in Chinese Religion.” Journal of Chinese Religions 19 (1991): 1–12.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1302)
Vũ trụ chúng ta sinh ra đã được gần 14 tỷ năm. Đó là quá trình tiến hóa, từ vật chất không có sự sống đến vật chất có sự sống, lên đến
(Xem: 2141)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 4922)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4370)
Mùa Phật Thành Đạo năm nay Phật lịch 2564 - Dương lịch 2021, chúng ta đồng nhất tâm cầu nguyện...
(Xem: 12218)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 6681)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4294)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 4719)
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật.
(Xem: 5988)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 12540)
Ngày lễ Vu Lan trong Đạo Phật là ngày “Phật Hoan Hỷ”, ngày “Tự Tứ”. Tăng, Ni tập trung vào sự tu niệm và thỉnh cầu những bậc...
(Xem: 5106)
Lễ Vu Lan báo hiếu không chỉ là ngày dành cho các Phật tử mà đó còn là mùa báo ân, báo hiếu của tất cả những người con dành cho bố mẹ.
(Xem: 6002)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 8046)
Vọng niệm diệt dứt, đó là chân tâm thường trụ của chư Phật.
(Xem: 5338)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5584)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3605)
Hôm nay đây, nhân mùa Phật đản, chúng ta lại thấy dường như hình ảnh Đức Phật đang thấp thoáng trong những lời cầu nguyện
(Xem: 5021)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 7682)
Đức Phật hay Đạo Phật, mặc nhiên đã đóng góp sự lành mạnh, và hiện hóa vào trong mọi tầng lớp xã hội loài người, và muôn loài ...
(Xem: 7362)
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
(Xem: 6032)
Thông Điệp Chúc Mừng Vesak 2643 (2019) Của Thủ Tướng Úc Đại Lợi, Ông Scott Morrison; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 4986)
Đạo Phật xuất hiệnthế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
(Xem: 4848)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 5726)
... Tôi hân hoan đón mừng ngày Phật Đản, ngày ra đời của một con người trí tuệ, bậc Thầy của muôn loài chúng sinh.
(Xem: 12485)
Tào-Khê tịnh thất, sớm mai thăm vườn kiểng bên hiên, nhìn chậu mai đơm nụ, bỗng nhớ rừng mai năm nào …
(Xem: 11712)
Con đường tâm linh đưa con người vượt khỏi thế giới hiện tượng vô thường (hoa tàn hoa nở) để đến thực tại vô tận, bất sanh bất diệt (xuân vô tận).
(Xem: 12873)
Theo truyền thống văn hóa Trung Quốc cũng như truyền thống Á Đông, cây tùng cúc, trúc, mai tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một năm;
(Xem: 8463)
Trong quá trình nghiên cứu kinh Đại thừa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.
(Xem: 8429)
Heo là một loài vật có hình dáng tròn trịa mũm mỉm, béo tốt ủn ỉn và hiền từ, khác với loài thú dữ khác như rắn, sư tử, beo… hại người, hại vật.
(Xem: 6828)
Chúc mọi nhà một năm mới đủ ăn, dư mặc, thừa tình yêu thương và giàu lòng quảng đại. Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019!
(Xem: 8561)
Khi nhìn bức tượng Đức Phật đang ngồi thiền, hình ảnh đó làm tôi cảm thấy rất bình an.
(Xem: 6236)
Bài viết này đã đăng trên Đặc San Kỷ niệm lể Vu Lan 1989, năm Kỷ Tỵ, của chùa Hoa Nghiêm ở Toronto, Canada.
(Xem: 6980)
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hận cha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
(Xem: 5496)
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
(Xem: 9324)
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
(Xem: 9602)
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
(Xem: 6173)
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tử xa gần.
(Xem: 8733)
Năm nay trời thiếu mưa, và sương mù cũng không nhiều như những năm mới đến cư ngụ tại thủ phủ Sacramento, bang California.
(Xem: 6484)
Chó vẫy đuôi mừng, vầng trăng thiện hạnh trùm khắp, từ bi toàn thân hỷ lạc.
(Xem: 6585)
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dương rực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
(Xem: 8335)
Lòng từ bi nhân ái, tiếng Tây Tạng là Tse wa (rtse ba) là một thuật ngữ nói lên tình mẫu tử và nỗi âu lo vô biên của chư Phật đối với mỗi chúng sinh.
(Xem: 10700)
Thời thanh xuân, tiếng nói trong trẻo, du dương; trung niên, tiếng trầm như sấm; lão niên, tiếng khàn đục như cối xay.
(Xem: 9316)
Đây là một quyển sách khác thường của Đức Đạt-lai Lạt-ma phân tích bản chất của thiền định thật chi tiết và sâu sắc.
(Xem: 8090)
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
(Xem: 6171)
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
(Xem: 8890)
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạng căng thẳng tâm thần, các xúc cảm tiêu cựccải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác động tích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
(Xem: 7016)
Dưới đây là một bài giảng ngắn của Lạt-ma Denys Rinpoché, một nhà sư người Pháp. Ông sinh năm 1949, tu tập theo Phật giáo Tây Tạng từ lúc còn trẻ
(Xem: 6660)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh
(Xem: 10410)
Sống trong thời đại văn minh, con người cần phải học hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
(Xem: 9017)
Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người.
(Xem: 8517)
Hãy chấp nhận các kinh nghiệm của bạn, ngay cả các kinh nghiệm bạn ghét.
(Xem: 9132)
Tu tập tự thân chính là công phu quan trọng nhất trong toàn bộ cái gọi là Phật giáo.
(Xem: 7467)
Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko, sinh năm 1915 tại tỉnh Chanthaburi, Đông nam Thái Lan (gần biên giới Campuchia).
(Xem: 7078)
Lời Thầy thường dạy, lại bàng bạc không gian “Ta là tiếp nối của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Các Ngài ở trong ta và ta ở trong các Ngài...
(Xem: 6454)
Dường như con người có thể phát tiết ra khả năng kỳ lạ để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh sống mà có lẽ chính họ đôi khi cũng không ngờ.
(Xem: 6025)
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấn tu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thành dưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựng cộng đồng nhơn loại...
(Xem: 8058)
Khởi đầu, thiền định là một phương pháp tu luyện tâm thức (bhāvanā), bắt nguồn từ Ấn Độ cách đây vài ngàn năm, phát triển chủ yếu trong...
(Xem: 7924)
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
(Xem: 11158)
Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con...
(Xem: 11718)
Nơi biển khơi ngàn con sóng bạc đầu, hay trên cánh đồng xanh lúa chín rì rào đâu đâu cũng thấy hiện thân nỗi binh an khắp tất cả.
(Xem: 7851)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai...
(Xem: 10240)
Một hiện thể độc nhất, này các Tỷ-kheo, một nhân thể phi thường trác việt khi xuất hiệnthế gian, sự xuất hiện ấy đem lại hạnh phúc cho...
(Xem: 8056)
Không dễ tìm được một chúng sinh nào chưa từng một lần trong quá khứ là mẹ của ngươi…
(Xem: 8211)
Ngày 4-5 vừa qua, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres đã gởi đi Thông điệp nhân Ngày Vesak 2641 (2017)
(Xem: 7590)
Bài này chỉ giới thiệu sơ sài đôi nét độc đáo của bản dịch Việt thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông...
(Xem: 8220)
Bước chân ban đầu là bước chân khai mở con đường vượt thoát những phiền não, ràng buộc của kiếp sống...
(Xem: 7163)
Khi một hiện hữu làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó, cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rung động.
(Xem: 8310)
Cảnh sát là một nghề căng thẳng hơn rất nhiều nghề khác trong đời thường. Đôi khi, buổi sáng ra đi, không chắc gì buổi chiều đã toàn vẹn trở về.
(Xem: 10294)
Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
(Xem: 11837)
Thiền định là phép tu tập chủ yếu của Phật giáo, có thể xem là "cột trụ" chống đỡ cho toàn bộ Phật giáo nói chung.
(Xem: 9809)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
(Xem: 10366)
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
(Xem: 9352)
Năm cũ sắp sửa trôi qua với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11596)
Vào đêm cúng Giao Thừa tại các Chùa Việt Nam cũng đồng lúc cử hành Lễ Khánh Đản của đức Phật Di Lặc, vị Phật tương lai...
(Xem: 8322)
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm...
(Xem: 10272)
Vẽ đẹp cao quý trong ngày xuân là mọi người có dịp làm mới lại những truyền thống văn hóa, đạo đứcdi huấn của tổ tiên...
(Xem: 10721)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêm tại đảo quốc xinh đẹp này.
(Xem: 10471)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 11593)
Bài Thuyết Trình Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Lần Thứ 10 tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, Ottawa, Canada ngày 07 – 09 tháng 10, 2016
(Xem: 9403)
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem như chính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
(Xem: 22771)
Giáo, Lý, Hạnh, Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật, thật là đường tắt để đắc đạo. Xưa kia, tu pháp nào cũng đều đủ cả bốn điều này.
(Xem: 10516)
Thiền Vipassana là một phương pháp để giúp chúng ta có được một đời sống nội tâm lành mạnh, an lạc.
(Xem: 10073)
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có...
(Xem: 10277)
Có nhiều phương pháp giúp chúng ta giảm bớt đau khổ tạm thời. Khi các bạn gặp đau khổ, các bạn đổi hướng chú ý của ...
(Xem: 10389)
Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất đi trì bình khất thực trong thành Vương Xá, khi ngang qua...
(Xem: 10334)
Tôi nhớ mãi một buổi chiều, Mẹ ngồi bên thềm sân, Cúi xuống, thoang thoáng một nét buồn.
(Xem: 10766)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy...
(Xem: 13112)
Ngày Lễ Phật Đản Visak là ngày quan trọng nhất đối với tất cả Phật tử trên toàn thế giới. Đây là ngày...
(Xem: 14669)
Cách đây hơn 2.600 năm, vào ngày trăng tròn tháng Tư, tại vườn ngự uyển Lumbini, thành Kapilavastu...
(Xem: 13375)
Theo truyền thống Phật Giáo, nói về các thời điểm nhất định, thí dụ như Sự Ra Đời Và Sự Giác Ngộ Của Đức Phật, có một nguồn ánh sáng...
(Xem: 12686)
Vẫn như mọi năm, tháng Tư âm lịch ngày trăng tròn là ngày kỉ niệm Đức Phật đản sanh. Theo truyền thống Phật giáo thì ...
(Xem: 9667)
Xin chia buồn cùng tang quyến và cầu nguyện hương linh Đạo hữu Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần vãng sanh Cực Lạc Quốc
(Xem: 11196)
Đức Phật được Liên Hiệp Quốc tôn vinh là nhà văn hóa lớn của nhân loại của 25 thế kỷ qua, hẳn là ...
(Xem: 10801)
Hạnh phúc thay, Đức Phật ra đời. Hạnh phúc thay, bài giảng Phật Pháp đúng đắn. Hạnh phúc thay, Tăng Đoàn hòa hợp.
(Xem: 14529)
Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu kính gởi đến Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử
(Xem: 12434)
Thế Tôn, bậc tôn quý nhất, đấng Giác ngộ duy nhất, tối tôn ở đời. Bởi chỉ có thành tựu tuệ giác vô ngã, kết quả của thiền quán mới ...
(Xem: 11724)
Bảy bước đi liên tòa kết nụ Chỉ đất trời thượng hạ tuyên ngôn "Như Lai vô thượng chí tôn Thân này kiếp chót vĩnh tồn vô sanh"
(Xem: 11704)
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
(Xem: 23454)
Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
(Xem: 11338)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay.
(Xem: 10546)
Chánh niệm không phải chỉ là một ý tưởng tốt, một triết lý hoặc một tôn giáo theo nghĩa đen, mà là áp dụng một cách sống.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant