Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 22683)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8
KYABJE DORZONG RINPOCHE ĐỜI THỨ 8
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Chi tiết cụ thể về sự ra đời của Dorzong Rinpoche hiện thời đã được báo trước rất rõ ràng bởi Kyabje Drukpa Yongdzin Rinpoche đời thứ 7, vị thầy gốc của Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 7. Những chi tiết này cũng đã được dự liệu bởi Ngài Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8 và cả Kyabje Agon Rinpoche, bậc thầy thành tựu nổi tiếng của dòng truyền thừa Drikung tại một nơi xa xôi hẻo lánh ở miền Trung Tây Tạng.

Khi thụ thai Kyabje Dorzong Rinpoche, mẫu thân Ngài mơ thấy khi bà đang đứng giữa một thung lũng nhuộm đầy sắc hoa vàng, thì từ bầu trời phía Đông xuất hiện một tấm thảm dài được kết bởi những đám mây trắng muốt, rất nhiều vị Lạt ma ngự trên đó. Các ngài đội chiếc mũ đỏ rất lạ mà bà chưa từng thấy bao giờ. Chính giữa là một vị Lạt ma rất trẻ đẹp đang an tọa trên tòa. Ngài đắp trên mình bộ y trắng và đội mũ trắng với một chiếc vương miện chóp cao. Vị Lạt ma trẻ nhìn bà với ánh mắt hỉ lạc.

lập tức cảm thấy tràn ngập lòng sùng kính vô hạn và vội hái lấy một bó hoa lớn dâng cúng dường vị Lạt ma trẻ cùng chư vị Lạt ma khác.

blankblank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ tám)

 

Kể từ đêm đó, một sinh linh mới dần dần trưởng dưỡng trong bà. Gần 3 năm sau, khi dự lễ đăng quang của con trai (Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche hiện tại), tại tu viện Dorzong, lần đầu tiên bà được thấy chiếc mũ thiền của dòng Drukpa Kagyu và lập tức nhận ra nó trong giấc mơ trước đây của mình. Ngay khi bà miêu tả chiếc mũ chóp cao mà vị Lạt ma trẻ kia đội, các vị Lạt ma cao cấp tại tu viện Dorzong đều đáp lại rằng đó chính là chiếc mũ của Ngài Rechunpa. Gốc các hóa thân của các vị Dorzong là Ngài Kim Cương Thủ, ngài A Nan, Palgye Dorje, một trong 25 đại đệ tử của Ngài Liên Hoa Sinh và Rechungpa, một trong hai bậc thầy chính nắm giữ dòng truyền thừa của các giáo huấn Milarepa.

Kyabje Dorzong Rinpoche được hạ sinh vào một sáng bình minh đầu hè. Một đám mây nhẹ đã mang đến cơn mưa phùn tươi tốt và cầu vồng xuất hiện ngay trên nóc nhà gia đình Ngài trú ngụ. Trước những điềm cát tường đó, mọi người dân trong ngôi làng Ngeyul đều dám chắc đứa trẻ chính là một vị hóa thân. Cũng sáng hôm đó, một hình hoa sen đã xuất hiện trên bề mặt của bốn trong số 7 bát cúng dường trong phòng thờ của gia đình Ngài. Bức hình in đậm và không thể tẩy được dưới đáy chiếc bát làm từ chiếc chuông bằng kim loại. Những tài sản quý giá của gia đình đều đã bị phá hủy hết từ thời Cách mạng Văn hóaTây Tạng.

Lại cũng sáng hôm đó, một cặp quạ bỗng dưng xuất hiện và đậu trên mái nhà. Chúng lưu lại đó cho đến lúc cậu bé Kyabje Dorzong Rinpoche được đưa tới tu viện của mình. Sau đó người ta mới phát hiện ra rằng chúng chính là đôi quạ thường sống tên mái nhà của các vị hộ pháp của Gonkhang tại tu viện Dorzong ở Gon Jo đã biến mất vào thời điểm Dorzong Rinpoche chào đời. Tu viện Dorzong được thành lập dưới thời Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 4, theo lời thỉnh cầu có được một tu viện mới trên lãnh địa của người dân vùng Gon Jo. Tu viện mới mất chừng hai ngày đi ngựa từ Ngeyul.

Kyabje Dorzong Rinpoche đăng quang từ năm ba tuổi và Ngài bắt đầu tu học từ năm lên 5. Ngài chứng tỏ năng khiếu của mình trong các bài đọc, bài viết và học thuộc lòng. Năm lên 7, Ngài viếng thăm tu viện Khampagar và hạnh ngộ Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8. Vào thời điểm này, “ Đại Pháp Hội Liên Hoa Sinh” đang được thực hành tại Tu viện Khampagar. [Pháp hội thực hành] Nghi quỹ này 12 năm mới diễn ra một lần và kéo dài trong một tháng. Ngài Kyabje Dorzong Rinpoche trẻ tuổi đã tham dự pháp tu và hoàn thành nghi lễ nhờ vào trí nhớ của mình. Đông đảo mọi người chứng kiến điều kỳ diệu này đều có cảm giác vị Rinpoche trẻ thật đặc biệt.

blank

Kể từ đó, Kyabje Dorzong Rinpoche bắt đầu thọ nhận các quán đỉnh, giáo lý và các pháp tu cao hơn của Drukpa Kagyu từ Kyabje Khamtrul Rinpoche. Năm 8 tuổi, Ngài được tiếp thu giáo huấn của tất cả các truyền thống, đặc biệtĐại Thủ ẤnĐại cứu cánh từ Kyabje Ragtul Rinpoche, vị Lạt ma dòng Nyingma vô cùng được sùng kính bởi các bậc thầy của tất cả các trường phái. Cũng vào lúc này, Ngài bắt đầu học những giáo lý và luận điển cơ bản của Phật giáo về ba giới nguyện. Ngài nghiên cứu các luận điển của Tịch Thiên và các vị Bồ Tát khác, đồng thời nghiên cứu về ba bộ luận chính của Trung Quán Tông cùng các vị hóa thân Đại Đức Tashi Namgyal và Drayab Khenpo Lodru, một trong số Khenpo nổi tiếng nhất của dòng Sakya lúc bấy giờ ở tỉnh Kham.

Bước lên 9, Ngài thọ nhận các Pháp Thiền siêu việt Đại Thủ ẤnĐại cứu cánh đồng thời được Kyabje Ragtul Rinpoche (một trong những bậc thầy bất bộ phái đáng kính nhất thời đó) đích thân hướng dẫn và còn được thọ nhận trọn bộ kho tang các giáo huấn Mật điển của dòng Kagyu ( Kagyu Ngag Dzod) cũng như tất cả các trao truyền của các terma Namchoe khác. Ngoài ra, Ngài còn nhận được ba Pháp tu chính của dòng Nyingma, các Pháp Hộ pháp của Đức Liên Hoa Sinh được phát hiện từ thế kỷ 11, và trọn bộ giáo huấn từ Ngài Tsele Natsog Rangdol. Cùng lúc, Ngài còn thọ nhận 100.000 giáo huấn Mật điển cổ truyền của truyền thừa Nyingma (Nyingma rgyud ‘bum) từ Đại Đức Rongmi Lama Gedun.

Năm 14 tuổi, Ngài bước vào bậc học cao hơn tại Viện nghiên cứu của Tu viện Khampagar, tại đây Ngài đã theo học dưới sự dìu dắt của Khenpo Perma Tharchin đến từ Kathog, một tu viện Nyingma cổ. Dưới sự chỉ dạy của vị Khenpo lỗi lạc, Ngài được học về Đại Thủ Ấn và hai luận điển Câu xá Tông chính, cũng như các giáo lý triết học Phật giáo củai Kyanje Mipham Rinpoche. Ngài luôn xuất sắc đứng đầu lớp trong mọi kỳ thi.

blankblank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 cùng với ngài Drugu Choegyal Rinpoche ở Bồ Đề Đạo Tràng)

 (Rinpoche đi bộ gần sông Naranjana, trong chuyến hành hương, năm 1999)

Có lần Kyabje Dorzong Rinpoche được người dân xứ Rongmi mời tới thăm vùng đất của họ gần tu viện gốc Dorzong. Ở đấy có dãy núi Yongten Ritra trùng điệp (Ngọn núi công đức rực rỡ) và rất nhiều hồ được đồn đại là nơi chôn giấu các kho tàng giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh. Đoàn dừng lại trên một cánh đồng cỏ, nơi những người du mục cúng dường các Ngài sữa chua và sữa. Bầu trời trong và xanh. Nhưng khi các Ngài bắt đầu cất lời cầu nguyện thì bỗng dưng hai đụn mây xuất hiện trên khoảng trời ngay trên đầu họ. Sau đó, từ hai đụn mây lớn kia lần lượt tách ra từng làn mây nhỏ bồng bềnh trôi đến nối đuôi nhau làm nên chín dải mây dài tuyệt hảo. Người dân tụ tập ở đó đều hết sức kinh ngạc. Sau hồi lâu tĩnh lặng chìm trong ngạc nhiên, chín dải mây lại tan ra về quy tụ trong đụn mây. Hai đụn mây lại nhập vào nhau, và rồi những hồi sấm vang rền kèm theo sau đó là một trận mưa. Các bậc cao niên du canh du cư đều thừa nhận rằng trong suốt cả cuộc đời mình các vị chưa từng được chứng hiện một hiện tượng nào kỳ lạ đến vậy. Khi nghe câu chuyện, một trong những vị thầy gốc đầu tiên của Kyabje Dorzong Rinpoche, Kyabje Ragtul Rinpoche đã giảng giải rằng bởi lẽ các vị thần địa phương, những người coi giữ các giáo lý của Đức Liên Hoa Sinh có mối liên kết với Kyabje Dorzong Rinpoche đời quá khứ nên những đám mây này, như chiếc khăn mà chín vị hộ thần nơi đây cúng dường lên để chào đón chuyến viếng thăm đầu tiên của vị hóa thân trẻ.

Năm 1958, Kyabje Khamtrul Rinpoche quyết định rời Tây Tạng đến Ấn Độ và đề nghị Kyabje Dorzong Rinpoche, lúc bấy giờ 15 tuổi, đi cùng Ngài. Trong cuộc hành trình băng qua Lhasa, họ đã có cơ duyên hạnh ngộ Đức Đạt lai Lạt ma. Tiếp sau đó, họ hành hương đến các thánh địa ở miền Trung Tây Tạng trước khi qua Sikkim và đến dừng chân tại Ấn Độ. Kể từ năm 1959, họ lưu lại tại Kalimpong. Tại đây, Kyabje Khamtrul Rinpoche đã xây dựng nên ngôi đền Zandok Palri với sự đóng góp, hỗ trợ từ người dân Sikkim, Bhutan và Tây Tạng để có thể lại tiếp tục thực hành các giáo Pháp, bao gồm cả các vũ điệu Lạt ma.

Kyabje Dorzong Rinpoche lập tức nối lại quá trình học tập của mình về triết học, Kinh điển Phật giáo và các mật điển với ba vị Hòa thượng, Khenpo Thupchoe và Khenpi Tsondue của trường phái Nyingma và Khenpo Rinchen trường phái Sakya. Cho đến tận khi thành lập Tashi Jong năm 1969, Kyabje Dorzong Rinpoche vẫn phải đi lại giữa Kalimpong, Dalhousie và Kangra. Trong thời gian này, Ngài thọ nhận các quán đảnh, giáo lý Đại Thủ Ấn cũng như chỉ dẫn từ Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8. Ngài còn nhận được vô số các quán đỉnh, giáo lýchỉ dẫn từ Đức Pháp Vương Karmapa đời thứ 16 và Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche. Năm 1969, Ngài trở thành một Khenpo (tu viện trưởng của viện giáo dục tu sĩ) của tu viện Drukpa Kagyu tại Tashi Jong.

Năm 1971, do lịch làm việc quá ngặt nghèo cùng các vấn đề về sức khỏe của Kyabje Khamtrul Rinpoche, người dân vùng Tashi Jong đã đề nghị Kyabje Dorzong Rinpoche lên làm Phó hiệu trưởng của Tu viện Khampagar và Phó Chủ tịch Cộng đồng người dân Tashi Jong. Khi Kyabje Khamtrul Rinpoche viên tịch năm 1980, Ngài được bầu giữ chức Hiệu trưởng.

blank

 (Hạnh ngộ với đức Đạt Lai Lạt Ma)

blank

 (Giảng Pháp ở Lhasa, Tây Tạng)

 

Tại vị trí đó, cùng với Pháp Vương Karmapa đời thứ 16 và Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche, Ngài thưc hiện tất cả các cuộc tham vấn và sắp xếp cho việc thừa nhận sự tái sinh của Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 9. Lễ đăng quang được tổ chức năm 1983. Với cương vị là Nhiếp chính vương của Kyabje Khamtrul Rinpoche đời thứ 8 kiêm Hiệu trưởng của Tu viện Khampagar ở Ấn Độ đồng thời là Chủ tịch Cộng đồng người Tây Tạng ở Tashi Jong, Kyabje Dorzong Rinpoche đã cống hiến suốt 21 năm với lòng bi mẫn, trí tuệnăng lượng vĩ đại cho sự tiến bộ của tu viện và cộng động cư sĩ. Cùng với việc củng cố các trung tâm nghệ thuật thủ công và các hoạt động văn hóa, Ngài còn lập nên trung tâm y tế, trường mẫu giáo và Viện nghiên cứu cho các bậc học cao hơn. Vào những năm 1990, Ngài thọ nhận trọn vẹn các quán đỉnh của truyền thừa Drukpa từ Đức Kyabje Trulsik Adeu Rinpoche đời trước.

Song song với các hoạt động trên, Kyabje Dorzong Rinpoche luôn chú tâm thực hành thiền định và các giáo lý truyền thừa một cách miên mật, thuần tịnh và không gián đoạn. Tất cả những điều đó đã cấu thành nên tư cách một bậc thầy đích thực, người nắm giữ truyền thừa Drukpa Kagyu.

Năm 1984, Kyabje Dorzong Rinpoche có cơ hội trở về Tây Tạng và thăm lại tu viện của mình. Tại đó, Ngài được mời thuyết Pháp tại các tu viện của tất cả các trường phái của Phật Giáo Tây Tạng. Ngài đã giúp đỡ các hành giả rất nhiều thông qua việc ban truyền quán đảnhgiáo lý mà họ bị gián đoạn trong thực hành.

Ngài còn đi đến nhiều nước để thuyết giảng, từ đó dần hình thành nên một số cộng đồnghành giả đáng chú ý.

 

Bên cạnh việc thực hành giáo lý của truyền thừa Drukpa, Rinpoche còn thực hành nhiều giáo lý của các dòng truyền thừa Phật giáo Tây Tạng khác. Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng còn tại thế hiện nay. Ngài là một trong số các bậc thầy nắm giữ truyền thừa, là bậc tôn quý đáng kính nhất của Drukpa Kagyu bởi những cống hiến của Ngài tại quê nhà cũng như cả khi lưu vong.

blank

(Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ tám cùng với ngài Drugu Choegyal Gyamtso Rinpoche và ngài Drubwang Tsoknyi Rinpoche – bên phải ngoài cùng, năm 2008).

Nguồn: http://www.dorzongrinpoche.org/8drzng.htm

Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25590)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37841)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18617)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14213)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20069)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9481)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14336)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35524)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10632)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19656)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23168)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13341)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10733)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20171)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10579)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9932)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14843)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17625)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17566)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13154)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31108)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25698)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13958)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17481)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10944)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12260)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10443)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12240)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9599)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12321)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9165)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8468)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9929)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9744)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12005)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14390)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9886)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11187)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8284)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10951)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14056)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9879)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15173)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13017)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23053)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23935)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12538)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15406)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17745)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15024)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16522)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16019)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17575)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11566)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17786)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10746)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10504)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11290)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12058)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11020)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36365)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8939)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9647)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17232)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10218)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10445)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12179)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13592)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14626)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9130)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11617)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10297)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15911)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15545)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14484)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12977)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12419)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14541)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18319)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9554)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18496)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18555)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18989)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18799)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11798)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13305)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47952)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11037)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13528)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13013)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11048)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12531)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11038)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31734)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11647)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant