Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năm rồng 2012

12 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12865)
Năm rồng 2012
NĂM RỒNG 2012
Hà Thúc Minh

Là người Việt Nam, không ai không nhớ về cội nguồn con Rồng cháu Tiên của mình, nhất là khi thoang thoảng hương trầm của cái Tết năm Con Rồng đang đến. Năm Nhâm Thìn thuộc vị trí thứ 29 trong chu kỳ Giáp Tý. Nếu phép tính Âm lịch bắt đầu từ năm Chu Bình Vương nguyên niên (năm 770 trước Tây lịch) thì trong lịch sử gần 3.000 năm mới có 46 năm Nhâm Thìn. Tết Nhâm Thìn năm 2012 là Tết Nhâm Thìn thứ 46.

Huyền thoại Lạc Long Quân, Âu Cơ có lẽ là hình tượng đầu tiên về rồng của dân tộc. Lạc Long Quân mình rồng, Âu Cơ mình rắn, sau năm Thìn là năm Tỵ, rồng rắn thường đi liền với nhau. Trung Quốc cũng có huyền thoại về Phục HyNữ Oa. Phục Hy mình rồng, Nữ Oa mình rắn, cho nên người Trung Quốc xem đó là hình tượng đầu tiên của họ. Văn hóa của hai dân tộc đều lấy rồng làm cội nguồn của mình. Không phải chỉ có Việt NamTrung Quốc, cả Nhật BảnTriều Tiên đều xem rồng là đặc trưng văn hóa của dân tộc. Đúng là văn hóa rồng không có biên giới.

Tuy nhiên, hình tượng về con rồng đầu tiên chẳng biết xuất hiện ở nơi nào của các nước châu Á này?

Khảo cổ học Trung Quốc phát hiện hình tượng con rồng xuất hiện trong vật dụng hàng ngày của họ cách ngày nay 8.000 năm, vào thời kỳ giữa đồ đá mới. Khảo cổ học Việt Nam tuy chưa phát hiện dấu vết về rồng sớm như ở Trung Quốc, nhưng như thế cũng chưa thể cho rằng hình tượng rồng đầu tiên xuất hiệnTrung Quốc. Biết đâu hình tượng con rồng lại xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam cũng nên? Thử nêu một vài lý do sau đây:

1. Người Việt Nam đọc là “rồng”, Trung Quốc đọc là “lủng”. Trung Quốc không có âm “r”, chỉ có âm “l”, Việt Nam vừa có cả hai âm. Như vậy nếu “rồng” bắt đầu từ Trung Quốc thì Việt Nam sẽ gọi “rồng” là “lủng” hay là “long” chứ không thể gọi là “rồng” được. Núi Hàm Rồng ở Sa Pa, cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa… là từ Việt hoàn toàn.

2. Rồng là vật linh thiêng được tập hợp từ đặc trưng của nhiều động vật khác. Như vậy, “rồng” là cái chung, trâu, bò, dê, ngựa là cái riêng. Tư duy của người tiền sử chưa phát triển cho nên thường từ cái riêng đến cái chung chứ không phải ngược lại. Vậy con rồng đầu tiên phải từ con vật nào đó cũng ít nhiều có hình dạng của con rồng sau này. Phải chăng con rồng đầu tiên đó là con “thuồng luồng” (giao long) ở Việt Nam? Người Giao Chỉ vốn gắn bó với sông nước, cho nên thường xăm mình để tránh nguy hiểm khi ở dưới nước.

3. Năm Nhâm Thìn, thiên can là “Nhâm” thuộc “thủy”, địa chi là “Thìn” thuộc “thổ”. Như vậy “Thìn” là rồng thuộc “Thổ”, “Thổ” theo Ngũ hành, vị trítrung tâm, có tầm quan trọng nhất. Nhưng “Thổ” (Địa) theo Bát quáivị trí ở phương Nam. Như vậy hình tượng về con rồng có thể là sản phẩm của phương Nam.

Hình tượng con rồng xuất hiện trước, sau ở đâu chẳng qua cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu trong ba ngày Tết, có gì quan trọng đâu. Vấn đề quan trọng hàng đầu hiện nay là năm con rồng 2012. Không phải là rồng bình thường đang “hô phong hoán vũ” mà là con rồng đang gặp… đại nạn.

Cái mà thiên hạ gọi là “đại nạn” chỉ là chuyện từ cách tính lịch pháp gọi là “Trường lịch pháp” (Long Count Calendar) của người Maya mà ra cả thôi. Maya là dân tộc ở vùng Trung mỹ, Đông nam Mexico, Bắc Guatamala và Honduras - một dân tộc có nền văn minh vào loại sớm nhất thế giới, đặc biệtthiên văn học và số học rất phát triển. Người Maya đã sử dụng con số “O” cách ngày nay những hơn ba nghìn năm. Họ tính chính xác thời gian chu kỳ vòng quay của quả đất chung quanh mặt trời là 365 ngày, 6 giờ, 24 phút, 20 giây. Maurice Cotterell, chuyên gia về văn minh Maya tìm thấy nhiều phiến đá hoặc ở cổ miếu có ghi “mật mã”: 1366560. Ông cho rằng đó là con số chỉ ngày, quy ra năm thành 3740. Đó là số năm của một chu kỳ quả đất do người Maya để lại. Như vậy là quả đất đã trải qua 4 chu kỳ, hiện nay là chu kỳ thứ 5. Chu kỳ thứ năm sẽ kết thúc vào ngày 22 tháng 12 năm 2012. Theo người Maya thì từ 0 giờ ngày 21 trở đi mặt trời sẽ không mọc như thường kỳ. Mặt trời và các hành tinh cùng nằm trên một mặt phẳng, từ trường của mặt trời thay đổi, ảnh hưởng mạnh đến từ trường của quả đất. Thời tiết thay đổi đột ngột. Động đất và gió bão gào thét dữ dội và giờ phút cáo chung của toàn bộ văn minh trái đất (End of the World) đã bắt đầu điểm!

Để tăng thêm tính xác thực của phép tính về ngày tận thế của quả đất, người ta còn dùng khoa Kỳ Môn, Độn Giáp của Kinh Dịch để tìm ra quẻ của năm Nhâm Thìn 2012. Kết quả tìm được là:

Trên “Ly” là “hỏa”, dưới “Khảm” là “thủy”. Trên “lửa” dưới “nước” là quẻ “Vị tế”, quẻ cuối cùng trong Kinh Dịch, sau quẻ “Ký tế”. Tất cả các hào trong quẻ đều không trung, chính. Như vậy kết quả tính theo Đôn Giáp của Kinh Dịch cũng phù hợp với cách tính của người Maya. Tính theo Âm lịch là năm Rồng (Nhâm Thìn), ngày Rồng (ngày Bính Thìn).

Người ta còn cho rằng các chùa chiền, tu viện Phật giáoTây Tạng từ lâu đã biết đến điều này. Nhưng họ cho rằng bao giờ cũng có Thần Tăng âm thầm theo dõi và luôn can thiệp giải nguy cho quả đất.

Không phải ai cũng đồng tình với phép tính của người Maya, có người cho rằng nói là phép tính của người Maya nhưng thực ra đó là tà giáo của phương Tây. Hơn nữa, cái gọi là thời gian chẳng qua là cảm giác sai lầm của con người, thời gian tuyệt đối từ Newton đến thời gian tương đối của Einstein là sự sửa sai đầy thuyết phục. Thời gian là sản phẩm chủ quan của con người, trước khi xuất hiện con người làm gì có thời gian. Khái niệm thời gian còn lơ mơ thì làm gì có phép tính gọi là ngày tận thế (End Day)? Cho nên điều đầu tiên trong công trình dịch thuật đầu tiên của Đường Huyền Trang sau khi đi Tây Trúc về, Du Già Sư Địa Luận (Yogacarabhumisastra), là vấn đề “thời gian”.

Thực ra trong cái tất yếu bao giờ cũng có cái ngẫu nhiên. Ngay Maurice Cotterell cũng còn hồ nghi: “Liệu tất cả chúng ta đều sắp chết sao? (Are we all going to die?). Ai không tin thì cứ việc không tin, ai tin thì cũng chẳng sao. Bởi vì phàm cái gì đã sinh ra thì đương nhiên là sẽ mất đi. Quả đất cũng không ngoại lệ, vấn đề là vào thời điểm nào mà thôi.

Phật giáo cho rằng bất cứ sự vật nào tồn tại trên đời đều phải trải qua chu kỳ (kiếp) gọi là “thành, trụ, hoại, không”. Trái đất và sự sống trên trái đất cũng vậy. “Thành kiếp” là sự hình thành ban đầu của sự vật. Ở “Thành kiếp”, đầu tiên là gió bão dữ dội (Phong luân), tiếp sau là mưa lớn (Vũ luân), tứ đại hình thành. “Trụ kiếp” gồm 20 trung kiếp (mỗi kiếp có 15.998.000 năm). Con người chỉ xuất hiệntồn tại ở “Trụ kiếp”. Con người có thể là từ ngoài trái đất di cư đến để ăn trái cây chín rộ nơi đây. “Hoại kiếp” cũng có 20 trung kiếp. Cái mà thiên hạ gọi là tận thế, theo Phật giáothời kỳ đầu của hoại kiếp. “Hoại kiếp” bất đầu bằng lửa, lửa thiêu cháy hết mọi thứ trên đời. Hết lửa đến mưa, nước ngập khắp nơi. Hết mưa rồi đến gió, gió thổi bay hết mọi thứ chẳng biết về phương nào. “Không kiếp” là từ không sinh ra có. Phật giáo cho rằng sự hình thành và hủy diệt của sự sống trên trái đất hoàn toàn không có sự can thiệp nào của Thượng đế cả. Nguyên nhân của sự hủy diệt chủ yếu cũng do tác động của con người. Ba tai nạn do con người tạo ra, đó là chiến tranh, đói kém và ôn dịch. Sự suy thoái về đạo đức chính là nguyên nhân dẫn đến những tai nạn. Sự hưng thịnh và suy vong của đạo đứcnguyên nhân trực tiếp của sự hưng vong của xã hội (Xem A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận - Abhidharmakosasastra, quyển 12). 

Ngày tận thế của năm 2012 có hay không chưa ai biết được, tuy nhiên, có một điều có thể khẳng định, đó là năm con Rồng 2012 sẽ tạo ra hoặc chuẩn bị tạo ra biến chuyển cực kỳ to lớn. Người ta cho rằng nhân loại sẽ có cuộc sống văn minh, hạnh phúc hơn nhiều. Vài thế kỷ gần đây, những đột biến lịch sử thường xảy ra vào thời điểm cận kề với năm Nhâm Thìn. Hiệp ước Patenotre 1884 đặt ách thống trị của thực dân Pháp lên lãnh thổ Việt Nam và đúng 60 năm sau, 1954 lại phải ký Hiệp định Geneve trao trả độc lập cho dân tộc Việt Nam. Hai sự kiện lớn đều xảy ra hai năm sau năm Nhâm Thìn thế kỷ XIX (1882) và năm Nhâm Thìn thế kỷ XX (1952). Sau đổi mới cực kỳ to lớn của năm Nhâm Thìn 2012 thế kỷ XXI, có lẽ vai trò chủ đạo của cuộc sống lúc bấy giờ không phải là điều kiện vật chất, kỹ thuật mà là lúc năng lượng tinh thần phát huy ưu thế của mình.

Năm Rồng, hướng về Lạc Long Quân, Âu Cơ. Hãy nâng tách trà sen mừng cái Tết đổi mới của đổi mới năm Nhâm Thìn thế kỷ 21 của một dân tộc con Rồng cháu Tiên đang hướng về thời đại “phi Long tại thiên” (Rồng bay lên cao, Kinh Dịch, quẻ Càn, hào Cữu ngũ).

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14131)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39675)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15294)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13843)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13903)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37290)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40025)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14614)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14302)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12636)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14808)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19197)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13777)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42588)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13807)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37207)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12654)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11742)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12486)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12548)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13012)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13095)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17238)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33195)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14814)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11024)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12429)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11936)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11922)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13115)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51215)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12362)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6593)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30374)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13111)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13295)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30650)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19320)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12466)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11824)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14745)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13174)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13177)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30646)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12010)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11805)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12697)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31867)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29384)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11769)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11719)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10402)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11536)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9617)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9634)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9938)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35372)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10123)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10078)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10023)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9626)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27778)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15457)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9824)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13642)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9822)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9675)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18289)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12028)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9544)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9669)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8684)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8898)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8390)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11453)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31692)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12311)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13300)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8810)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9426)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11919)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9206)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9060)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9641)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29316)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9061)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9072)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33203)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8410)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30567)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31194)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37078)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32222)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9902)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27057)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8428)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19207)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12995)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9762)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant