Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài 20 - Tính Không, Tâm của Đại Bi

22 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 10428)
Bài 20 - Tính Không, Tâm của Đại Bi

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ
[Bài 20]
TÍNH KHÔNG, TÂM CỦA ĐẠI BI
(Tính Không là Tâm của Đại Bi ; Tâm của Đại BiTính Không)
Bản Anh: Kalu Rinpoche .
1. Compassion 2. Emptiness, Heart of Compassion.
Trích từ : Luminous Mind.The Way of the Buddha.1997.
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc.

Đại Bi

Đại bi (= cứu khổ), và từ bi (= ban vui), cùng nhau hình thành thái độ tinh yếu đại thừa.

Nền tảng của chúng là một cấu trúc tôn-quý vô-ngã của tâm, quan-tâm chủ-yếu đến những kẻ khác, cố gắng đem đến sự sống an vui hạnh phúc cho tất cả hữu tình, thuộc loài người và các loài khác, những thân hữu và những kẻ thù địch.

(Compassion, kindness, and love together form essential Mahayana attitude. Their foundation is a non-self cherishing frame of mind oriented toward others, aspiring to the well-being and happiness of all other beings, whether human or non human, friends or enemìes)

Ba cấp độ của đại bi.

Có ba loại đại bi: đại bi quy chiếu vào hữu tình, đại bi quy chiếu vào thật tại; và đại bi không quy chiếu. Chúng xuất hiện thứ tự tiếp theo nhau.

Đại bi quy chiếu vào hữu tình (= Chúng sinh duyên đại bi) (compassion with reference to beings) khởi sinh khi chúng ta nhận thức sự đau khổ của những kẻ khác. Đó là loại thứ nhất của đại bi khởi sinh và làm cho chúng ta nỗ lực sâu xa làm mọi thứ chúng ta có thể giúp đỡ những kẻ đang chịu khổ đau. Nó bừng dậy hiển lộ ra khi chúng ta nhận thức được cái đau đớnđau thương của những kẻ khác.

(It emerges when we perceive the pain and suffering of the others).

Hình thái đại bi này có đặc tướng (marked) -- chẳng bao giờ có thể vẫn cứ vô-cảm bất-động (unmoved) trước các đau thương của các hữu tình ,và -- cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để giúp giảm bớt đi những đau thương cho hữu tình.

Đại bi quy chiếu vào thật tại (=Pháp duyên đại bi) (compassion with reference to reality) khởi sinh khi chúng tamột kinh nghiệm thật sự về năng-lực của vô minh, khi chúng ta thật sự nhận thức được như thế nào các hữu tình tạo lập sự đau thương của chính họ. Đại bi này duyên hội xảy đến khi chúng ta thật sự thấy những kẻ khác gắng sức như thế nào để có có hạnh phúc và tránh đau thương, nhưng do không nhận thức sáng tỏ những nguyên nhân của hạnh phúc và những phương tiện để tránh thoát đau thương, họ tạo ra càng nhiều nguyên nhân của đau thương và họ không có được cái ý niệm về làm thế nào để vun trồng những nguyên nhân của hạnh phúc. Họ bị mù tối do vô minh của họ ; những tác ý và tác hành của họ mâu thuẫn lẫn nhau. 

Xuyên qua sự hiểu biết sáng tỏ tính như huyễn của thật tại, nhận thức thật sự về tình huống này phát sinh ra loại thứ nhì của đại bi, mạnh mẽ, mênh mông và cơ bản thâm sâu nhiều hơn khi so sánh với loại thứ nhất.

(Through understanding the illusory nature of reality, genuine perception of this situation brings forth this second type of compassion, which is more intense and profound than the first kind.)

Đại bi không quy-chiếu (= Vô duyên đại bi ) (compassion without reference) không chấp thủ ý niệm về chủ thể, khách thể, hoặc ý định; đó là sắc tướng tối thượng của đại bi của một vị phật hoặc của đại bồ táttùy thuộc vào sự thật chứng tính không. Chẳng bao giờ có bất cứ một quy chiếu tới một “ta” hoặc “kẻ khác”.

(Compassion without reference retains no notions of subject, object, or intention ; it is the ultimate form of a buddha ‘s or great boddhisattva ‘s compassion and depends upon the realization of emptiness. There is no longer any reference to a “me” or “other”.)

Đại bi này khai mở tự nhiêntức thời. Thật là điều quan trọng cho chúng ta : để trở nên quen thuộc với ba loại đại bi này, để nhận biết sáng tỏ thứ bậc của chúng, và để bắt đầu sinh hoạt ở mức độ thứ nhất, mức độ có khả năng đi vào nhiều nhất đối với chúng ta.

Cho và nhận (giving and taking ; Tạng ngữ: Tonglen )

Chúng ta đã chuyển đổi qua lại nhiều cõi (transmigrate) trong sinh tử lưu chuyển một số lần không thể tính đếm được, tới cái điểm mà tất cả các hữu tình đã có lần là cha hoặc mẹ của chúng ta. Đức Phật đã dạy rằng họ đã là cha mẹ của chúng ta trong vô số lần. Để tính đếm số hạt cát trên trái đất này chuyện đó thuộc lĩnh vực có thể, nhưng không thể tính đếm được bao nhiêu lần tất cả hữu tình đã là cha mẹ của chính chúng ta.

Để vun trồng lòng từ bi (lòng ban vui) và lòng đại bi (lòng cứu khổ) đối với tất cả những hữu tình này, trước nhất chúng ta hãy nghĩ đến lòng từ bi (love) chúng ta nhận từ chính cha mẹ chúng ta trong đời này ,cách thức họ nuôi nấng, giáo dục, giúp đỡ, và bảo vệ chúng ta, và tất cả những gì họ làm cho chúng ta.Tiếp đó chúng ta hãy tưởng tượng chúng ta sẽ cảm thấy như thế nào nếu người thân yêu nhất—luôn luôn là mẹ của chúng ta –đang ở trong sự đau khổ cao độ ngay chính trước mặt chúng ta. Chúng ta không thể vẫn cứ vô cảm bất động (unmoved); chúng ta ngay tức khắc phải làm một cái gì để giúp bà. Đó là cách làm như thế nào để chúng ta khám phá ra một năng lực cho từ biđại bi, cái năng lực tiếp nhận cảm thông đối với những kẻ khác (being receptive to others) và mong muốn điều tốt đẹp nhất cho họ.

Với thái độ này chúng ta thiền tập pháp tu Tonglen, nguyên nghĩa, “cho và nhận”, rất nhiều lần, đào luyện chúng ta, đem cho về tâm ý (to mentally give) tất cả những hạnh đức và hạnh phúc của chúng ta đến kẻ khác và thuận nhận đổi lấy những đau đớnđau thương của họ. Khởi đầu, chúng ta thiền tập pháp này với người thân cận nhất với chúng ta, dần dần chúng ta triển khai thiền quán của chúng ta đến tất cả các hữu tình, gồm ngay cả những kẻ thù địch của chúng ta. Kế đó, chúng ta đặc biệt xem rằng (consider) tất cả các hữu tình trong vũ trụ , cha mẹ của chính chúng ta từ thời vô thủy, cũng đã cảm thấy lòng từ bi,lòng đại bi và lòng nhiệt tình tận tụy (devotion) giống như thế.

Nếu chúng ta có thể chân thành nhìn ngắm xem xét (sincerely view) họ theo cảnh tượng này và nhận định sáng tỏ rằng họ giờ đây đang ở trong đại hải của khổ đau sinh tử lưu chuyển , lúc đó lòng ban vui, lòng cứu khổ, và lòng chân thành ước nguyện giúp đỡ họ sinh khởi tức thời .

Từ Bi phổ quát ( Universal Love )

Đức Phật Sakyamuni, trong trí tuệ bát nhã của ngài, đã dạy về sáu loài hữu tình và sự đau thương đặc-hữu với mỗi loài.

Những thê-thảm của sức nóng cực độ và sự cuồng nộ lạnh giá trong các cõi địa ngục ; những qủy đói bị hành hạ bởi đói và khát; trong cõi thú vật, sự đau thương do sự ngu độn và sự nô-dịch. Với những con người có sự đau thương do sinh, bệnh, già, và chết. Chư thiên ganh tị đua tranh (The jealous gods) chịu đau khổ do những cuộc tranh cãi liên tục, và chư thiên (the gods) chịu đau khổ do chuyển đổi cõi sống và xuống trở lại các cõi thấp hơn. Tất cả các hữu tình trong sinh tử lưu chuyển xứng đáng nhận lòng từ bi và đại bi của chúng ta. Sự nhận biết sáng tỏ mở rộng sự vui vẻ hoan hỉ đối với tất cả, trong khi đó sự nhận biết sáng tỏ chưa đầy đủ giới-hạn chúng ta với những người nghèo khổ, khốn cùng. Thật tế, chúng ta dễ dàng có lòng đại bi đối với những người nghèo, nhưng chúng ta nghĩ những người giàu, những kẻ có quyền lực, và những người có vẻ hạnh phúc không cần là những đối tượng của lòng đại bi.

Lòng đại bi chân chính thì hướng trực tiếp đến tất cả những hữu tình,gồm cả những người giàu và những người quyền thế. Như tất cả hữu tình , họ đã là những người mẹ và những người cha của chúng ta trong những đời sống đã qua; mỗi người có cái đau thương của họ. Tình trạng hiện nay của họ, sự giàu có của họ, hoặc quyền lực của họ, kết quả của những tác nghiệp tích cực trước đây của họ, nhưng họ vẫn bị hiển tướng rõ rệt do bởi một cảm thức mãnh liệt của cái ngã kiêu ngạo và bởi nhiều phiền não (they are no less marked by a strong sense of ego and by many afflictions). Đức Phật Sakyamuni có nói :

Tham là kẻ đồng hành với giàu có

Những tác-hành gây nguy hại là những kẻ đồng hành của những người quyền lực.

Tham và những tác-hành nguy hại dẫn họ đến những cõi thấp và những kết quả đau thương , thế nên những người này nên là những đối tượng đặc biệt của lòng đại bi của chúng ta.

Trước hết, chúng ta hãy cố gắng xuyên qua thiền quán làm phát sinh lòng đại bi và đào luyện ý nguyện giúp một người mà ta thấy dễ dàng cảm thức theo đường lối này. Sau đó, chúng ta trải rộng thái độ từ bi này tới những kẻ khác, tới mỗi người chúng ta gặp trong đời sống hàng ngày,và rồi, dần dần, tới tất cả những con người và những loài khác, và cuối cùng ngay chính chuyện khó nhất, những kẻ thù địch của chúng ta và những kẻ ghét chúng ta, mà không có ngoại trừ.

Tính Không , Tâm của Đại Bi.

Người nào thụ-nhận bồ-tát giới học tuần tự bồ-đề-tâm tương-đối -- từ biđại bi, và bồ-đề-tâm tuyệt đối– kinh-nghiệm của tính không. Cuối cùng, người này thiền tập sự hợp nhất của tính khôngđại bi.

Từ Đại Bi đến Tính Không.

Thái độ nội tâm của đại bi khởi sự khi chúng ta nhận biết sáng tỏ sự đau khổ của những người thân cận và thân quý với chúng ta. Sau đó nó mở rộng dần dần tới lòng đại bi phổ quát (phổ quát = khắp mọi thời, khắp mọi nơi) (universal love).

Bồ tát khi thực hành con đường này theo bước tiến xoá dần tất cả các thái độ tôn-qúy bản-ngã và đào luyện một tâm thái thật sự quan tâm chủ yếu đến những kẻ khác (a state of mind truly oriented towards others). Đây là bồ-đề-tâm tương đối; nó là bước dẫn nhập để vượt qua cái ngã kiêu ngạo hoặc bản ngã để đi tới vô ngã, hoặc trạng thái vô ngã, cũng là tính không.

(This is relative bodhicitta; it is the introduction for going beyond ego or self to nonself , or selflessness, which is emptiness)

Tính Không : Vô Ngã hai-lần

(Nhân Vô NgãPháp Vô Ngã)

Bằng thực hành như được diễn tả trong kinh điển và những giáo huấn về thiền định, chúng ta có thể đi đến cái kết luận tuyệt đối nhất định của vô-ngã (no-self ). Sự nhận biết sáng tỏ này bắt đầu với kinh nghiệm tự thân của chủ thể về sự không hiện hữu của ngã : ngã hoặc “ta” không có tự tính.

(This understanding begins with the subject’s own experience of the self’s nonexistence : the self or “me” has no inherent existence)

Cái mà chúng ta thường gọi là “tâm của chúng ta’— ta , chủ thể--không có những đặc tướng xét về hình tướng, màu sắc, hoặc bất cứ thứ gì khác. Tâm không là một sự vật tự trị (It is not an autonomous thing ), và cũng chẳng thể thực sự đồng nhất nó với cái gì; nó thì không quyết định, không thể quy định được.

Sự thiếu vắng này của cái hiện hữu như là một sự vật độc lập và có thể quy định được là cái chúng ta gọi là tính không của tâm.

(This lack of existence as an independent and definable thing is what we call its emptiness).

Nhưng đó không là cái tâm trống rỗng, bởi vì cái tâm trống rỗng chẳng là cái gì cả, trong khi đó tâm là kiến tinh của tất cả sự-sự vật-vật và là tạo chủ hoặc phóng-chiếu chủ của những tâm-niệm khác biệt nhau và những cảm xúc.

( But it is not that mind is empty because it is nothing at all , since it is knower of all things and creator or producer of the various thoughts and emotions).

Bằng cách tìm kiếmxem xét xuyên qua kinh nghiệm trực tiếp, chúng ta có thể phát triển tiến dần một sự nhận biết sáng tỏ chắc chắn của bản chất của tâm và sự vắng mặt của một ngã-chủ thể (the absence of a self subject).

Hơn thế nữa , những khách thể trong thế giới bên ngoài -- mỗi mỗi sự-sự vật-vật chúng biến-hiện đối với chúng ta như là sắc tướng , mùi vị, những đối tượng của tiếp xúc, hoặc những đối tượng của tri thứclà những phóng chiếu của cái tâm này, mà cái tâm này là tính không.

Tất cả những kinh-quá của nó luôn luôn có đặc tướng tương tự như một huyễn tượng hoặc chiêm bao.

(All its experiences are by nature similar to an illusion or dream)

Chúng tham dự vào vô tận duyên khởi và không có tự tính. Thiền định phát sinh cái kết luận thật hiển nhiên rằng tất cả các khách thể (=đối tượng) của tri thức thiếu vắng một thực thể tự trị hoặc một “ngã-khách thể”.

(They involve the interaction of interdependent factors and lack of inherent existence. Meditation give rise to the unquestionable conclusion that all objects of knowledge lack an autonomous entity or a “self-object” )

Sự thiếu vắng của một thực thể tự trị, một ngã, trong các khách thể trong thế giới bên ngoài cũng như trong chủ thể, là vô ngã hai-lần ( twofold selflessness). Để an trú những cái đã được thẩm nhập vào trong kinh nghiệm đó phải thiền định trên trí tuệ ba la mật, hoặc bồ đề tâm tuyệt đối.

Từ Tính Không đến Đại Bi.

Tất cả hữu tình chưa thực chứng được lý nghĩa của sự vô ngã hai-lần đã từng là những cha mẹ của chúng ta, những người thân mến của chúng ta, những con cái của chúng ta; họ đã chăm chú giữ gìn và giúp đỡ chúng ta. Bị mù tối bởi vô minh của họ, không nhận định được bản chất của thật tại hoặc hai loại vô ngã, họ bị lừa dối bởi những tập-khí (xu hướng căn bản) làm cho họ bám vào một “ ta” ( ‘I’ ) thật ra không hề hiện hữu, và lấy làm “ kẻ khác” tuy cái đó không phải là “kẻ khác”.

(Blinded by their ignorance, not recognizing the nature of reality or the two kinds of selflessness, they are deluded by the basic propensity that causes them to cling to an “I” where none actually exists, and to take as “other” that which is not) .

Sự chủ thể-khách thể, ta-kẻ khác lưỡng biệt quan trọng này (This subject-object, me-other dichotomy) sinh ra các cao trào phiền não tâm ý (mental afflictions), làm cho các hữu tình tiếp tục hành sử theo những đường lối đầy nguy hại, như vậy làm kéo dài sinh tử lưu chuyển, và kinh-quá những đau thương không chấm dứt của sáu cõi. Không một ai muốn đau thương, vậy mà các hữu tình làm trọn các hành tác nguy hại, chúng là những nguyên nhân chính thật của đau khổ. Mặc dù mỗi người nỗ lực hướng về hạnh phúc, họ không có năng lực thành tựu hạnh phúc, vì họ không biết sáng tỏ rằng cái khởi nguồn của hạnh phúc là sự thực hành của những hạnh đức (= phúc đức) ( the practice of virtues) !  

Một sự nhận biết sáng tỏ căn bản thâm sâukinh nghiệm của tình cảnh nghịch lýđau đớn này làm chúng ta luôn luôn có lòng cứu khổ cho họ. Tỉ dụ này biểu tỏ cho thấy như thế nào mà một nhận biết sáng tỏ sơ khởi của tính không có thể tăng trưởng thành đại bi căn bản thâm sâu.

(A profound understanding and experience of this paradoxical and painful situation fills us with compassion for them. This example shows howan nitial understanding of emptiness can grow into profound compassion).

Bồ tát thiền định theo con đường này trên sự hợp nhất của tính khôngđại bi và, cuối cùng, trên tính khôngđại bi tại tâm của tính không. Đây là nền tảng của thực hành Đại-thừa, đạo lộ toàn hảo dẫn đến phật quả.

(The bodhisattva meditates this way on the union of emptiness and compassion and, finally, on emptiness which has compassion at its heart. This is the foundation of Mahayana practice, the flawsless path that leads to buddhahood.)

Milarepa bị những ma quỷ tấn công

Một ngày, vào lúc trở lại nơi ẩn cư trong thời kỳ nhập thất, Milarepa thấy chính mình diện đối diện với một đám ma quỷ trông dễ sợ với những con mắt to như những cái đĩa tách .Những ma quỷ này đã phô diễn những quyền lực của chúng, làm cho mặt trời run rẩy và tạo ra đủ thứ biến hiện đáng kinh khiếp. Milarepa đã gắng thử làm nhiều cách khác nhau để đuổi chúng đi : ngài cầu nguyện tới Marpa vị bản sư của ngài, thiền quán vị phật thiền bảo hộ của ngài, ngài đã răn đe lũ ma quỷ,và đã thử tất cả chiến lược đủ loại. Đám ma quỷ đã chế nhạo ngài, nói, “xem xét thái độ của ông ta , dường như ông ta đã đánh mất tâm bình đẳng và chúng ta đã đang làm ông ta run lập cập.”

(The demons mocked him , saying, “ judging from his attitude, it seems he’s lost his equanimity and we’ve rattled him.)

Thế nên Milarepa tự nói với chính mình, “Marpa Lodrupa đã dạy ta rằng tất cả các hiện tướng là những phóng chiếu của tâm và rằng bản chất của những phóng chiếu này thì trống rỗng và thông suốt không ngăn ngại (…is empty and clear); nhìn vào những ma quỷ này như là “ ngoài đó” (out there) và ước muốn đuổi chúng đi thì lầm lẫn”.

(So Milarepa said to himself, “Marpa Lodrupa taught me that all appearances are projections of the mind and that the nature of theses projections is empty and clear; to look upon these demons as ‘out there’ and to wish to drive them away is illusion”)

Thực chứng rằng bản chất của tâm trong bất cứ cách thức nào không thể bị ảnh hưởng bởi những biến hiện của nó (its manifestations), và rằng cái tâm đó an trú không biến đổi ngay cả khi đối diện với những ma quỷ xấu xa nhất, làm tê liệt run sợ nhiều nhất, ngài đã hiểu biết sáng tỏ chúng thay vì nhìn sai lầm theo những biểu hiện của những chấp thủ cuả ngài và tư duy nhị nguyên đối đãi của ngài.

(Realizing that the nature of mind cannot in any way be affected by its manifestations, and that mind abides unchanged even when faced with the worst, most petrifying demons , he understood them instead to be the expression of his own fixations and dualistic thinking)

Thế nên vượt qua những nỗi sợ hãi của ngài, ngài đã chấp thuận chuyến đến thăm của chúng và lưu xuất lòng đại bi chân thật với chúng.

Milarepa lúc đó tự nói với chính mình, “Nếu những ma quỷ này muốn thân thể của ta, ta sẽ tặng nó cho chúng. Đời sống là một thoáng qua (Life is fleeting); thật là một điều tốt đẹp ta có thể làm một đại hiến thân ngay bây giờ.”

Thái độ này của lòng đại bi sâu xanhận biết sáng tỏ của tính không (understanding of emptiness) làm dịu lòng những ma quỷ, và cuối cùng thủ lĩnh của chúng nói với Milarepa. “Nghĩ rằng ngài đã sợ chúng tôi, chúng tôi đã nghĩ rằng chúng tôi có thể làm tổn hại ngài, nhưng nếu cái tâm niệm “ma quỷ” không bao giờ sinh khởi trong tâm ngài, ngài không có điều gì để sợ hãi.”. Sau đó, chúng đã biến mất.

Nguồn: Đặc san Hiện Thực, số 21/2010 , trang 49-59.

 

Kalu Rinpoche

Emptiness, Heart of Compassion

Compassion

Compassion, kindness, and love together form the essential Mahayana attitude.Their foundation is a non-self-cherishing frame of mind oriented toward others, aspiring to the well-being and happiness of all other beings, whether human or nonhuman, friends or enemies.

Three levels of Compassion

There are three kinds of compassion: compassion with reference to beings; compassion with reference to reality; and compassion without reference.They occur consecutively.

Compassion with reference to beings arises when we perceive the suffering of others. It is the first kind of compassion to arise and causes us to strive deeply to do everything we can to help all those who suffer. It emerges when we perceive the pain and the suffering of others. This form of compassion is marked by no longer being able to remain unmoved by the suffering of beings and by aspiring to do everything possible to help alleviate their suffering.

Compassion with reference to reality arises when we have a genuine experience of the power of ignorance, when we actually perceive how beings create their own suffering. This compassion occurs when we really see how others strive to be happy and avoid suffering but how, not understanding the causes of happiness nor the means of avoiding suffering, they produce more causes of suffering and have no idea how to cultivate the causes of happiness.

They are blinded by their ignorance; their motivations and actions contradict one another. Through understanding the illusory nature of reality, genuine perception of this situation brings forth this second type of compassion, which is more intense and profound than the first kind.

Compassion without reference retains no notion of subject, object, or intention; it is the ultimate form of a buddha’s or great bodhisattva’s compassion and depends upon the realization of emptiness. There is no longer any reference to a ‘me’ or ‘other’. This compassion opens naturally and spontaneously. It is important to be familiar with these three types of compassion, to understand their order, and to begin to work at the first level, which is the most accessible to us.

Tonglen

We have transmigrated in cyclic existence an incalculable number of times, to the point where all beings have already been our father or mother. Buddha taught that they have been our parents an infinite number of times.To count the grains of sand on the earth is in the realm of possibility, but it is impossible to count how many times all beings have been our own parents.

In order to cultivate kindness and compassion toward all these beings, we first think about the love we have received from our own parents in this life, the manner in which they have raised , educated, helped, and protected us, and everything they have done for us. We then imagine how we would feel if the person most dear to us – usually our own mother – were in a state of intense suffering right in front of us. We couldn’t remain unmoved; we would immediately do something to help her. That is how we discover a capacity for love and compassion, which is being receptive to others and wishing the best for them.

With this attitude, we do the practice of tonglen, literally,’giving and taking’, over and over, which trains us to mentally give all our virtues and happiness to another and to accept in exchange all their pain and suffering. Initially, we practice this with the person closest to us, and little by little we extend our meditation to all beings, including even our enemies. Then, we consider that all beings in the universe, which have been from beginningless time our own parents, have felt this very same kindness toward us, this same love, and this same devotion.

If we can sincerely view them this way and realize that they are now in the ocean of samsara’s suffering, the love, compassion, and the sincere wish to help them arising spontaneously.

Universal Love

Buddha Sakyamuni, in his transcendent wisdom, taught about thh six classes of beings and the suffering specific to each.

The agonies of extreme heat and cold rage in hell realms; the hungry ghosts are tormented by hunger and thirst; in the animal realm, the suffering comes from stupidity and servility. With humans there is the suffering of birth, illness, aging, and death. The jealous gods suffer from their constant quarrels, and the gods from having to transmigrate and descend again to lower realms. All of samsara’s beings deserve our love and compassion. Clear understanding extends our radiance toward all, without distinction, while incomplete understanding limits us to those touched by misery. In fact, we easily have compassion for the poor, but we think the rich, the powerful, and those who appear happy need not be objects of compassion.

Right compassion is directed toward all beings, including the rich and the powerful. Like all beings, they have been our mothers and fathers in past lives; each has his or her suffering. Their present situation, their wealth or power, results from previous positive karma, but they are no less marked by a strong sense of ego and by many afflictions. It has been said by Buddha Sakyamuni:

Desire is wealth’s companion.

Harmful actions are the companions of the powerful.

Desire and harmful actions lead them to lower realms and consequent suffering, so these people should be special objects of our compassion.

At first, we try through meditation to engender compassion and cultivate the wish to help a person toward whom it is easy to feel this way. Afterward, we expand this attitude of loving kindness to others, to everyone we meet in our daily life, then, little by little, to all humans, and nonhumans, and finally even toward those for whom it is most difficult, our enemies and those who hate us, without exception.

Emptiness, Heart of Compassion

Whoever has received bodhisattva vows gradually learns relative bodhicitta – love and compassion – and ultimate bodhicitta – the experience of emptiness. Finally, he or she practices the union of emptiness and compassion.

FROM COMPASSION TO EMPTINESS

The inner attitude of begins, when we become aware of the suffering of those near and dear to us. It then gradually extends to universal love. The bodhisattva who practices this way gradually eliminates every self-cherishing attitude and cultivates a state of mind truly oriented toward others. This is relative bodhicitta; it is the introduction for going beyond ego or self to nonself, or selflessness, which is emptiness.

EMPTINESS: TWOFOLD SELFLESSNESS

By practicing as described in scriptures and meditation instructions, we can arrive at the absolutely certain conclusion of no-self. This understanding begins with the subject’s own experience of the self ‘s nonexistence: the self or ‘me’ has no inherent existence.

What we generally call ‘our mind’ – me, the subject – has no characteristics in terms of forms, colors, or anything else. It is not an autonomous thing , nor can it actually be identified; it is indeterminate and undefinable. This lack of existence as an independent and defineable thing is what we call its emptiness. But it is not that mind is empty because it is nothing at all, since it is knowerof all things and creator or producer of the various thoughts and emotions. By investigating and examining through direct experience, we can gradually develop a sure understanding of the nature of mind and the absence of a self-subject.

Moreover, objects in the outer world – everything that manifests to us as forms, tastes, objects of touch, or objects of knowledge – are projections of this mind, which is emptiness. All its experiences are by nature similar to an illusion or dream. They involve the interaction of interdependent factors and lack inherent existence. Meditation gives rise to the unquestionable conclusion that all objects of knowledge lack an autonomous entity or a ‘self-object’

The lack of an autonomous entity, a self, in objects in the outer world as well as in the subject , is the twofold selflessness. To abide absorbed in that experience is to mediate on the perfection of wisdom, or ultimate bodhicitta.

FROM EMPTINESS TO COMPASSION

All beings who have not realized the meaning of this twofold selflessness have been our parents, our dear ones, our children; they have watched over and helped us. Blinded by their ignorance, not recognizing the nature of reality or the two kinds of selflessness, they are deluded by the basic propensity that causes them to cling to an ‘I’ where none actually exists, and to take as ‘other’ that which is not.

This subject-object, me-other dichotomy gives rise to all mental afflictions, which cause beings to continue to behave in harmful ways, thus prolonging the cycles of lives, and to experience the endless suffering of the six realms. No one wants to suffer , yet beings perform harmful actions, which are the very causes of suffering. Although everyone strives to be happy, they are incapable of achieving happiness, since they don’t know that its source is the practice of virtues! A profound understanding and experience of this paradoxical and painful situation fills us with compassion for them. This example shows how an intial understanding of emptiness can grow into profound compassion.

The bodhisattva meditates this way on the union of emptiness and compassion and finally, on emptiness which has compassion at its heart. This is the foundation of Mahayana practice, the flawless path that leads to buddhahood.

Milarepa attacked by demons

One day, upon returning to his hermitage while on retreat, Milarepa found himself face to face with a horde of terrifying demons with eyes as big as saucers. The demons made a display of their powers, causing the sun to tremble and creating all sorts of horrifying manifestations. Milarepa attempted to drive them away in various ways; he prayed to his lama Marpa, meditated on his protective deity, threatened the demons, and tried all kinds of strategies. The demons mocked him, saying, “Judging from his attitude, it seems he’s lost his equanimity and we’ve rattled him”.

So Milarepa said to himself, “ Marpa Lodrupa taught me that all appearances are projections of the mind and that the nature of these projections is empty and clear; to look upon these demons as ‘out there’ and to wish to drive them away is illusion.” Realizing that the nature of mind cannot in any way be affected by manifestations, and that mind abides unchanged even when faced with the worst, most petrifying demons, he understood them instead to be the expression of his own fixations and dualistic thinking. So, overcominghis fears, he accepted their visitation and generated authentic compassion for them.

Milarepa then said to himself, “ If these demons want my body, I’ll offer it to them. Life is fleeting; it is a good thing I can make such a great offering right now.”

This attitude of profound compassion and understanding of emptiness appeased the demons, and finally their leader said to Milarepa, “ Thinking you were afraid of us, we thought we could harm you, but if the thought ‘demons’ never arises in your mind, you have nothing to fear.” After that, they vanished.

--------------------------------------------------------------------------------

Source: Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of The Buddha.

Wisdom, 1997.

[ Tâm diệu minh thường trụ. Con đường của Phật ]

-----------------------------

Lời cuối bản dịch

Kính thưa qúy độc giả,

“Tâm diệu minh thường trụ / Tâm quang minh giác chiếu. Con đường của Phật” là tuyển tập bài giảng của Kalu Rinpoche (1904-1989), được dịch từ bản Anh ngữ “ Kalu Rinpoche. Luminous Mind. The Way of the Buddha” ( Wisdom, 1997)

Sách gồm có hai phần:

Phần 1. Tâm và những chuyển hoá của Tâm (Part I. Mind and its Transformations).

Hai mươi bài ghi trên là các bài của Phần 1.

Phần 2. Con đường Giải thoát (Part 2. The Path of Liberation)

Phần 2, gồm 31 bài giảng về:

1. Tri kiến tổng quát: Những cách tiếp cận với Chính Pháp

(A General Overview: The Different Approaches of Dharma)

2. Tiểu Thừa: Con đường tu tập của Kỉ luật

(The Hinayana: Path of Disciplne)

3. Đại Thừa: Con đường tu tập của Chân Không Diệu HữuĐại Bi

(The Mahayana: Path of Opening and Compassion)

4. Kim Cương Thừa: Con đường tu tập của Nhất Siêu Trực Nhập

(The Vajrayana : Path of Transmutation)

5. Mahamudra và Dzogchen: Con đường tu tập trực nhập

(Mahamudra and Dzogchen: The Immediate Path)

6. Tu tập Chính Pháp ngày nay

(Dharma Practice Today).

Nhận thấy bài giảng của Kalu Rinpoche tinh yếu và hữu ích nên người dịch tuy khả năng hạn hẹp cũng cố gắng hoàn thành bản dịch Phần 1 “Tâm và những biến hoá của Tâm”, gồm 20 bài, để qúy độc giả và người dịch cùng nhau tu học.

Người dịch xin phép chỉ dịch Phần 1 là phần các sách Phật học tiếng Việt chỉ trình bày sơ lược.

Người dịch rất mong qúy độc giả từ bi chỉ giáo.

Địa chỉ liên lạc của người dịch:

phucdang143@hotmail.com

Kính thư

Đặng Hữu Phúc
Sydney, Australia.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25552)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37817)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19505)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18572)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14166)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20042)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9452)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14311)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35453)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10606)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19629)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23148)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13325)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10696)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20126)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10555)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9918)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14833)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17579)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17530)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13128)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31067)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25651)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13932)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17455)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10929)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12240)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10432)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12231)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11723)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9585)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12302)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9141)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8441)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9909)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9723)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11990)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14341)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9874)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11170)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8257)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10939)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14008)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9867)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15139)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12977)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23017)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23866)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12511)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15371)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17710)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14982)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16482)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 15999)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17539)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11548)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11583)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17758)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10723)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10492)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11267)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12041)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11004)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36345)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8925)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9621)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34642)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17218)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10201)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10419)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12153)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13562)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14593)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9123)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24732)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11603)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10285)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15880)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15504)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14465)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12953)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12399)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14517)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18290)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9539)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18480)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18520)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18960)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18747)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11780)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13287)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47937)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11019)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13508)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13000)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11035)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12512)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11035)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31715)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11635)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant