Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 17 - Các vấn đề của đời sống con người

22 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 10318)
Bài 17 - Các vấn đề của đời sống con người

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ
[Bài 17]
Kalu Rinpoche
Các vấn đề của đời sống con người
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: Human Life and Its Problems

Những lạc thú của luân hồi
Giống như sương trên lá cỏ
Biến mất trong một chớp mắt
Đthành đạt
Tối thượngchân giải thoát
tu tập của các bồ tát.
Togme Sangpo, “Ba mươi bảy pháp tu tập của các bồ tát”.

blankTrong thế giới con người, đời sống có thể tương đối hạnh phúc, mặc dầu con người luôn luôn trải qua ba loại đau khổ và là chủ thể đối với nhiều vấn đề.

Ba loại đau khổ

Loại đau khổ thứ nhất thì hoàn toàn vi tế. Nó là đau khổ vốn sẵn có đối với tính cá biệtdo bởi những bất toàn và những giới hạn vốn sẵn có trong chính thực tế của tiến trình hiện hữu (the very fact of existing), thực tế duy nhất do kết hợp ngũ uẩn tạo thành một cá nhân.

Chúng ta đã thảo luận các uẩn này: sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Hữu tình thành lập bởi năm uẩn thì lệ thuộc nhân duyên và bất toàn. Sự lệ thuộc nhân duyên và những bất toàn đó tạo nên loại thứ nhất của đau khổ có tính bản chất đối với ngũ uẩn của tính cá biệt. Chúng có tính bản chất giống như bơ đối với sữa. Chỉ thuần do sự hợp thành của năm uẩn, nên chúng ta đều là chủ thể đối với hình thức vi tế của sự không thoả lòng. Tuy nhiên, loại đau khổ này thì quá vi tế không thể nhận thức về phương diện thực tế được, và, về nhiều phương diện, chúng ta còn không nhận biết về nó. Nó có thể được so sánh với một hạt bụi nhỏ bé trong bàn tay chúng ta: khi ta đạt được thật chứng ở phương diện tấn cấp mà đa số các hình thức thô của đau khổ đã được loại bỏ, thì loại đau khổ này mới hiện rõ hơn, và thế nên được nhận thức nhanh hơn, giống như một hạt bụi nhỏ đã nằm lọt trong mắt của chúng ta!

Bị ảnh hưởng bởi nhiều thành tố, tất cả các hình thức khác của đau khổ phát triển trên nền tảng của đau khổ thuộc tính cá thể.

Loại đau khổ thứ hai, có thể nhận thức được nhiều hơn, được gọi là đau khổ của biến dịch. Nó là một hình thức của đau khổ tiềm ẩn trong cái mà chúng ta thường xem nhưhạnh phúc, các lạc thú, và các tiện lợi, bất kể tinh thần hoặc thể chất. Nó thuộc về các tham ái, tham luyến, và vô thường. Nó là sự thất vọng hoặc không hạnh phúc được kinh nghiệm mỗi khi có thay đổi, thoái hóa hoặc mất mát những gì chúng ta vốn hài lòng, yêu thích.

Loại đau khổ thứ ba thì được nhận biết dễ dàng đó là đau khổ bởi vì nó gây ra đau đớnkhông hạnh phúc. Nó là đau khổ của đau khổ, gây nên bởi các đau đớn và các vấn đề làm cho đau khổ này đưa đến đau khổ khác trong đời sống hàng ngày.

Những loại đau khổ chính yếu của con người

Bốn loại chính của đau khổ ảnh hưởng đến con người: sinh, già, bệnh, và chết. Chỉ cần suy nghĩ về những điều này và nhận biết sáng tỏ về thực tại tính của chúng, sẽ giúp chúng tahội thông hiểu bản chất không thỏa mãn của sinh tử luân hồi hoặc hiện hữu tùy thuộc vào nhân duyên. Nhận biết sáng tỏ này sẽ cho chúng ta cơ hội, phương tiện giúp chúng ta tự do và cách tuyệt các tham luyến đối với hiện hữu bình thường và thế nên chúng ta nỗ lực tiến đến giải thoát.

Chúng ta đã nói về khổ đau của sinh trong trung hữu của sinh tới chết (bài 13).

Khổ đau gây ra bởi đau yếu bệnh tật thì thường không thể chịu đựng nổi. Chúng ta làm chủ thể cho các mệnh lệnh của các y sĩ và phải chịu những khảo sát y khoa nghiêm khắc, gắt gao (rigorous medical exams). Chúng ta thành ra tùy thuộckiệt sức khi làm theo những chỉ thị của họ. Chúng ta ngay cả không thể ngồi dậy trên giường, ăn hoặc uống, hoặc thoả mãn các ham muốn của chúng ta. Vào lúc cuối của ngày, chúng ta vẫn phải trải qua một đêm dài không thể dứt của đau đớn khủng khiếp và đau khổ.

Đau khổ của tuổi già thì cũng to lớn như thế. Thân hình chúng ta, có một thời ngay ngắn và mạnh mẽ rồi thành ra co cụm, lom khom, và chúng ta cần một cây gậy để nâng đỡ chúng ta. Tóc chúng ta đổi sang màu muối tiêu và rụng; chúng ta thành ra hói đầu và mất đi vẻ quyến rũ. Da chúng ta có thời mềm dịu như lụa Trung quốc, trở thành một đống nhăn nhúm, cũng giống như hoa sen hồng tươi ngay khi mới nở nhưng thành màu xám và nhăn nhúm khi héo úa tàn tạ. Sức mạnh của cơ thể suy tàn; bất kể đứng hay ngồi, đều thành mệt mỏi. Tâm thành ra suy nhượcchúng ta chẳng chút nào muốn khởi động bất cứ một hoạt động nào cả. Các cảm quan mất đi tính nhạy bén của chúng: mắt chẳng còn nhìn thấy rõ, tai chẳng thể nghe, mũi chẳng thể ngửi thấy mùi, lưỡi chẳng thể phân biệt được các vị, và xúc chạm không thấy vui thích. Kí ức không sáng tỏ; cái gì xảy ra tại một thời điểm thì bị quên mất vào thời điểm kế tiếp. Chúng ta không thể thích nghi; chúng ta cảm thấy mình không còn thuộc vào bất cứ nơi nào. Nhóm giao du không hoan nghênh, và chẳng ai nghĩ tới chúng ta ngoại trừ chuyện thương hại. Sự giàu sang của chúng ta trước đây giảm xuống, và thế lực của chúng ta cũng giảm luôn. Những gì chúng ta có thể làm cho cuộc đời đều chấm dứt, năng lực của chúng ta suy thoái và biến mất. Chúng ta nhận định rõ chỉ có một điều ở phía trước chúng ta: chết, và tâm niệm này làm suy nhược tinh thần chúng ta.

Đau khổ do chết gây ra đó là nỗi sợ làm hao mòn khô héo chúng ta, chúng ta hoàn toàn mất đi niềm vui và bị khốn khổ với bệnh tật. Miệng chúng ta đều khô, khuôn mặt có vẻ lo lắng kích động, tứ chi run rẩy không còn vận động được nữa. Chúng ta thành ra nhơ nhớp với nước bọt, mồ hôi, nước tiểu, và chất ói mửa, và trong sầu não khốn khổ chúng ta tạo nên những tiếng động khô khốc. Sau khi tất cả những cách cứu chữa cho chúng ta đều thất bại, các bác sĩ chấp nhận thua cuộc trong trường hợp của chúng ta. Những tưởng tượng kinh hãi sinh khởi trong tâm chúng ta, tạo nên sự khủng bốkinh hoảng. Thời điểm chúng ta ngừng thở, lúc đó miệng và hai lỗ mũi chúng ta mở rộng, chúng ta vượt ngoài thế giới này một cách hoàn toàn bối rối do cái chết đem đến. Lúc đó chúng ta đi vào cõi không được biết, chìm đắm trong cõi sâu thẳm, và bị biển lớn mang đi, bị càn quét bởi những gió nghiệp.

Ở thời điểm ra đi không thể tránh được, chúng ta phải bỏ lại đằng sau mọi thứ, buông bỏ giàu sang, tiện nghi, ảnh hưởng, gia cư, gia đình, và tấm thân qúy báu của chúng ta. Những giọt nhỏ mồ hôi hình thành trên khuôn mặt của chúng ta, và nhiều dấu hiệu của trung hữu của thời điểm chết biến hiện một cách thứ bậc. Sau những kinh nghiệm trung hữu này, chúng ta thọ lãnh tái sinh trong một cõi phù hợp với nghiệp của chúng ta.

Cộng thêm vào bốn nguồn chính của đau khổ, con người tất yếu cũng kinh nghiệm tiến trình phải biệt li -- bởi vì những biến cố của đời sống hoặc cái chết – cách tuyệt những người được yêu mến: cha, mẹ, con cái, cháu chắt, phối ngẫu, tất cả những người yêu mến và quyến luyến. Con người cũng còn phải chịu đựng với những hữu tình gây tổn hại cho họ, chiếm đoạt các thứ họ có, và bị chế ngự, trấn áp, bị lạm dụng, bị đánh đập, bị giết, hoặc bị đem ra đày đọa cho biết tay (put on trial) .Trong vai trò con người, chúng ta cũng chịu đựng đau khổ do không đạt được những gì chúng ta muốn và không có khả năng giữ được những gì chúng ta có.

Bây giờ hơn bao giờ hết, trong thời đại đặc biệt này của những tham ái cực kì buông thả, chúng ta liên tục bị hành hạ ngày đêm bởi những lo lắng về vật chất và những tham dục, bởi những ái luyến và căm ghét. Bây giờ chúng ta cần nhận định được một điều quan trọng là sự tổn hại của các tham dục và các ái luyến đối với các sở hữu vật chất và những đam mê phiền não. Nếu chúng tahội thông hiểu tất cả các hiện tượng luân hồi sinh tử đều qua mau như những con sóng trên mặt nước, chỉ thuần là những hiện tướng hư huyễn, không có thực chất giống như các ảo giác hoặc các chiêm bao, chúng ta sẽ không bị gắn bó lưu luyến đối với chúng, và chúng ta có khả năng hài lòng chúng ta với những gì chúng ta có và vẫn tiếp tục hạnh phúc, tâm chúng ta mở rộng và an vui thanh thản.

Trong đường lối này, bằng vào sự thực hành Chính Pháp, chúng ta có khả năng tự do và cách tuyệt với luân hồi sinh tử một cách dứt khoát và vượt ngoài luân hồi sinh tử nhập vào đại lạc tối diệu của phật quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15573)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23024)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14049)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12976)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55104)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9165)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14440)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14161)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14201)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13881)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36317)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19882)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19219)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19150)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20281)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17635)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31526)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15935)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15017)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46171)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35935)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21049)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21595)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23398)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34377)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19484)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18945)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22940)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20185)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18363)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33412)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34478)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54517)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37720)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21130)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17875)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63647)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17380)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49655)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27436)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20277)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23030)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18891)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16324)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17912)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20934)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17363)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14467)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16370)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15995)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17465)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21978)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15100)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13504)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14364)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15394)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14985)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12696)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13348)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12515)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13188)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14484)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16233)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12405)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15416)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12866)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12200)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13198)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21644)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11277)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22723)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15082)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14946)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46180)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22449)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14574)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12618)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18900)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14730)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43857)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56969)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13834)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47485)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13651)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14573)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29007)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33309)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38376)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15398)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31230)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12525)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40389)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43414)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46660)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant