Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện Đời Không Huyền Thoại Của Vị Thiền Sư Nổi Tiếng Nhất Trung Quốc

02 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12380)
Chuyện Đời Không Huyền Thoại Của Vị Thiền Sư Nổi Tiếng Nhất Trung Quốc
CHUYỆN ĐỜI KHÔNG HUYỀN THOẠI
CỦA VỊ THIỀN SƯ NỔI TIẾNG NHẤT TRUNG QUỐC

Bằng Hư

Kể từ Bồ Đề Đạt Ma mang Thiền tông tới Trung Quốc cho tới thời Huệ Năng thì Thiền tông đã truyền được 5 đời, song chỉ tới vị tổ đời thứ 6 này thì Thiền tông Trung Quốc mới trở thành một dòng riêng, có đường lối rõ rệt và vững chắc. Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông với những câu chuyện đậm chất huyền thoại. Tuy nhiên, vẫn có một Lục Tổ Huệ Năng bằng xương bằng thịt và câu chuyện đời hoàn toàn không thần thánh…

Từ bài kệ xuất thần của kẻ ngoại đạo


Huệ Năng vốn mạng họ Lư, quê gốc tổ tiên vốn ở Hán Dương, Hà Bắc, đến đời cha ông là Lư Hành Thao thì gia đình chuyển đến Tân Châu, Lĩnh Nam, (nay là huyện Tân Hưng, Quảng Châu). Huệ Năng sinh vào năm 638, tức năm Trinh Quán thứ 12 đời nhà Đường. Khi Huệ Năng còn rất nhỏ thì cha ông qua đời, gia cảnh trở nên khốn quẫn, ông cùng mẹ phải chuyển tới Nam Hải, sống dựa vào nghề bán củi.


Một hôm, đang bán củi trong thành, Huệ Năng nghe có người trong quán tụng “Kinh Kim Cương”, tự nhiên thấy có hứng thú nên dò hỏi người tụng kinh nguồn gốc bài kinh vừa tụng. Người tụng kinh nói rằng đã tu học với thiền sư Hoằng Nhẫn tại chùa Đông Thiền, núi Phùng Mao, Hoàng Mai (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc).


Nghe xong, Huệ Năng đã có ý muốn tìm Hoằng Nhẫn để cầu học, nhưng lại sợ mình bỏ đi như vậy không ai lo cho mẹ già ở nhà. Sau đó, có người biết chuyện cho Huệ Năng 10 lạng bạc để lo cho mẹ. Huệ năng sắp xếp cho mẹ xong, quyết tâm bắc hành, tìm thầy cầu Phật. Hai năm sau đó, vào năm 672, Huệ Năng tìm tới chùa Đông Thiền gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.


blankblank
Cổng và chính điện chùa Nam Hoa nơi thờ nhục thân bất hoại Lục Tổ Huệ Năng

Thời bấy giờ, người phương Bắc vẫn coi những tộc người thiểu số phương nam là dân di mọi, có ý rất xem thường. Huệ Năng vốn sinh ra ở vùng Lĩnh Nam, sau đó lại chuyển xuống Nam Hải sống bằng nghề bán củi, thành ra trong mắt những người phương Bắc, Huệ Năng cũng là dân di mọi, khó có thể giáo hóa được. Chính vì vậy, khi nhìn thấy Huệ Năng tìm đến chùa của mình, Hoằng Nhẫn đã hỏi: “Cư sĩ từ nơi nào tới, muốn cầu điều gì?” Huệ Năng thành thật trả lời: “Đệ tử là người Lĩnh Nam, chỉ cầu làm Phật!”.

Hoằng Nhẫn nghe xong nói: “Người là người Lĩnh Nam, lại là kẻ di mọi, làm sao thành Phật?”. Huệ Năng kiên cường đáp: “Người có chia Nam Bắc nhưng Phật tính thì nào chia Nam Bắc? Phật tính của thầy với Phật tính của kẻ di mọi không có gì khác biệt, thầy có thể thành Phật thì đệ tử cũng có thể thành Phật”. Hoằng Nhẫn thấy Huệ Năng đối đáp nhanh lẹ, lại tỏ ra là người thông hiểu Phật pháp, không nhận làm đệ tử nhưng cho ở lại chùa, sai làm công việc vặt trong nhà bếp.


Từ đó, Huệ Năng bắt đầu ở lại chùa Đông Thiền làm nhiệm vụ chẻ củi, gánh nước, giã gạo trong nhà bếp. Tuy nhiên, vì một lòng cầu Phật, nên mặc dù bị mọi người trong chùa khinh rẻ, coi thường, Huệ Năng vẫn nỗ lực học hỏi, mong một ngày có thể xuất gia, giác ngộ.


Khi Huệ Năng làm việc trong nhà bếp chùa Đông Thiền được 8 tháng thì một hôm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lệnh cho các học trò mỗi người viết một bài kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ của mình. Khi đó Hoằng Nhẫn tuổi đã cao nên muốn qua bài kệ của các học trò tìm ra người có đủ phẩm chất và trí tuệ để truyền y bát, kế thừa vai trò Tổ Thiền, trở thành Lục Tổ.


Trong đám học trò của Hoằng Nhẫn lúc bấy giờ, người nổi tiếng nhất có Thần Tú. Sau khi nhận lệnh của thầy, các học trò khác đều cho rằng, trong chùa chỉ có Thần Tú xứng đáng là người được truyền y bát, trở thành Tổ thứ 6 nên mọi người chẳng ai bảo ai, không có người nào làm bài kệ trình lên Hoằng Nhẫn, có ý nhường lại cho Thần Tú.


Thần Tú cũng biết việc đó, song nếu như làm bài kệ trình lên thầy thì hóa ra mình tham ngôi Tổ, còn nếu không làm thì lại sợ trái lệnh thầy nên băn khoăn mãi. Cuối cùng, Thần Tú nghĩ ra một cách là đem bài kệ mình làm ra viết lên bức tường dưới mái hiến đặt phía trước giảng đường, định rằng, nếu Hoằng Nhẫn thấy bài kệ của mình mà chấp nhận thì sẽ nói đó là kệ của mình, còn không thì tự mình sẽ lui về chốn rừng sâu để mai danh ẩn tích.


Bài kệ của Thần Tú viết rằng: “Thân thị Bồ đề thụ, Tâm như minh kính đài, Thời thời cần phất thức, Mạc sử nhạ trần ai”. Nghĩa là, bản thân con người như cây Bồ đề, tấm lòng giống như chiếc đài gương, vì vậy cần phải thường xuyên lau chùi, để giữ cho tâm hồn trong sạch, không nhiễm bụi trần.


blank
Lục Tổ

Các đệ tử trong chùa thấy bài kệ, ai cũng tấm tắc khen hay truyền nhau tụng niệm. Đêm hôm đó, Hoằng Nhẫn cho gọi Thần Tú vào phòng, nói rằng, bài kệ ấy chứng tỏ Thần Tú vẫn chưa thấy được Phật tính, mới chỉ ở ngoài ngõ chứ chưa vào được bên trong. Ngũ Tổ bảo Thần Tú hãy lui ra suy nghĩ tiếp để làm kệ khác trình lại, nếu được thì Tổ sẽ truyền trao y bát, truyền lại ngôi Tổ cho. Thần Tú vâng lệnh lui ra nhưng qua vài ngày sau vẫn không làm được bài kệ, đi đứng chẳng yên, tinh thần không được vui vẻ.

Qua ngày hôm sau, khi Huệ Năng còn đang mải mê giã gạo trong bếp thì nghe thấy một chú tiểu ngâm nga đọc bài kệ của Thần Tú. Huệ Năng hỏi chú tiểu đọc bài kệ của ai, chú tiểu mới kể lại chuyện Hoằng Nhẫn lệnh cho các học trò làm kệ trình thầy và bài kệ trên vách của Hoằng Nhẫn. Huệ Năng nghe xong nhờ chú tiểu đọc lại cho mình nghe bài kệ của Thần Tú, rồi bản thân cũng tự làm một bài kệ. Làm xong bài kệ của mình, Huệ Năng cũng không biết làm cách nào trình lên Hoằng Nhẫn. Huệ Năng vốn không biết chữ nên cũng không thể tự mình viết bài kệ lên vách tường như Thần Tú được.


Cuối cùng, Huệ Năng đành phải tìm người giúp, viết bài kệ của mình lên vách tường. Bài kệ của Huệ Năng viết: “Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bản lai vô nhất vật, Hà xứ hữu trần ai?”. Nghĩa rằng, Bồ đề vốn không phải là cây, gương sáng vốn cũng chẳng có đài, Từ xưa tới nay vốn chẳng có vật gì, vậy thì làm sao mà có chuyện dính bụi được.


Đọc bài kệ của Huệ Năng, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Huệ Năng hơn hẳn so với Thần Tú, nhưng lại sợ nếu mình truyền ngôi Tổ cho một kẻ ngoại đạo lại di mọi như Huệ Năng thì sẽ khó tránh dị nghị mà lại làm hại cho Huệ Năng nên Hoằng Nhẫn quyết định bí mật truyền pháp cho Huệ Năng.


Nửa đêm hôm đó, Hoằng Nhẫn cho gọi Huệ Năng vào phòng và giảng giải toàn bộ “Kinh Kim Cương” cho Huệ Năng nghe. Nghe xong giảng kinh, Huệ Năng đại ngộ, Hoằng Nhẫn khi đó quyết định truyền lại y bát và ngôi Tổ lại cho Huệ Năng. Tuy nhiên, vì Huệ Năng xuất thân thấp hèn nên Hoằng Nhẫn sợ rằng sau khi mình chết đi, những đệ tửdanh vọng trong chùa như Thần Tú sẽ không phục, cho nên ông khuyên Huệ Năng đi về phương Nam và mở rộng Thiền tông ở đó. Huệ Năng nhận y bát, những tín vật truyền tư thời Đạt Ma chính thức trở thành Lục Tổ của Thiền Tông Trung Quốcbí mật trở đi về phía Nam. 


Đến vị thiền sư nổi tiếng nhất lịch sử


Các đệ tử của Hoằng Nhẫn biết chuyện Huệ Năng đã được truyền y bát của môn phái rồi bí mật đi về phương Nam rất tức giận, cho người thăm dò tông tích của Huệ Năng để cướp lại tín vật. Tuy nhiên, vì vùng Lĩnh Nam núi non trùng điệp hiểm trở, người phương Bắc không quen đi lại nên không cách nào tìm ra được tông tích của Huệ Năng.


Về phần mình, suốt hơn 15 năm sau đó, Huệ Năng tìm mọi cách mai danh ẩn tích, sống như một cư sĩ ẩn dật và hàng ngày nghiền ngẫm kinh Phật. Sau đó, vào năm 675, Huệ Năng đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu ở và tu hành. Sư trụ trì ở chùa này khi đó là Ấn Tông đang giảng về “Kinh Niết Bàn” thì trong đám học trò nổ ra cuộc tranh cãi về chiếc phướn vì sao lay động. Có người nói chiếc phướn lay động là do gió, có người lại tranh cãi bản thân chiếc phướn nó lay động, chẳng ai chịu ai, thành ra tranh cãi càng ngày càng gay gắt.


Lúc đó, Huệ Năng đứng ở bên ngoài nghe giảng, mới tiện miệng chen vào một câu rằng: “Gió chẳng động mà chiếc phướn cũng chẳng động, chẳng qua là tâm các người động mà thôi”. Mọi người nghe xong cảm thấy rất lạ, chỉ có Ấn Tông nghe thấy giật mình hỏi: “Nghe nói y pháp Thiền Tông từ Hoàng Mai đã truyền xuống phía Nam, chẳng lẽ lại là ngài đây?”.


Lúc này, Huệ Năng không giấu nữa, tự nhận mình là Tổ đời thứ 6 do Hoằng Nhẫn truyền lại. Ấn Tông nghe xong vội vàng mời Huệ Năng làm lễ cạo đầu, xuất gia, tôn Huệ Năng làm thầy. Hai tháng sau đó, dưới gốc cây bồ đề trong chùa Pháp Tính, Huệ Năng thành lập Thiền Tông phía Nam, gọi tắt là Nam Tông. Ở phía Bắc, sau khi Hoằng Nhẫn qua đời, Thần Tú cũng tự nhận mình là người kế thừa Ngũ Tổ, lập nên môn phái Thiền Tông ở phía Bắc, gọi tắt là Bắc Tông.


blank
Lục Tổ chẻ củi

Nếu như Bắc Tông của Thần Tú chủ trương dùng suy luận, tu tập dần dần theo chỉ dạy của kinh sách để đi đến giác ngộ thì Nam Tông của Huệ Năng lại đề ra lý thuyết “đốn ngộ”, nghĩa là giác ngộ một cách nhanh và bất ngờ.

Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái Nam và Bắc Tông còn kéo dài nhiều thế kỷ sau đó, tuy nhiên, Nam Tông với học thuyết đốn ngộ rất cởi mở của Huệ Năng ngày càng chứng tỏ được ưu thế của mình. Trong khi đó, phái Bắc Tông của Thần Tú chỉ vài thế hệ sau là đã khô kiệt, không thể phát triển được nữa.


Việc Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn quyết định truyền tâm ấn của Thiền Tông cho một người “thấp hèn” và “ít học” như Huệ Năng đã tạo nên một bước chuyển mới cho Thiền Tông Trung Quốc.


Với học thuyết mới mẻ của mình, Huệ Năng cùng với các thế hệ tiếp theo của Nam Tông đã đưa Thiền Tông Trung Quốc đi vào thời đại hoàng kim trong đời nhà Đường, nhà Tống, tạo nên sức sống bền bỉ Thiền Tông cho tới tận ngày nay. Chẳng phải ngẫu nhiên, cái tên Lục Tổ Huệ Năng lại được các đệ tử Thiền môn nhắc tới với sự kính trọngsùng bái đến như vậy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25632)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19564)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18653)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14253)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9492)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14352)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35555)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10645)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19693)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23189)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13352)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10740)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10593)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9951)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14858)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17647)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17587)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13181)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31148)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25731)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13971)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17493)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10959)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12274)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10458)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12255)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11749)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9608)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12347)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9191)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8486)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9947)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9752)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12026)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14411)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9895)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11202)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8290)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10961)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14077)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9902)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15199)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13031)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23069)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23969)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12558)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15417)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17769)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15044)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16541)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16083)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17628)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11578)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11611)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17815)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10768)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10510)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11314)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12073)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11032)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36395)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8950)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9668)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34700)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17258)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10230)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10466)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12193)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13623)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14645)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9142)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24795)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11627)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10305)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15929)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15559)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14510)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12992)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12437)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14564)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18345)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9563)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18505)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18571)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19004)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18823)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11823)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13331)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47974)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11060)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13029)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11055)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12544)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11044)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31759)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11655)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant