Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 22686)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8
KYABJE DORZONG RINPOCHE ĐỜI THỨ 8
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Chi tiết cụ thể về sự ra đời của Dorzong Rinpoche hiện thời đã được báo trước rất rõ ràng bởi Kyabje Drukpa Yongdzin Rinpoche đời thứ 7, vị thầy gốc của Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 7. Những chi tiết này cũng đã được dự liệu bởi Ngài Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8 và cả Kyabje Agon Rinpoche, bậc thầy thành tựu nổi tiếng của dòng truyền thừa Drikung tại một nơi xa xôi hẻo lánh ở miền Trung Tây Tạng.

Khi thụ thai Kyabje Dorzong Rinpoche, mẫu thân Ngài mơ thấy khi bà đang đứng giữa một thung lũng nhuộm đầy sắc hoa vàng, thì từ bầu trời phía Đông xuất hiện một tấm thảm dài được kết bởi những đám mây trắng muốt, rất nhiều vị Lạt ma ngự trên đó. Các ngài đội chiếc mũ đỏ rất lạ mà bà chưa từng thấy bao giờ. Chính giữa là một vị Lạt ma rất trẻ đẹp đang an tọa trên tòa. Ngài đắp trên mình bộ y trắng và đội mũ trắng với một chiếc vương miện chóp cao. Vị Lạt ma trẻ nhìn bà với ánh mắt hỉ lạc.

lập tức cảm thấy tràn ngập lòng sùng kính vô hạn và vội hái lấy một bó hoa lớn dâng cúng dường vị Lạt ma trẻ cùng chư vị Lạt ma khác.

blankblank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ tám)

 

Kể từ đêm đó, một sinh linh mới dần dần trưởng dưỡng trong bà. Gần 3 năm sau, khi dự lễ đăng quang của con trai (Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche hiện tại), tại tu viện Dorzong, lần đầu tiên bà được thấy chiếc mũ thiền của dòng Drukpa Kagyu và lập tức nhận ra nó trong giấc mơ trước đây của mình. Ngay khi bà miêu tả chiếc mũ chóp cao mà vị Lạt ma trẻ kia đội, các vị Lạt ma cao cấp tại tu viện Dorzong đều đáp lại rằng đó chính là chiếc mũ của Ngài Rechunpa. Gốc các hóa thân của các vị Dorzong là Ngài Kim Cương Thủ, ngài A Nan, Palgye Dorje, một trong 25 đại đệ tử của Ngài Liên Hoa Sinh và Rechungpa, một trong hai bậc thầy chính nắm giữ dòng truyền thừa của các giáo huấn Milarepa.

Kyabje Dorzong Rinpoche được hạ sinh vào một sáng bình minh đầu hè. Một đám mây nhẹ đã mang đến cơn mưa phùn tươi tốt và cầu vồng xuất hiện ngay trên nóc nhà gia đình Ngài trú ngụ. Trước những điềm cát tường đó, mọi người dân trong ngôi làng Ngeyul đều dám chắc đứa trẻ chính là một vị hóa thân. Cũng sáng hôm đó, một hình hoa sen đã xuất hiện trên bề mặt của bốn trong số 7 bát cúng dường trong phòng thờ của gia đình Ngài. Bức hình in đậm và không thể tẩy được dưới đáy chiếc bát làm từ chiếc chuông bằng kim loại. Những tài sản quý giá của gia đình đều đã bị phá hủy hết từ thời Cách mạng Văn hóaTây Tạng.

Lại cũng sáng hôm đó, một cặp quạ bỗng dưng xuất hiện và đậu trên mái nhà. Chúng lưu lại đó cho đến lúc cậu bé Kyabje Dorzong Rinpoche được đưa tới tu viện của mình. Sau đó người ta mới phát hiện ra rằng chúng chính là đôi quạ thường sống tên mái nhà của các vị hộ pháp của Gonkhang tại tu viện Dorzong ở Gon Jo đã biến mất vào thời điểm Dorzong Rinpoche chào đời. Tu viện Dorzong được thành lập dưới thời Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 4, theo lời thỉnh cầu có được một tu viện mới trên lãnh địa của người dân vùng Gon Jo. Tu viện mới mất chừng hai ngày đi ngựa từ Ngeyul.

Kyabje Dorzong Rinpoche đăng quang từ năm ba tuổi và Ngài bắt đầu tu học từ năm lên 5. Ngài chứng tỏ năng khiếu của mình trong các bài đọc, bài viết và học thuộc lòng. Năm lên 7, Ngài viếng thăm tu viện Khampagar và hạnh ngộ Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8. Vào thời điểm này, “ Đại Pháp Hội Liên Hoa Sinh” đang được thực hành tại Tu viện Khampagar. [Pháp hội thực hành] Nghi quỹ này 12 năm mới diễn ra một lần và kéo dài trong một tháng. Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche trẻ tuổi đã tham dự pháp tu và hoàn thành nghi lễ nhờ vào trí nhớ của mình. Đông đảo mọi người chứng kiến điều kỳ diệu này đều có cảm giác vị Rinpoche trẻ thật đặc biệt.

blank

Kể từ đó, Kyabje Dorzong Rinpoche bắt đầu thọ nhận các quán đỉnh, giáo lý và các pháp tu cao hơn của Drukpa Kagyu từ Kyabje Khamtrul Rinpoche. Năm 8 tuổi, Ngài được tiếp thu giáo huấn của tất cả các truyền thống, đặc biệtĐại Thủ ẤnĐại cứu cánh từ Kyabje Ragtul Rinpoche, vị Lạt ma dòng Nyingma vô cùng được sùng kính bởi các bậc thầy của tất cả các trường phái. Cũng vào lúc này, Ngài bắt đầu học những giáo lý và luận điển cơ bản của Phật giáo về ba giới nguyện. Ngài nghiên cứu các luận điển của Tịch Thiên và các vị Bồ Tát khác, đồng thời nghiên cứu về ba bộ luận chính của Trung Quán Tông cùng các vị hóa thân Đại Đức Tashi Namgyal và Drayab Khenpo Lodru, một trong số Khenpo nổi tiếng nhất của dòng Sakya lúc bấy giờ ở tỉnh Kham.

Bước lên 9, Ngài thọ nhận các Pháp Thiền siêu việt Đại Thủ ẤnĐại cứu cánh đồng thời được Kyabje Ragtul Rinpoche (một trong những bậc thầy bất bộ phái đáng kính nhất thời đó) đích thân hướng dẫn và còn được thọ nhận trọn bộ kho tang các giáo huấn Mật điển của dòng Kagyu ( Kagyu Ngag Dzod) cũng như tất cả các trao truyền của các terma Namchoe khác. Ngoài ra, Ngài còn nhận được ba Pháp tu chính của dòng Nyingma, các Pháp Hộ pháp của Đức Liên Hoa Sinh được phát hiện từ thế kỷ 11, và trọn bộ giáo huấn từ Ngài Tsele Natsog Rangdol. Cùng lúc, Ngài còn thọ nhận 100.000 giáo huấn Mật điển cổ truyền của truyền thừa Nyingma (Nyingma rgyud ‘bum) từ Đại Đức Rongmi Lama Gedun.

Năm 14 tuổi, Ngài bước vào bậc học cao hơn tại Viện nghiên cứu của Tu viện Khampagar, tại đây Ngài đã theo học dưới sự dìu dắt của Khenpo Perma Tharchin đến từ Kathog, một tu viện Nyingma cổ. Dưới sự chỉ dạy của vị Khenpo lỗi lạc, Ngài được học về Đại Thủ Ấn và hai luận điển Câu xá Tông chính, cũng như các giáo lý triết học Phật giáo củai Kyanje Mipham Rinpoche. Ngài luôn xuất sắc đứng đầu lớp trong mọi kỳ thi.

blankblank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 cùng với ngài Drugu Choegyal Rinpoche ở Bồ Đề Đạo Tràng)

 (Rinpoche đi bộ gần sông Naranjana, trong chuyến hành hương, năm 1999)

Có lần Kyabje Dorzong Rinpoche được người dân xứ Rongmi mời tới thăm vùng đất của họ gần tu viện gốc Dorzong. Ở đấy có dãy núi Yongten Ritra trùng điệp (Ngọn núi công đức rực rỡ) và rất nhiều hồ được đồn đại là nơi chôn giấu các kho tàng giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh. Đoàn dừng lại trên một cánh đồng cỏ, nơi những người du mục cúng dường các Ngài sữa chua và sữa. Bầu trời trong và xanh. Nhưng khi các Ngài bắt đầu cất lời cầu nguyện thì bỗng dưng hai đụn mây xuất hiện trên khoảng trời ngay trên đầu họ. Sau đó, từ hai đụn mây lớn kia lần lượt tách ra từng làn mây nhỏ bồng bềnh trôi đến nối đuôi nhau làm nên chín dải mây dài tuyệt hảo. Người dân tụ tập ở đó đều hết sức kinh ngạc. Sau hồi lâu tĩnh lặng chìm trong ngạc nhiên, chín dải mây lại tan ra về quy tụ trong đụn mây. Hai đụn mây lại nhập vào nhau, và rồi những hồi sấm vang rền kèm theo sau đó là một trận mưa. Các bậc cao niên du canh du cư đều thừa nhận rằng trong suốt cả cuộc đời mình các vị chưa từng được chứng hiện một hiện tượng nào kỳ lạ đến vậy. Khi nghe câu chuyện, một trong những vị thầy gốc đầu tiên của Kyabje Dorzong Rinpoche, Kyabje Ragtul Rinpoche đã giảng giải rằng bởi lẽ các vị thần địa phương, những người coi giữ các giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh có mối liên kết với Kyabje Dorzong Rinpoche đời quá khứ nên những đám mây này, như chiếc khăn mà chín vị hộ thần nơi đây cúng dường lên để chào đón chuyến viếng thăm đầu tiên của vị hóa thân trẻ.

Năm 1958, Kyabje Khamtrul Rinpoche quyết định rời Tây Tạng đến Ấn Độ và đề nghị Kyabje Dorzong Rinpoche, lúc bấy giờ 15 tuổi, đi cùng Ngài. Trong cuộc hành trình băng qua Lhasa, họ đã có cơ duyên hạnh ngộ Đức Đạt lai Lạt ma. Tiếp sau đó, họ hành hương đến các thánh địa ở miền Trung Tây Tạng trước khi qua Sikkim và đến dừng chân tại Ấn Độ. Kể từ năm 1959, họ lưu lại tại Kalimpong. Tại đây, Kyabje Khamtrul Rinpoche đã xây dựng nên ngôi đền Zandok Palri với sự đóng góp, hỗ trợ từ người dân Sikkim, Bhutan và Tây Tạng để có thể lại tiếp tục thực hành các giáo Pháp, bao gồm cả các vũ điệu Lạt ma.

Kyabje Dorzong Rinpoche lập tức nối lại quá trình học tập của mình về triết học, Kinh điển Phật giáo và các mật điển với ba vị Hòa thượng, Khenpo Thupchoe và Khenpi Tsondue của trường phái Nyingma và Khenpo Rinchen trường phái Sakya. Cho đến tận khi thành lập Tashi Jong năm 1969, Kyabje Dorzong Rinpoche vẫn phải đi lại giữa Kalimpong, Dalhousie và Kangra. Trong thời gian này, Ngài thọ nhận các quán đảnh, giáo lý Đại Thủ Ấn cũng như chỉ dẫn từ Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8. Ngài còn nhận được vô số các quán đỉnh, giáo lýchỉ dẫn từ Đức Pháp Vương Karmapa đời thứ 16 và Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche. Năm 1969, Ngài trở thành một Khenpo (tu viện trưởng của viện giáo dục tu sĩ) của tu viện Drukpa Kagyu tại Tashi Jong.

Năm 1971, do lịch làm việc quá ngặt nghèo cùng các vấn đề về sức khỏe của Kyabje Khamtrul Rinpoche, người dân vùng Tashi Jong đã đề nghị Kyabje Dorzong Rinpoche lên làm Phó hiệu trưởng của Tu viện Khampagar và Phó Chủ tịch Cộng đồng người dân Tashi Jong. Khi Kyabje Khamtrul Rinpoche viên tịch năm 1980, Ngài được bầu giữ chức Hiệu trưởng.

blank

 (Hạnh ngộ với đức Đạt Lai Lạt Ma)

blank

 (Giảng Pháp ở Lhasa, Tây Tạng)

 

Tại vị trí đó, cùng với Pháp Vương Karmapa đời thứ 16 và Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche, Ngài thưc hiện tất cả các cuộc tham vấn và sắp xếp cho việc thừa nhận sự tái sinh của Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 9. Lễ đăng quang được tổ chức năm 1983. Với cương vị là Nhiếp chính vương của Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8 kiêm Hiệu trưởng của Tu viện Khampagar ở Ấn Độ đồng thời là Chủ tịch Cộng đồng người Tây Tạng ở Tashi Jong, Kyabje Dorzong Rinpoche đã cống hiến suốt 21 năm với lòng bi mẫn, trí tuệnăng lượng vĩ đại cho sự tiến bộ của tu viện và cộng động cư sĩ. Cùng với việc củng cố các trung tâm nghệ thuật thủ công và các hoạt động văn hóa, Ngài còn lập nên trung tâm y tế, trường mẫu giáo và Viện nghiên cứu cho các bậc học cao hơn. Vào những năm 1990, Ngài thọ nhận trọn vẹn các quán đỉnh của truyền thừa Drukpa từ Đức Kyabje Trulsik Adeu Rinpoche đời trước.

Song song với các hoạt động trên, Kyabje Dorzong Rinpoche luôn chú tâm thực hành thiền định và các giáo lý truyền thừa một cách miên mật, thuần tịnh và không gián đoạn. Tất cả những điều đó đã cấu thành nên tư cách một bậc thầy đích thực, người nắm giữ truyền thừa Drukpa Kagyu.

Năm 1984, Kyabje Dorzong Rinpoche có cơ hội trở về Tây Tạng và thăm lại tu viện của mình. Tại đó, Ngài được mời thuyết Pháp tại các tu viện của tất cả các trường phái của Phật Giáo Tây Tạng. Ngài đã giúp đỡ các hành giả rất nhiều thông qua việc ban truyền quán đảnhgiáo lý mà họ bị gián đoạn trong thực hành.

Ngài còn đi đến nhiều nước để thuyết giảng, từ đó dần hình thành nên một số cộng đồnghành giả đáng chú ý.

 

Bên cạnh việc thực hành giáo lý của truyền thừa Drukpa, Rinpoche còn thực hành nhiều giáo lý của các dòng truyền thừa Phật giáo Tây Tạng khác. Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng còn tại thế hiện nay. Ngài là một trong số các bậc thầy nắm giữ truyền thừa, là bậc tôn quý đáng kính nhất của Drukpa Kagyu bởi những cống hiến của Ngài tại quê nhà cũng như cả khi lưu vong.

blank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ tám cùng với ngài Drugu Choegyal Gyamtso Rinpoche và ngài Drubwang Tsoknyi Rinpoche – bên phải ngoài cùng, năm 2008).

Nguồn: http://www.dorzongrinpoche.org/8drzng.htm

Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10351)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9641)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23526)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11782)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10667)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10013)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28580)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21507)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29316)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11346)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12332)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26206)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 30928)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25248)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22735)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12999)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21844)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12170)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14085)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12366)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11190)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10652)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 37949)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13635)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13415)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12300)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12544)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12006)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10683)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11159)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23301)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33097)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12739)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7343)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12136)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12549)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 11969)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12793)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11895)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10629)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11310)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11598)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10795)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10737)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10324)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10416)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10655)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10584)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11862)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10642)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12671)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10765)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11343)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11047)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11574)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10466)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11193)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12250)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11064)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12430)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11368)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11460)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11250)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11523)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12942)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14122)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10947)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11813)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13107)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11491)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11365)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10879)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11236)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10772)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11001)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10835)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10200)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17037)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10972)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10817)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10364)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10710)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11339)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11024)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10524)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11319)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10300)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10594)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12713)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19185)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19610)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21201)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20240)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19685)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 18956)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20385)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 20995)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17850)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21730)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11326)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant