Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thiền Phật giáo

30 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 17279)
Thiền Phật giáo
THIỀN PHẬT GIÁO
Tâm Thái

Hỏi: Tôi nghe thấy nói nhiều về Thiền nhưng không biết các Thiền đó khác nhau thế nào và làm sao phân biệt được Thiền nào của Phật giáo?
Ðáp: Khó mà nói về tất cả loại Thiền vì danh từ này được dùng đến rất nhiều nên đã gây nhiều lẫn lộnhiểu lầm. Ðể giới hạn cho câu chuyện quá dài chúng ta chỉ bàn về Thiền của Phật giáo. Ngoài đạo Phật cũng có nhiều đạo khác có những pháp môn gọi là Thiền hoặc có những hình thức giống như Thiền. Danh từ Thiền có khi được dùng để chỉ cho những hình thức tập trung tư tưởng hoặc để cho tâm định, không tán loạn. Trước thời đức Phật cũng đã có nhiều đạo sĩ Thiền. Ngay trước khi đức Phật đắc đạo, ngài đã có theo học một số tu sĩ Thiền và đã thành công rất nhiều, tới những mức định cao nhất của các môn phái đó như định Phi tưởng phi phi tưởng. Nhưng ngài thấy rằng những môn Thiền đó không đem lại được những điều ngài muốn là đạt đượcgiải thoát, giác ngộ, nên sau đó ngài đến gốc cây bồ đề ngồi Thiền trong 49 ngày và thành đạo. Vì vậy về hình thức tuy có thể gần giống nhau nhưng về mục đích thì Thiền Phật giáo khác hẳn các môn Thiền ngoại đạochúng ta cần phân biệt cho kỹ. Ngoài ra hiện có nhiều môn Thiền cũng dùng những phương pháp và những danh từ của Thiền Phật giáo, nhưng khi coi kỹ mục đích của những môn Thiền đó thì thấy họ chỉ lợi dụng Phật giáo để đưa những người không hiểu vào con đường sai lầm phục vụ những lợi ích cá nhân hoặc chính trị mà thôi. Muốn biết Thiền nào là của Phật giáo thì việc trước hết là coi về hình thức: phái Thiền đó phải có quy y đức Phật Thích Ca và theo đúng con đườngđức Phật chỉ dạy. Có những người tuy dùng những danh từ nghe như của đạo Phật nhưng nhìn kỹ thì thấy họ dẫn dắt theo ngoại đạo.

H: Vai trò của Thiền trong đạo Phật như thế nào ?
Ð:
Thiền là danh từ nói tắt của Thiền na (tiếng Sanskrit: dhyana, tiếng Pali : jhana). Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa... nếu Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí. Tóm lại, Phật giáo chân truyền trước sau vẫn còn nằm trong Thiền, tất cả sự tổ chức giáo lý đều phát xuất từ Thiền, do đó về mặt thực tu cũng như về mặt lý giải Phật pháp, nếu muốn được hoàn toàn, chúng ta không thể không phát kiến cái thỏa đáng tính tối hậu của Thiền." (trích Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận của Kimura Taiken, do hoà thượng Thích Quảng Ðộ dịch). Như vậy đã nói được vai trò quan trọng của Thiền trong đạo Phật.

H: Ngay trong Thiền Phật giáo cũng có nhiều môn phái khác nhau ?
Ð:
Thiền sư Tôn Mật, đời Ðường, chia Thiền làm 5 loại: 1) Thiền ngoại đạo, 2) Thiền phàm phu, 3) Thiền Nguyên thủy (Tiểu thừa), 4) Thiền Ðại thừa và 5) Thiền Như Lai Tối Thượng. Phái Thiền thứ năm đó còn được gọi là Thiền Như Lai Thanh Tịnh, Thiền Tổ Sư, Thiền Ðốn Ngộ, Thiền Ðạt Ma ... mà nay thường gọi là Thiền Tông.

H: Tại sao Thiền Phật giáo lại chia làm nhiều thứ như vậy ?
Ð:
Ðức Phật Thích Ca khi truyền đạo thì tùy căn cơ, trình độ mỗi người mà chỉ cho phương pháp tu tập khác nhau, cũng ví như thầy thuốc chữa bệnh thì tùy bệnh mà cho thuốc như vậy mới có kết quả tốt. Trong đạo Phật thường nói đến Tam Thừa: Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừaBồ Tát thừa. Hai Thừa trên còn được gọi là Nhị thừa, cũng còn gọi là Nguyên thủy, hoặc Nam Tông vì các nước về phía Nam như Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Tích Lan chuyên theo thừa đó. Bồ Tát thừa thường được gọi là Ðại thừa hoặc Bắc Tông, được lan truyền tại các nước miền Bắc như Trung Hoa, Nhật Bản và phần lớn Việt Nam. Ngoài ba Thừa trên, muốn nói cho đầy đủ thì có khi còn kể thêm hai Thừa nữa để chỉ những người tu theo đạo Phật nhưng chưa thấm nhuần sâu xa được lý Ðạo: Nhân thừaThiên thừa. Những người tu theo Nhân thừa chỉ mới tin Ðạo, và mục đích chỉ là gây nhân lành để có quả tốt trong đời này và những đời sauthế gian. Những người tu theo Thiên thừa thì muốn sau này sẽ được sinh tại cõi trời để tránh sự khổ trần gian. Những người tu theo hai Thừa đó, vì còn ở trong vòng mê nên gọi là phàm phu, phàm tức là chưa phải bậc thánh chứ không có nghĩa xấu theo như ta thường dùngthô tục, thấp kém. Pháp Thiền phàm phu vì vậy chỉ có mục đích giúp cho tâm khỏi tán loạn để giữ cho thân, miệng, ý tránh làm những điều xấu, nhưng chưa theo hoàn toàn được mục đích của đạo Phật. Như vậy thực sự Thiền Phật giáo chỉ bao gồm các Thiền Nguyên thủy, Thiền Ðại thừa và Thiền Tông.

 H: Thế nào là Thiền Nguyên thủy ?
Ð
: Thiền Nam Tông, tức Nguyên thủy, được chỉ dẫn trong các kinh tạng Nam Tông. Tuy nhiều phương pháp nhưng về thực hành thì có thể kể hai pháp thịnh hành nhất là: Anapanasati (niệm hơi thở) và Vipassana (quán, minh sát). Do lời giảng của hoà thượng Thích Minh Châu thì pháp môn Anapanasati được chỉ dạy trong kinh "Một pháp" nằm trong bộ kinh "Tương Ưng". Pháp này gồm việc dùng niệm theo d i hơi thở vô, hơi thở ra, thí dụ

"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô, quán vô thường tôi sẽ thở ra 
Quán ly tham, tôi sẽ thở vô, quán ly tham tôi sẽ thở ra ... "

Pháp môn này thuộc về pháp môn Tứ Niệm Xứ, tức bốn chỗ (xứ) để an trú niệm là: thân, thọ, tâm và pháp. Theo hoà thượng Thích Minh Châu thì ích lợi của Anapanasati vừa để định tâm cho tâm khỏi giao động (thường được gọi là Chỉ hoặc Ðịnh), vừa phát triển quán sát, suy tư (gọi là Quán hoặc Huệ). Ích lợi của pháp Thiền này là làm cho "thân tâm nhẹ nhàng, phấn khởi, hoan hỷ, vui vẻ, ít bệnh, ít phiền não". Còn đường lối của Vipassana là chú niệm về ngũ uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức, là năm thành phần về thân và tâm cấu tạo nên con người. Chú niệm vào ngũ uẩn để thấy rõ thực tướng của chúng và như vậy không còn bám níu, chạy theo đó nữa. Phương pháp "chú niệm" đây có nghĩa là quán sát một cách liên tụcchuyên chú. Ðặc điểm của phương pháp này là trong khi chú ý quán sát nhưng vẫn giữ một tâm trống lặng, tức không có khởi phân biệt, xét đoán, giải thích những điều quan sát đó. Ðể giữ cho tâm trống lặng chúng ta cần phải dẹp hết những khái niệm, thành kiến, có như vậy mới quán sát sự vật một cách trung trực được. Vipassana áp dụng một cách sâu xa kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana Sutra), thường được coi là kinh chánh yếu của Thiền Nam Tông.

 H: Thiền Ðại thừa như thế nào ?
Ð:
Nói Thiền Ðại thừa tức nói đến những pháp Thiền có ghi trong các kinh điển Ðại thừa. Khác với Thiền Nguyên thủy thường được tả rất rõ ràng, chi tiết, các kinh điển Ðại thừa tuy có chỉ những phương pháp tu nhưng không có hệ thống rõ ràng như hai pháp Thiền nói trên. Về phương pháp cũng vẫn là hai phương pháp chính là Chỉ và Quán. Tuy danh từ giống nhau, nhưng theo hòa thượng Thích Thiện Hoa "Trong kinh này (kinh Viên Giác) nói Chỉ, Quán không đồng lối Chỉ, Quán của Nguyên thủy, vì lối Chỉ, Quán của Nguyên thủy là phải dùng phương tiện bên ngoài để tu. Còn lối Chỉ, Quán của Ðại thừa là xứng theo bản thể của Chân tâmChỉ và Quán". Trong kinh Viên Giác, đức Phật còn chỉ thêm pháp thứ ba là Thiền Na, pháp này không theo hẳn Chỉ hoặc Quán mà y theo tâm Viên giác thanh tịnh (một danh từ chỉ Phật tánh) mà tu. Kinh này nói rõ phương tiện tu tuy có nhiều nhưng không ngoài ba pháp đó, và có thể phối hợp ba pháp đó, bằng cách tu riêng một pháp, hoặc hai pháp, hoặc cả ba pháp cùng lúc, tất cả thành 25 pháp tu. Nhiều kinh lại kể những pháp Quán riêng biệt: Kinh Lăng Nghiêm kể kinh nghiệm của nhiều vị Bồ tát về những đề tài quán khác nhau, như quán về tứ đại (đất, nước, gió, lửa), 18 giới (6 căn, 6 trần, 6 thức). Mỗi Bồ tát quán theo một trong những đề tài đó và đều đắc đạo. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói :"A Nan, tất cả những người tu tâm trong thế gian, không nhờ Thiền Na thì không có trí tuệ." (quyển 9, đoạn 2). Tu theo Bồ Tát hạnh, là tu theo Lục Ðộ Ba La Mật, mà Thiền Ðịnh và Trí Huệ là hai điều căn bản và quan trọng nhất. Cho nên nói tu Ðại thừa, tức Bồ tát thừa, mà không tu Thiền là một điều thiếu sót đáng kể.

 H: Còn Thiền Tông khác với hai môn Thiền trên như thế nào ? 
Ð:
Thiền Tông được khởi đầu từ hội Linh Sơn, khi đức Phật truyền cho ngài Ma Ha Ca Diếp:"Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi". Tổ Ma Ha Ca Diếp là vị Tổ thứ nhất Thiền Tông. Cho đến Tổ thứ 28 là Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma (?-532) thì ngài qua Trung Hoa để truyền đạo nên thường được coi là Tổ thứ nhất tại Trung Hoa. Ðặc điểm của Thiền Tông nằm gọn trong bốn câu của Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma: Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật. (được dịch là: Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật). Ðặc điểm của Thiền Tông chính là điểm "thấy Tánh", có hiểu được điều này mới hiểu được mục đíchphương pháp của Thiền Tông. Chữ Tánh đây không có nghĩa là tánh tình mà ta thường dùng, cũng không phải là tánh chất. Việc định nghĩa chữ này là một việc không nên làm và thực ra là không thể làm được, tuy vậy mà vẫn cần làm vì đó là trọng tâm của Thiền Tông. Nói một cách đơn giản thì Tánh đây là bản thể của chúng ta, của vũ trụ, cái bản thể đó không sinh, không diệt, không thay đổi như phần thể chất và phần tinh thần của chúng ta. Nghe thật là dản dị nhưng ngày nào chúng ta hiểu được điều đó thì được coi là người đã ngộ đạo, để đi đến con đường thành Phật.

 H: Như vậy Tánh là gì, nếu nói "thấy Tánh thành Phật" mà không chỉ rõ được Tánh là gì thì làm sao mà tu ? Tại sao Thiền Tông chỉ nói tới thấy Tánh mà không nói tu hành thế nào?
Ð:
Trong kinh điển Ðại thừa đức Phật nhiều lần đã nói tới Tánh, nhưng tùy trường hợp đã dùng những danh từ khác nhau như: Phật Tánh, Chân Tâm, Chân Như, Bồ Ðề, Tri Kiến Phật, Niết Bàn, Pháp Giới, Tâm Ðịa, Như Như, Tự Tâm Hiện Lượng ... Muốn diễn tả được cái tuyệt đối, ngoài vòng đối đãi, phân biệt, so sánh thì thật là khó. Những danh từ đặt ra chỉ là tạm thời, tùy trường hợpgiảng giải thôi, chứ không có cách nào để diễn tả cho rõ được. Thiền Tông cũng vậy, có khác là dùng những danh từ rất thông thường, hoặc là chỉ bằng cách yên lặng, không nói gì, giống như ông Duy Ma Cật đã trả lời Bồ tát Văn Thù Sư Lợi khi được hỏi về pháp môn Bất Nhị. Thiền Tông không dùng những danh từ cao xa, huyền bí để tránh những khái niệm, lý luận khó hiểu hoặc không thực tế. Vì vậy về danh từ để chỉ cái bản thể đó thì Thiền Tông dùng những danh từ rất bình thường như: bát không đáy, thùng sơn lủng đáy, đờn không giây, cây không rễ ... Thiền Tông giúp chúng ta nhìn thẳng vào đời sống hiện tại, nhìn thẳng vào tâm mình để tự tìm thấy chân lý. Những lời Phật dạy chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, chúng ta nương theo ngón tay đó mà nhìn lên thì mới thấy mặt trăng, chứ chỉ nhìn ngón tay mà cho đó là mặt trăng thì chẳng bao giờ thành đạo. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật nói Phật Thích Ca, cũng như tất cả chư Phật khác, ra đời chỉ có mục đích quan trọng là chỉ cho chúng ta thấy mỗi người đều có Tri kiến Phật (cái thấy biết giác ngộ). Thiền Tông nhận rõ và lấy điều đó làm cứu cánh cho đường lối tu hành. Thiền Tông chỉ tin ở Tánh, tức Chân Tâm, ngoài cái đó ra không có gì khác để đưa đến con đường giác ngộ. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói rõ muốn đạt quả vô vi thì phải dùng nhân vô vi, nhân nào đi với quả đó, không thể tu theo pháp hữu vi mà mong đạt đạo vô vi. Cũng theo đúng đường lối đó nên tổ Hoàng Bá (?-850) đã chỉ dạy: "người học đạo đời nay chẳng thấy tâm thể này (chân tâm), cứ ở nơi tâm sanh tâm (vọng tâm), hướng bên ngoài cầu Phật, chấp theo tướng để tu hành, đều là pháp tà, chẳng phải đạo bồ đề".

H: Nhiều pháp Thiền như vậy thì biết nên theo pháp nào ?
Ð
: Trong đạo Phật khó có thể nói pháp nào hay hơn pháp nào. Mỗi người có một khả năng khác nhau nên cần biết pháp nào thích hợp với người nào. Nếu muốn tu tập cho có kết quả thì cần phải biết rõ khả năng, căn cơ của mình trước, và sau đó cần tìm hiểu đạo cho kỹ thì mới có thể chọn lựa con đường thích hợp. Muốn tìm học và hiểu thì cần có các thầy, bạn, kinh điển, sách vở, băng thâu thanh ... Một vị thầy chân chánh phải là một vị giảng rõ cho người học trò biết những pháp tu của đạo để người đó hiểu rõ và cần tìm biết khả năng của người đó trước khi hướng dẫn họ hoặc để họ tự quyết định. Nhiều người đã tu theo một pháp môn rồi thì gặp ai cũng quả quyết là phải theo pháp môn đó mới là đúng, chứ không chịu xem xét kỹ người đó khả năng, thích hợp ra sao. Kết quả là sau một thời gian người đó thấy không hợp và chán nản hoặc bỏ cuộc. Vì vậy việc giảng giải cũng như việc tìm hiểu các pháp môn là điều cần thiết để giúp chúng ta tránh những người lợi dụng danh nghĩa đạo Phật, danh nghĩa Thiền để đưa chúng ta vào đường sai lầm.

Source: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
03 Tháng Hai 201208:00
Khách
Thành thật nhận định tôi thấy bài này tuy nói nhiều về thiền Phật giáo nhưng có vẻ chưa nhấn mạnh về tinh thần trí tuệ để soi sáng bãn ngã như bài THIỀN VÀ CHÁNH NIỆM của GS001. Qúi độc giả nên đọc thêm bài của GS001.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11332)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10424)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10685)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9654)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9447)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12796)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13159)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13344)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19685)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12414)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13137)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13454)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12928)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12283)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18440)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10584)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12283)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10879)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11094)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14568)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22332)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11500)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10072)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34412)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17573)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32530)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 21967)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11118)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17416)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17002)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10606)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10774)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9473)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10535)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10554)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10471)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12383)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12342)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9922)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13103)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9639)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9047)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11736)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13365)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 11965)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11201)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11510)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10242)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10159)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28056)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10718)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7334)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9256)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11690)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11584)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10998)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10201)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10162)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13707)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14792)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10407)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11793)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10759)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10425)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10521)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9798)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10553)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9187)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9861)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10082)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10386)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10517)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10434)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10001)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9723)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13401)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16186)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11448)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11035)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11002)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12105)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15223)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10503)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11616)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10494)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 10993)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 9932)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10279)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11332)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10895)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12790)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24117)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12508)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10205)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28372)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19219)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10818)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23111)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant