Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truyền tin qua gió hay pháp môn Thiên lý truyền tâm

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 16230)
Truyền tin qua gió hay pháp môn Thiên lý truyền tâm
Truyền tin qua GIÓ 
HAY PHÁP MÔN THIÊN LÝ TRUYỀN TÂM (1)
Alexandra David Neél – Huỳnh Ngọc Chiến dịch

Những đạo sư huyền thuật Tây Tạng thường trầm lặng ít nói, trong số họ cũng có những người nhận môn đồ, nhưng giảng dạy bằng phương pháp tâm truyền chứ ít khi dùng đến ngôn ngữ. Việc mô tả những phương pháp giáo huấn kỳ lạ đó không phải là chủ đề của bài viết này. Chỉ cần biết rằng những môn đồ của các bậc đạo sư huyền thuật đó rất ít khi gặp được sư phụ. Thời gian giữa những lần gặp gỡ kéo dài hay mau đều tùy thuộc vào sự tiến bộ của môn đồ, hoặc khi có những vấn đề về tâm linh cần đến sư phụ khai thị. Khoảng thời gian giữa những lần tiếp xúc của hai thầy trò kéo dài vài tháng, có khi vài năm. Mặc dù xa cáchít khi gặp nhau, nhưng thầy trò - đặc biệt là đối với những vị có công phu đạo hạnh cao - vẫn có một phương pháp liên lạc với nhau mỗi khi cần thiết.

Thiên lý truyền tâm hay khả năng viễn cảm là một trong những pháp môn thần bí của người Tây Tạng. Dường như khắp nơi trên những núi non cao ngất của “Xứ Tuyết” này đều được phủ đầy bởi hiện tượng thiên lý truyền tâm, giống như vai trò mà ngành điện tín vô tuyến đã thực hiện từ lâu ở phương Tây. Trong khi ở đất nước phương Tây, những thiết bị máy móc truyền tin có xu hướng thiên về đại chúng, thì ở nơi đây, sự truyền đạt những thông điệp tế vi theo cánh gió(2) lại thuộc thẩm quyền của một thiểu số tu sĩ đã thụ pháp.

Khả năng thiên lý truyền tâm không phải là điều xa lạ với phương Tây. Những tổ chức nghiên cứu tâm linh đã nhiều lần ghi nhận các hiện tượng thiên lý truyền tâm. Tuy nhiên, phần lớn các hiện tượng này đều xảy xa ngẫu nhiên và người trong cuộc lại hoàn toàn chẳng hay biết gì cả.

Kinh nghiệm cho thấy khi cố gắng thực hiện phương pháp thiên lý truyền tâm một cách có chủ ý thì kết quả lại rất đáng ngờ, vì chúng không thể lặp lại thông điệp chính xác như mong đợi.

Đối với người Tây Tạng thì vấn đề này lại khác. Họ cho rằng thiên lý truyền tâm là một bộ môn khoa học, và cũng như mọi bộ môn khoa học khác, nó có thể được giảng dạy bởi những người đã được giáo huấn bài bản, đầy đủ và thấy mình có đủ khả năng thực hiện.

Người ta cũng chỉ ra thêm những phương pháp khác nữa đều nhằm mục đích đạt đến khả năng thiên lý truyền tâm, nhưng quan điểm của các tu sĩ bậc thầy trong pháp môn này lại không nhất trí với nhau về quan điểm cho rằng nguồn gốc của hiện tượng này là sự tập trung tư tưởng cao độ đến mức xuất thần.

Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng một cách mãnh liệt vào một đối tượng duy nhất, từ đó quyết định sự thành công của hiện tượng này.

Vai trò của “trạm thu sóng” có ý thức - vốn luôn sẵn sàng cảm ứng với những dao động sóng thiên lý truyền tâm cực kỳ vi tế - khó khăn chẳng kém gì vai trò của “trạm phát sóng”. Trước tiên, người muốn trở thành “trạm thu sóng” phải có khả năng tương thông với trạm phát sóng mà từ đó nó muốn nhận những thông điệp gởi đến.

 Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, đến mức mọi đối tượng khác đều biến khỏi phạm vi nhận thức, đó là một trong những cột trụ trong việc luyện tâm của những tu sĩ Lạt ma. Mặt khác, việc luyện tâm cũng bao gồm các phương pháp giúp phát triển khả năng nhận thức những dòng năng lượng khác luôn xô đẩy vũ trụ chuyển động theo mọi hướng.

Dựa trên sự kiện này, một số người khẳng định rằng công phu thiên lý truyền tâm cũng như viêm công, hay nhiều năng lực hữu ích khác, chỉ là những kết quả tùy sinh từ việc luyện tâm, do đó thật là vô bổ nếu xem nó là pháp môn riêng biệt để khổ luyện.

Một số người lại nhìn nhận sự việc theo cách khác. Họ công nhận rằng những năng lực thần thông đạt được từ việc luyện tâm cho phép thực hiện khả năng thiên lý truyền tâm cùng nhiều công phu huyền bí khác; nhưng họ thêm rằng, những người dầu không đạt đến quả vị cao siêu trong Mật pháp hoặc không khao khát cầu pháp vẫn có thể luyện thành công bất kỳ pháp môn tùy sinh nào.

Nói chung thì các đạo sư Mật tông tán đồng điều này ở một mức độ nào đó, và có một số đạo sư chuyên dạy cho môn đồ pháp môn thiên lý truyền tâm.

Một số nhà ẩn tu, dù không luyện tập bài bản theo hệ thống, vẫn có thể đón nhận được những thông điệp khai thị của các đạo sư truyền đi bằng pháp môn thiên lý truyền tâm. Điều này được xem là do lòng tôn kính sâu xa của họ đối với sư phụ. Chỉ có một số ít mới đạt được khả năng truyền đi thông điệp một cách tự nhiên.

Về phương pháp luyện tập của pháp môn thiên lý truyền tâm, có thể phác thảo sơ qua những nét chính như sau:

Trước tiên, hành giả cần phải thực hành những bài tập tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất đến mức xuất thần, để hợp nhất cùng đối tượng.

Song song với điều đó, cần phải luyện tập những bài tập bổ sung về tập trung tư tưởng là “hư tâm”, nghĩa là vất bỏ tất cả sự vật ra khỏi tâm trí, để cõi lòng lặng lẽ tịch nhiên tuyệt đối.

Tiếp theo đó hành giả phải quán tưởng và phân tích những tác động đa dạng của các cảm xúc tâm sinh lý nảy sinh một cách đột ngột khó hiểu, cùng những trạng thái tinh thần đặc biệt như vui buồn, sợ hãi, thêm vào đó là những kỷ niệm bất chợt về người, về sự vật, về những biến cố dường như chẳng liên quan gì với tư tưởng hoặc hành động của những người hiện ra trong hoài niệm.

Sau khi đã tập luyện như thế được vài năm thì hành giả mới được phép tham thiền với người thầy.

Hai thầy trò sẽ ngồi thiền trong một căn phòng kín, lờ mờ sáng và cực kỳ yên tĩnh để cùng tập trung tư tưởng vào một đối tượng chung. Cuối buổi hành công, người môn đồ sẽ thông báo cho vị Lạt ma biết những tư tưởng, cảm xúc hoặc những nhận thức khách quan nảy sinh trong các giai đoạn tham thiền. Hai thầy trò sẽ đem những điều này ra đối chiếu với nhau để tìm hiểu những điểm tương đồng hay khác biệt giữa hai người.

Giai đoạn tiếp theo, vị thầy sẽ không cho biết môn đồ biết đối tượng cần quán tưởng, mà để cho môn sinh - trong nỗ lực giữ cho lòng rỗng rang yên tĩnh không cho tư tưởng khởi sinh trong tâm trí - quan sát những tư tưởng, tình cảm cùng những nhận thức xa lạ bất ngờ xuất hiện. Cũng như giai đoạn trước, người môn đồ sẽ thông báo cho vị Lạt ma biết những tư tưởng, hoặc hình ảnh nảy sinh trong quá trình tham thiền, và đem chúng ra để đối chiếu với những gì mà vị sư phụ đã gợi ý cho mình bằng phương thức tâm truyền.

Đến lúc này, vị sư phụ sẽ để môn đồ ở cách mình trong một cự ly không quá xa và truyền lệnh chính xác đến môn đồ. Nếu người môn đồ hiểu được thông điệp này thì anh ta sẽ trả lời lại sư phụ hoặc thực hiện nội dung của mệnh lệnh. Công phu này được lặp lại với khoảng cách giữa hai thầy trò tăng lên dần theo thời gian. Sau khi đã ngồi thiền trong cùng một căn phòng, hai thầy trò sẽ chuyển sang ngồi thiền trong hai căn phòng khác nhau của cùng một tu viện, hoặc vị môn đồ sẽ quay về với thảo am hay thạch động của mình, rồi chuyển xa dần khỏi chỗ ở của sư phụ thêm nhiều cây số.

Tây Tạng, người ta tin rằng các đạo sưpháp lực thượng thừa có thể đọc được tư tưởng của người khác theo ý muốn. Đối với các đạo sư này thì môn đồ của họ không cần phải gởi thông điệp tư tưởng đến sư phụ bằng phương pháp thiên lý truyền tâm, vì sư phụ đã đọc được tư tưởng của họ trước cả khi họ tham thiền để thực hiện điều này.

Dù điều này đúng hay sai đi nữa thì khi được gán cho vinh dự là một doubtchén, nghĩa là một pháp sư pháp lực thượng thừa, thì vị pháp sư đó phải hành xử ra vẻ như ông ta thực có những thần thông mà người ta gán cho ông. Vì lý do này mà môn đồ của họ khi khởi đầu đạo nghiệp đều luyện tập pháp môn thiên lý truyền tâm bằng cách gởi những thông điệp cho nhau.

Một nhóm khoảng hai ba người kết hợp với nhau để luyện tập pháp môn này dưới sự hướng dẫn của vị Lạt ma sư phụ, và quá trình luyện tập cũng na ná như những gì đã được mô tả.

Những môn sinh lão luyện hơn thì tự kiểm tra sự tiến bộ của mình bằng cách gởi đi những thông điệp bất ngờ, nằm ngoài những bài tập dự kiến, vào thời điểm mà người nhận đang rất bận rộn và hoàn toàn không nghĩ đến việc đón nhận thông điệp.

Họ cũng cố gắng khơi dậy, bằng phương pháp thiên lý truyền tâm, tư tưởng và hành động đối với những người mà họ chưa bao giờ luyện tập chung. Một vài người lại cố gắng khơi dậy hành động nơi loài vật.

Luyện tập phương pháp này phải tốn rất nhiều năm tháng. Thật khó lòng phỏng đoán chính xác có bao nhiêu người đã khổ luyện thành công môn này. Hơn thế nữa, sẽ sai lầm khi tưởng rằng có đông đảo môn sinh theo học pháp môn thần bí này, như ta thường thấy tại các tu viện lớn. Trong một thung lũng hoang tịch như thế này, thì số lượng năm sáu môn đồ sống quanh thảo am của một vị ẩn tu cũng được xem là đông rồi. Ngần đó đã là con số tối đa hiếm khi đạt tới. Cách xa nơi đây, tại một hang núi khác ta có thể bắt gặp thêm một vài môn đồ sống trong những thảo am sơ sài, ở quanh nơi ẩn tu của sư phụ họ cách chừng vài cây số. Qua đó, ta có thể hiểu được nhiều bài luyện tập môn thiên lý truyền tâm đã được một số ít hành giả thực hiện tại những địa điểm khác nhau.

Mặc cho những thành tựu mà các hành giả đã đạt được khi khổ luyện môn thiên lý truyền tâm, các bậc chân sư Mật tông khả kính nhất vẫn không hề khuyến khích điều này. Đối với các vị đó thì việc thành tựu những năng lực siêu nhiên cũng chẳng khác gì trò chơi của trẻ con, hoàn toàn chẳng đáng quan tâm.

Có vẻ như trên thực tế những bậc đại ẩn tu có thể tùy ý truyền thông tư tưởng cho môn sinh bằng pháp môn thiên lý truyền tâm, và người ta còn nói rằng các vị đó còn có thể truyền thông tư tưởng cho bất kỳ loài hữu tình nào; nhưng như đã nói, những năng lực siêu nhiên đó chỉ là những kết quả tùy sinh của tri kiến thâm huyền về những quy luật tâm lý và sự hoàn thiện tâm linh.

Khi đã đạt đến giác ngộ thì không còn sự phân biệt giữa tangười, giữa chủ khách, giữa năngsở mà tất cả đều viên dung nhất thể, cho nên pháp môn thiên lý truyền tâm được thực hiện dễ dàng. Dù trong pháp môn này có một phần sự thật và một phần tưởng tượng, song tôi thấy khôn ngoan nhất là đừng nên bàn gì về chúng.

Từ những quan sát đã thực hiện suốt nhiều năm tháng, tôi có thể kết luận rằng, pháp môn thiên lý truyền tâm cũng như nhiều pháp môn thần bí khác dường như đã tìm được ở Tây Tạng một vùng đất thuận lợi để phát triển, hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới. Nói một cách chính xác thì những điều kiện thuận lợi đó là gì? Trả lời dứt khoát câu hỏi này là một hành động liều lĩnh, trong khi bản chất của những hiện tượng tâm linh siêu nhiên này vẫn còn là điều huyền ẩn.

Có thể là do các hiện tượng tâm linh phải đối mặt với ảnh hưởng địa lý của lãnh thổ cao ngất trời này. Có thể là do sự tịch lặng mênh mông bao trùm lên toàn xứ sở. Nếu tôi dám tự cho phép mình sử dụng cách diễn tả lạ lùng thì đó là sự tịch lặng diệu kỳ mà ta có thể nghe bàng bạc vang trên những tiếng cuồng nộ thét gầm của thác ghềnh, sông suối. Cũng có thể là các năng lực tâm linh hiển thị dễ dàng nhờ sự vắng bóng của những cụm dân cư đông đúc, vì những hoạt động tinh thần tại những nơi này sẽ tạo ra vô số cơn lốc năng lượng tinh thần làm rối loạn những làn sóng tế vi của hiện tượng tâm linh.

Cho dù là vì nguyên nhân gì đi nữa thì sự truyền thông tư tưởng bằng pháp môn thiên lý truyền tâm, một cách vô tình hay cố ý, vẫn không phải là chuyện hiếm xảy ra tại Tây Tạng.

 Bản thân tôi cũng đã từng nhận những thông điệp thiên lý truyền tâm của vị Lạt ma mà tôi có nhiều quan hệ. Có thể số lượng thông điệp nhiều hơn tôi tưởng. Nhưng tôi chỉ giữ lại, xem như là những tư liệu quan sát quý giá, một số ít thông điệp mà nhiều ngày sau hoặc nhiều tháng sau, vị Lạt ma hỏi tôi về kết quả của chúng mà thôi.

Bên cạnh các phương pháp truyền thông tư tưởng mang sắc thái liên quan đến yếu tố tâm linh, tuy không hẳn là phương pháp thiên lý truyền tâm nhưng liên quan đến tính đồng nhất tư tưởng giữa sư phụmôn đồ, tôi xin kể lại hai câu chuyện bất ngờ mang sắc thái hoàn toàn khác.

Một trong hai câu chuyện này xảy ra tại lưu vực sông Dainchine, trong cuộc hành trình của tôi đến Lhassa. Vị Lạt ma, tác giả của những thông điệp mà tôi thấy giống như hiện tượng thiên lý truyền tâm, sống tại tu viện Tcheudzong.

Yongden và tôi đã trải một đêm ngoài trời, trong một cái hố tự nhiên do những cơn mưa liên tục xói lở đất tạo nên, nhưng giờ đây đã khô và rắn lại nhờ sương giá. Vì không có chất đốt để nhóm lửa pha trà bơ cho bữa điểm tâm quen thuộc, chúng tôi phải lên đường sớm để tìm chỗ lưu trú thường ngày. Đến trưa, chúng tôi bắt gặp một vị Lạt ma vẻ mặt khả kính đang ngồi trên tấm thảm lót yên ngựa3, sát bên vệ đường. Ông ta vừa dùng cơm xong. Cùng với ông còn có ba tu sĩ trẻ (trapa) vẻ mặt thông minh sáng sủa, tựa hồ là môn đồ chứ không phải là những kẻ tùy tùng. Bên cạnh nhóm người này là bốn con ngựa dàm cương đang cố gặm đám cỏ khô.

Những lữ khách này đã dùng củi nhóm lửa, và một ấm trà vẫn còn đang bốc khói trên than hồng.

Chúng tôi, trong bộ quần áo cải trang thành những kẻ hành hương khất thực, lễ phép chào hỏi vị Lạt ma theo nghi thức. Khi nhìn thấy bình trà, có lẽ sự thèm muốn uống trà hiện ra trên gương mặt chúng tôi. Vị Lạt ma lẩm bẩm: “Nyingdjé” (Thật tội nghiệp!), rồi cất cao giọng mời chúng tôi ngồi, bảo chúng tôi đưa bát để rót trà và cho bánh tsampa.

Một trapa liền rót phần trà còn lại vào bát chúng tôi và đặt một đĩa bánh tsampa bên cạnh chúng tôi, rồi đi đến giúp những người trong đoàn thắng yên cương ngựa để chuẩn bị lên đường. Một con ngựa bất ngờ lồng lên bỏ chạy vì sợ hãi. Đây cũng là một biến cố thường xảy ra. Một trapa khác liền cầm dây chạy theo để bắt nó lại.

Vị Lạt ma không phải là người hay nói, ông chỉ lặng lẽ ngồi yên, đưa mắt theo dõi con ngựa đang tung vó chạy băng qua cánh đồng trơ trụi. Chúng tôi tiếp tục ngồi ăn trong yên lặng. Tôi đảo mắt nhìn quanh và nhìn thấy một bình gỗ chứa đầy sữa. Tôi đoán vị Lạt ma đã nhận bình sữa này từ một trang trại mà tôi nhìn thấy trên đường đi, ở cách đây không xa.

Tôi nói thầm vào tai Yongden:

- Khi nào vị Lạt ma kia đi rồi, con hãy đến trang trại kia xin một ít sữa.

Mặc dù tôi nói rất khẽ, nhưng dường như vị Lạt ma kia hiểu được lời tôi nói. Ông đưa mắt nhìn tôi rất lâu với vẻ dò xét, rồi hạ thấp giọng lẩm bẩm: “Nyingdjé” và ngoảnh mặt đi.

Con ngựa không bỏ chạy xa, mà tựa hồ như đang hứng chí chơi đùa nên cứ nhảy nhót lung tung, khiến vị trapa kia không sao đến gần được. Cuối cùng thì nó cũng đứng yên để vị tu sĩ trẻ quàng sợi dây quanh cổ dắt về.

Vị Lạt ma vẫn ngồi bất động, đưa mắt đăm đăm nhìn người môn đồ đang dắt ngựa. Người này đột nhiên ngừng lại, đứng yên một lúc, thái độ có vẻ chăm chú, rồi dắt con ngựa buộc sau một tảng đá. Sau đó anh ta quày quả đi bộ về phía trang trại. Một lúc sau tôi thấy anh ta quay trở lại chỗ buộc ngựa, tay cầm một “vật gì đó” không rõ.

Khi anh ta đến gần, tôi mới nhận ra “vật gì đó” chính là một bình gỗ đầy sữa. Anh ta không đặt bình sữa trước mặt tôi, mà đưa mắt nhìn vị Lạt ma như muốn hỏi: “Sư phụ muốn con làm gì đây? Con phải làm gì với bình sữa này?”

Trước những câu hỏi được lặng lẽ đặt ra, vị Lạt ma chỉ khẽ gật đầu xác nhận và ra lệnh cho người môn đồ đưa bình sữa cho tôi.

Câu chuyện thứ hai tôi sắp kể đây không xảy ra tại Tây Tạng, mà tại biên giới tỉnh Cam TúcTứ Xuyên của Trung Quốc.

Tại vùng biên của khu rừng mênh mông trải dài giữa Tangan và ngọn đèo Kunka, có sáu người xin gia nhập vào đoàn chúng tôi. Vùng này nổi tiếng là khu vực hoành hành của thổ phỉ Tây Tạng, cho nên mỗi khi đi qua đây, khách đi đường thường phải kết hợp với nhau thành từng nhóm đông đảo và vũ trang đầy đủ.

Năm trong số sáu người bạn đồng hành mới của chúng tôithương nhân Trung Quốc, người còn lại là một phù thủy (ngagspa) đạo Bön. Ông ta vạm vỡ, to lớn, mái tóc dài bó trong một tấm vải đỏ tạo thành một dải băng dài.

Vì luôn tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu về giáo lý và các nghi thức tôn giáo, nên tôi mời vị lữ khách cô đơn kia dùng cơm, với hy vọng được nghe ông ta phiếm đàm về những đề tài tôi đang quan tâm. Tôi được biết ông ta đang trên đường đến với vị sư phụ - một pháp sư đạo Bön đang thực hiện đại nghi lễ thần bí doubthab trên một ngọn núi gần đây. Mục đích của nghi lễ này là hàng phục một ác thần, và bắt y phá hoại một trong những bộ lạc nhỏ trong vùng.

Sau vô số thủ thuật ngoại giao, tôi mới bày tỏ ý muốn được yết kiến sư phụ ông ta, song vị môn đồ thẳng thừng tuyên bố không thể được. Sư phụ ông ta tuyệt đối không thể bị quấy rầy trong trọn tháng âm lịch này, vì phải dành trọn thời gian để tiến hành nghi lễ.

Tôi biết có nài nỉ cũng vô ích, nên định bụng sẽ theo dõi vị ngagspa này khi ông ta rời đoàn chúng tôi, sau khi vượt qua ngọn đèo. Nếu kín đáo tiếp cận vị pháp sư kia một cách bất ngờ thì không chừng tôi có thể nhìn thấy được đàn tràng thần bí này cùng những thứ pháp khí khác dùng trong nghi lễ.

Tôi thấy kế hoạch có vẻ ổn thỏa nên dặn dò những người tùy tùng kín đáo bám sát vị ngagspa kia, đừng để ông lén lút bỏ đi.

Hình như những người tùy tùng của tôi nói chuyện với nhau quá lớn về chuyện này, khiến vị ngagspa biết được ý đồ của tôi đối với đạo sư (gourou) của ông ta, nên lên tiếng cảnh báo tôi có cố gắng làm cũng chỉ hoài công vô ích.

 Tôi trả lời rằng tôi không hề có ý đồ xấu, mà chỉ mong muốn được trò chuyện thân mật với vị pháp sư để học hỏi thêm. Tôi dặn dò những người tùy tùng phải bám riết viên ngagspa kia chặt chẽ hơn nữa.

Người bạn đồng hành của chúng tôi hiểu rằng ông ta bị ép buộc để trở thành một tù nhân, nhưng vì thấy điều đó cũng chẳng gây hại gì và nhất là được ăn uống thỏa thích - một điều mà người Tây Tạng rất xem trọng - nên ông tham gia chuyến lữ hành với tâm trạng vô cùng vui vẻ.

- Đừng lo tôi bỏ trốn - ông ta bảo tôi - bà có thể cho người trói tôi lại nếu bà muốn. Tôi chẳng cần đi trước để báo cho sư phụ tôi biết bà đang đến, vì người đã được thông báo trước rồi. Gnais loung gi téng la lén tang tsa (Tôi đã gởi cho người một thông điệp bằng pháp môn thiên lý truyền tâm rồi).

Các ngagspa thường là những kẻ ba hoa khoác lác rằng họ có những năng lực siêu phàm, nên tôi cũng chẳng quan tâm chi đến những lời ông ta nói.

Thế nhưng lần này tôi đã lầm.

Sau khi vượt qua ngọn đèo, chúng tôi tiến vào một thảo nguyên. Trên vùng thảo nguyên bao la như thế này thì bọn cướp không còn đáng sợ nữa, vì chúng khó tìm ra được chỗ để phục kích.

Những thương nhân Trung Quốc, suốt mấy ngày qua khi còn ở trong rừng, cả ngày lẫn đêm đều không dám rời đoàn người của chúng tôi nửa bước, giờ đây đã lấy lại sự tự tin và vội vã chuẩn bị lừa ngựa để từ biệt. Tôi vẫn có ý định theo dõi vị ngagspa khi ông ta bỏ đi, thì một đoàn kỵ mã khoảng sáu người đột nhiên xuất hiện trên một mô đất và phi nước đại về phía chúng tôi.

Khi đến gần, họ liền xuống ngựa chào hỏi và tặng cho tôi mấy cái khăn khadag(4) và một ít bơ. Sau khi kết thúc nghi thức tặng quà, một tu sĩ lớn tuổi bảo tôi rằng vị đại pháp sư đạo Bön cho đem lễ vật này đến tặng tôi để xin tôi từ bỏ ý định tiếp cận ông ta. Ông ta không được tiếp xúc bất kỳ ai, ngoại trừ một trong những đệ tử đã thụ pháp, không một ai được đến gần nơi ông ta đang triển khai đàn tràng huyền thuật.

Tôi buộc lòng phải từ bỏ kế hoạch của mình. Dường như vị ngagspa kia đã thực sự gởi đi một thông điệp cho sư phụ ông ta bằng phương pháp thiên lý truyền tâm. Tôi hiểu có ôm khư khư ý định cũng chẳng ích gì.

Mặc dù người môn đồ đã cho tôi thấy bằng chứng về những năng lực phi thường, tôi vẫn ngờ rằng chính vị sư phụ kia mới là người dùng huyền lực để ngăn không cho tôi đến gần ông, song những người dân núi vạm vỡ đeo súng bao quanh tôi đang đứng sờ sờ ra đấy, tôi không thể cho là họ những ảo ảnh không có thực. Họ tỏ ra rất mực lễ độ, không hề có biểu hiện ác ý gì với tôi, nhưng thái độ của họ chắc chắn sẽ thay đổi, nếu như tính ương bướng của tôi đe dọa đến sự thành công của một đại nghi lễ đang thu hút sự quan tâm của toàn bộ lạc.

Tôi cũng đưa cho vị ngagspa một tấm vải khadag và một ít tiền để cúng dường cho sư phụ ông ta. Tôi chúc mừng cho những người Tây Tạng kia đã may mắn có được một viên pháp sư thượng thừa, rồi chúng tôi thân mật giã từ.

Dường như hiện tượng thiên lý truyền tâm bằng hình ảnh cũng tồn tại đối với người Tây Tạng. Nếu như tin vào hành trạng của những vị Lạt ma nổi tiếng, được truyền khẩu giữa những người Tây Tạng, ta sẽ thấy có nhiều câu chuyện điển hình của loại này. Song trong những hành trạng đó, sự thật và hư cấu trộn lẫn với nhau chặt chẽ đến mức thà nghi ngờ còn hơn là tin hẳn những câu chuyện dị thường được kể lại trong đó.

Trong thời đại chúng ta, vẫn có những người khẳng định đã từng ghi nhận những ảnh tượng được truyền đi bằng phương pháp thiên lý truyền tâm.

Những hiện tượng này hoàn toàn khác với giấc mơ. Đôi khi những ảnh tượng đột nhiên xuất hiện trong quá trình thiền định, nhưng đôi khi lại xảy ra khi người nhận đang bận rộn với công việc thường ngày.

Một vị Lạt ma tsipa (nhà chiêm tinh) kể cho tôi nghe rằng, một hôm ông đang ngồi dùng bữa thì chợt thấy người bạn đồng tu là một Lạt ma gyud (vị Lạt ma tốt nghiệp khoa huyền thuật), mà đã nhiều năm qua ông chưa hề gặp lại. Người bạn đồng tu này đứng ngay trước cửa cùng với một trapa trẻ tuổi, đeo một túi vải trên vai, điệu bộ giống như đang chuẩn bị lên đường. Người thanh niên quỳ xuống đảnh lễ vị Lạt ma để giã từ, vị Lạt ma mỉm cười nói vài câu gì đó rồi đưa tay chỉ về hướng Bắc. Vị trapa ngoảnh mặt về hướng đó và quỳ xuống đảnh lễ ba lần. Khi đứng lên, vị trapa cầm cái áo choàng zen, đã bị tụt xuống khi đảnh lễ, khoác lại lên vai. Vị Lạt ma tsipa thấy một vạt áo zen đã bị rách. Sau đó ảnh tượng kia biến mất.

Vài tuần sau, chính người thanh niên kia tìm đến, cho biết vị Lạt ma gyud đã gởi anh ta đến đây để xin học về khoa chiêm tinh.

Vị trapa kia kể lại rằng vào lúc lâm hành, khi đang quỳ xuống đảnh lễ sư phụ - là vị Lạt ma gyud - thì anh ta nghe sư phụ dặn dò: “Giờ đây, con sắp có thêm một sư phụ mới. Con nên đảnh lễ ngài đi”, rồi đưa tay chỉ về hướng bắc, là nơi ở của vị Lạt ma tsipa.

Vị Lạt ma tsipa thấy một vạt áo zen của người môn đồ bị rách, giống như ảnh tượng ông đã thấy trước đó.

Tôi hỏi có phải vị Lạt ma gyud muốn thông báo cho người bạn đồng tu biết mình sắp gởi một đồ đệ đến hay không, nhưng vị Lạt ma tsipa này không trả lời, bởi vì biến cố này vừa mới xảy ra, kể từ khi xảy ra, ông ta chưa có dịp trả lời cho bạn.

Tôi phải nói rằng, người Tây Tạng thường tỏ ra ít nhiệt tình trong việc tìm hiểu những hiện tượng tâm linh, và thái độ này của họ cũng chẳng hề cản trở các công trình nghiên cứu. Đối với họ thì những hiện tượng đó tuy khác thường, nhưng cũng không phải là cái gì quá đỗi dị thường, đến mức khiến những người chứng kiến hay nghe kể lại phải vội vã tìm hiểu một cách nghiêm túc. Trên thực tế, đầu óc họ không bị xáo trộn vì những khái niệm chặt chẽ về quy luật tự nhiên, hay về những điều khả thi hoặc bất khả thi, như người phương Tây.

Phần lớn người Tây Tạng, kẻ trí thức cũng như người thất học, mặc nhiên chấp nhận rằng tất cả đều khả thi đối với những ai biết thích nghi, và do đó, những hiện tượng dị thường, mà họ chứng kiến, chỉ khơi dậy trong họ cảm giác ngưỡng mộ đối với người khéo tạo ra chúng mà thôi. 

 

(1) Bản dịch được thực hiện theo nguyên bản tiếng Pháp Mystiques et Magicciens du Tibet, NXB. PLON, 1929, các trang 236-248. Những ghi chú là của người dịch, trừ ghi chú có ghi (T.g) là của nguyên tác.

(2) Nguyên là chữ rlung, (đọc là lung) vừa có nghĩa là “không khí” vừa có nghĩa là “gió”, đôi khi còn có nghĩa là “hơi thở” nữa. Ta có thể hiểu “rlung gi teng la theo nghĩa “nương theo cánh gió” hoặc “truyền qua không khí”… (T.g).

(3) Người Tây Tạng cưỡi ngựa trên yên gỗ có lót thảm (T.g).

(4) Một loại khăn vải mà người Tây Tạng dùng tặng nhau để bày tỏ thiện chí và lòng tôn trọng (T.g).

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19413)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18526)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16049)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29865)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25458)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21603)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17808)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20819)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26316)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33322)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52140)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22871)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23405)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39639)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21789)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22375)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6835)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22723)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69798)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44003)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23062)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35029)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44087)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42909)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44412)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24906)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24353)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39202)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39227)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17252)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18037)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19259)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35669)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24214)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19585)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20399)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18300)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18996)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18936)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17471)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19315)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30828)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19180)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20522)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19543)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19761)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29817)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17831)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19396)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19875)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58764)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24403)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23512)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39753)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26711)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40758)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22858)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22914)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21585)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18608)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22589)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21078)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19208)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20928)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20324)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30549)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20176)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17460)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16593)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16845)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14952)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14832)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22862)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16038)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16201)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15248)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26099)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17190)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15786)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19767)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17667)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14674)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14730)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19122)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15115)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33043)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17487)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19125)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21814)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23002)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16619)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16465)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16507)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22983)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26377)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12744)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29509)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27709)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25903)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18457)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant