Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền và chánh niệm

05 Tháng Hai 201200:00(Xem: 37712)
Thiền và chánh niệm
THIỀN và CHÁNH NIỆM
GS001

blankNói đến Thiền người ta thường nghĩ đến một cách tu của Phật giáo, như hình ảnh ngồi xếp bàn, yên tĩnh của các nhà sư. Gần đây Thiền đã trở nên một vấn đề phổ biến trong dân gian. Người ta thấy có thiền Yoga, thiền xuất hồn của ông Lương sĩ Hằng, thiền Quán Âm của Sư Cô Thanh Hải, v.v., rồi chính ngay trong đạo Phật người Phật tử cũng phân vân với vô số phương pháp thiền: Thiền công án, Tổ sư thiền, Như Lai thiền, Thiền Minh Sát, Thiền với nhiều đề mục khác nhau. Kinh Lăng Nghiêm có bàn đến thiền với đề mục Quán Âm nhưng khác với thiền Quán Âm của Cô Thanh Hải như thế nào?

Bài viết này không có tham vọng tả rõ hết tất cả các phương pháp thiền nhưng chỉ xác định lại ý nghĩamục đích của Thiền căn cứ trên phương cách tu hành của đức Phật đã được ghi lại trong Tam Tạng Kinh điển. Nắm vững được tinh thần này người Phật tử tự nhiên sẽ thấy sự khác biệt như thế nào giữa Thiền Đạo Phật, mà trong bài này gọi là THIỀN TRÍ TUỆ, với tất cả các loại Thiền khác, mà trong bài này gọi là THIỀN THAM ÁI. Thấy rõ sự khác biệt này sẽ hữu ích cho người Phật tử để thực hành đúng CHÁNH ĐỊNH, CHÁNH TINH TẤN, để không đi lạc đạo quá xa trong lúc tu Thiền.

Cũng như trong các ngành khoa học, Y Khoa, Vật Lý, hoặc Hóa Học, một sinh viên muốn thấu triệt ngành học của mình không những chỉ học phần lý thuyết mà còn phải thực tập trong phòng thí nghiệm để chứng nghiệm những gì đã học, hoặc để khám phá thêm những phát minh mới. Người Phật tử học Phật cũng gần như vậy, không thể chỉ tu TỊNH ĐỘ tụng kinh mà còn phải thực hành THIỀN để thực nghiệm chân lý. Thật là thiếu sót khi phân chia tông phái để rồi chỉ chọn một trong hai, hoặc TỊNH ĐỘ (tụng kinh) hoặc THIỀN (bất lập văn tự, kiến tánh thành Phật). Người tu Phật phải đi qua trọn vẹn cả 3 pháp: Pháp Học phải đầy đủ, để Pháp Hành khỏi đi lạc, và rồi để đi đến Pháp Thành là lúc để hoàn tất sự giải thoát.

Học Kinh sách để có đầy đủ những CHÁNH KIẾNĐức Phật đã khám phá, để học thêm những kinh nghiệm tu hành của Đức Phật. Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp. Tinh thần của Thiền là tinh thần của Khoa Học Thực Nghiệm. Là tìm kiếm lời giải đáp cho những thắc mắc về chính mình bằng cách khảo sát, nghiên cứu tìm hiểu cái TA của chính mình. Cũng từ những thắc mắc như thế mà đức Phật đã Giác Ngộ được Đạo. Ngày thành đạo, ngài đã kể lại công trình nghiên cứu đó như sau:

Xuyên qua bao vạn kiếp
Như Lai đi kiếm ông thợ xây cửa dựng nhà
Như Lai đi thênh thang mà không gặp
Hôm nay Như Lai đã kiếm thấy ngươi
Từ nay ngươi không còn xây nhà cho Như Lai nữa
 Kinh Pháp cú 153.

Các vị Bồ Tát cũng thực hành Thiền quán với tinh thần khoa học tương tự như vậy. Trong kinh Lăng Nghiêm, ta thấy Bồ Tát Quán Âm chẳng khác gì là một khoa học gia chuyên môn nghiên cứu về sự nghe. Phương pháp quán của ngài là quán vào CĂN của SỰ NGHE (Nhĩ căn viên thông). Có nghĩa là tìm hiểu “gốc cội”, lý do tại làm sao mà ta nghe được. Tương tự như vậy Bồ Tát Di Lặc là một khoa học gia nghiên cứu về CĂN của Ý tức là “gốc cội” của Tư Tưởng, từ đâu mà đến. Có thắc mắc như thế ta mới có thể đi xa hơn những gì mà khoa học ngày hôm nay đã tìm thấy. Ví dụ: với khoa học sự nghe là do Màng Nhĩ của Tai, do Âm thanh. Sự thấy là do Mắt do Ánh Sáng, v.v. Nhưng trong giấc mơ dầu mắt nhắm, dầu không có âm thanh, hay ánh sáng ta vẫn có sự nghe, sự thấy.

Đạo Phật thật chẳng khác gì một khoa học đi tìm kiếm SỰ THẬT, tìm hiểu gốc cội của mọi vấn đề, nhất là NGUỒN GỐC CỦA SỰ KHỔ. GIÁC NGỘ là khi lời giải cho bài toán KHỔ đã được tìm ra và có thể trình bày lại được cho chúng sanh theo. Chứ không phải tuyên bố “Hoát nhiên đại ngộ” rồi vẫn “câm miệng hến” như nhiều ông Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Người Phật tử thực hành Thiền quán là để phát triển Trí Tuệ hiểu biết về TA và về sự KHỔ, chứ không phải để đạt được những tham ái của bãn ngã. Ai thực hành thiền mà để hoàn thiện bản ngã thì vẫn kể như còn ở trình độ THIỀN THAM ÁI của “Ngoại Đạo”, tức chưa phải là THIỀN TRÍ TUỆ của Phật.

Trong tinh thần THIỀN TRÍ TUỆ của Phật, chừng nào mà sự thật về TA và về nguyên nhân sự KHỔ chưa được chứng thực thì hành giả vẫn chưa gọi là GIÁC NGỘ. Nếu khôngtinh thần Trí Tuệ như vậy thì tâm THAM ÁI sẽ rất dễ “CHẠY THEO TRẦN CẢNH” với các hiện tượng tâm vật lý của thiền. Rất nhiều hành giả đã bị “kẹt” vào những “âm thanh vi diệu” với pháp Thiền Quán Âm của Cô Thanh Hải. Rất nhiều hành giả sau khi bị rơi vào những “feeling giải thoát” (kể cả feeling vô ngã) đã tuyên bố “Tôi đã Giác Ngộ”. Phải biết rằng những gì còn ở trình độ “CẢM THỌ” (feeling) thì vẫn còn ở trình độ NGŨ UẨN, vẫn còn trình độ của “PHÁP HỮU VI”, vô thường, tạm bợ, không phải là sự giải thoát chân thật và bền chắc. Những “feeling tuyệt vời” đó kinh Lăng Nghiêm gọi là “Ngũ Ấm Ma” vì nó khi hiện khi mất.

Khi hành thiền, hành giả phải quán sát chính TA với tâm rất KHÁCH QUAN chẳng khác gì các khoa học gia trong phòng thí nghiệm, không phê phán (Vọng hoặc Chơn), không chọn lựa. Đó là lý do trong kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật đã dạy: “Thấy tâm Tham nổi lên, biết tâm Tham nổi lên, thấy tâm Sân nổi lên biết tâm Sân nổi lên... Khi thở ra hơi dài biết thở ra hơi dài, khi thở ra hơi ngắn biết thở ra hơi ngắn, khi sắp thở ra biết sắp thở ra, khi sắp hít vô, biết sắp hít vô”. Nói như thế cũng phải hiểu rằng nếu có “tâm phê phán” hay “tâm chọn lựa” nổi lên thì cũng vẫn “TUỆ TRI” các tâm đó đang nổi lên một cách khách quan với sự giác biết thanh tịnh.

Quán sát khách quan như vậy để làm gì? -Để cho THAM ÁI không dự phần, để cho NGÃ tánh không phát triển, để mới có thể khám phá ra được sự thật VÔ NGÃ: Ta không phải SẮC, ta không phải THỌ, ta không phải TƯỞNG, ta không phải HÀNH, ta không phải THỨC (ngủ uẩn giai không), TA không phải bất cứ cái CÓ nào cả, TA KHÔNG THỰC SỰ HIỆN HỮU. Chứng nghiệm được cái “KHÔNG TÁNH” của ta đó là sự chứng nghiệm “SẮC TỨC THỊ KHÔNG”. “KHÔNG TỨC THỊ SẮC” của BÁT NHÃ. Đó cũng là để hoàn toàn ra khỏi NGÃ, ÁI, THỦ, HỮU, ra khỏi mọi khổ đau ách nạn. Đó cũng là chứng nghiệm được những gì mà Đức Phật đã dạy ở trong Tiểu Bộ Kinh:

“Này các Tỷ-kheo, có sự không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi.
Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi.
Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có sự trình bày xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi.”

Như vậy THIỀN là để Phát Triển TRÍ TUỆ VÔ NGÃ. Có nghĩa rằng phải thấy rõ THỰC TƯỚNG của chính ta. “CÓ SAO THẤY VẬY” không bắt ta phải VÔ NIỆM, kềm kẹp TRI KIẾN, hoặc ỨC CHẾ TÂM gì cả. Những phương cách thiền nào nhằm mục đích để cho NGÃ của ta được hay hơn, tốt đẹp hơn, nhiều khả năng hơn, sung sướng hơn, an vui hơn, thanh tịnh hơn, v.v. thì còn chưa ra ngoài lãnh vực THAM ÁICHẤP NGÃ nên sẽ không thể khám phá được sự thật VÔ NGÃ. Sau khi sự thật VÔ NGÃ đã được khám phá thì trong TRÍ TUỆ VÔ NGÃ dầu ngũ uẩn này còn bấn loạn, còn lo, còn buồn, còn khổ gì đi nữa, đó vẫn chỉ là các pháp hữu vi, “DO DUYÊN SINH”, không phải do ta, không phải là của ta. Cho nên vẫn giải thoátNIẾT BÀN được thực chứng ngay trong KHỔ mới thực sự là NIẾT BÀN. Nếu đòi hỏi KHỔ phải biến mất thì NIẾT BÀN đó không phải là NIẾT BÀN thật. (vì hễ còn có điều kiện, thì sẽ không bền vững).

GIỮ GÌN CHÁNH NIỆM

Rất nhiều người hiểu hạn hẹp chữ CHÁNH của Phật theo nghĩa THIỆN. Có thầy dạy giữ gìn Chánh Niệm trong khi ăn bằng cách quán tưởng đến công ơn của các bác nông phu cày cấy. Nhưng đối với tinh thần của TỨ NIỆM XỨ, quán niệm như vậy là VỌNG NIỆM, vì đã đi ra khỏi sự theo dõi chính mình. Chánh Niệm trong khi ăn là theo dõi sự ăn để tìm hiểu tại sao ta phải ăn? Tại sao ta khổ vì đói? Chữ CHÁNH trong đạo Phật có nghĩa là hướng đúng về mục tiêu NIẾT BÀN (lúc khổ được tận diệt). Làm chệch ra khỏi hướng đó thì là TÀ (trật). Vì sự KHỔ chỉ hoàn toàn chấm dứt khi sự thật VÔ NGÃ được chứng nghiệm, cho nên CHÁNH cũng là hướng về sự phát triển TRÍ TUỆ VÔ NGÃ.

CHÁNH NIỆM luôn luôn “tâm niệm” (mindfulness) khách quan khảo sát chính ta. Bất chấp nó tốt hay xấu, bất chấp nó khổ hay vui, bất chấp nó thiện hay ác. Sự khảo sát này có 2 tính chất chính: LIÊN TỤCKHÁCH QUAN. Ví dụ, khi tâm tinh tấn tu hành, biết tâm đang có sự tinh tấn. Khi tâm chán nản, biết tâm đang chán nản. Nếu tâm tinh tấn chống cự, biết tâm đang tinh tấn chống cự, nếu tâm có khuynh hướng chịu thua, biết tâm muốn chịu thua. Dầu thế nào đi nữa, phải Luôn Luôn KHÁCH QUAN nhận rõ những gì đang xảy ra. Như thế, thì vẫn ở trong CHÁNH NIỆM. Duy trì tâm khách quan như thế để sẽ thấy rõ NHÂN DUYÊN sinh khởi của các NGŨ UẨN, để từ đó chứng thực sự thật VÔ NGÃ. Đạo Phật là để hết Khổ, không phải để làm cho TA hay hơn hoặc tốt hơn. Hay hơn hoặc Tốt hơn mà còn Ngã chấp, còn chấp thủ ngũ uẫn, thì vẫn còn khổ như thường.

 

Bài viết liên quan đến chủ đề (nên đọc thêm):

Chương 13: Chánh Niệm (Sati) trích từ:
CHÁNH NIỆM CƠ BẢN
Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình
CHÍNH NIỆM - THỰC TẬP THIỀN QUÁN Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM - Bhante Henepola Gunaratana - Chuyển Ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh
SỰ QUAN TRỌNG CỦA CHÁNH NIỆM KINH ĐẠI NIỆM XỨ - Thiền Sư U Silananda - Nita Truitner dịch Việt
THIỀN PHẬT GIÁO Tâm Thái

Source: thuvienhoasen
Ý kiến bạn đọc
06 Tháng Hai 201208:00
Khách
Tôi xin post lại phần bị đứt đuôi.

NGOHOAIKHONG: để thấy vạn pháp là không (không phải vạn pháp là không có mà không thực có) từ đó người ta dễ buông bỏ (ví dụ có ai đựa bạn một xấp tiền giả bảo bạn lấy bạn chắc chắn không lấy) nếu có cái nhìn thấy vạn pháp không thực giống như bạn thấy xấp tiền giả không thực thì bạn tự buông xả pháp, khi có cái thấy vậy là chứng đạo.

GS001: Nói như vậy thì ai nói cũng được, bằng chứng là vô số dân thiền tông lặp đi lặp lại những câu như vậy. Thế nhưng nếu ai hỏi làm sao chứng được như vậy thì câu trả lời là một sự MƠ HỒ! là một sự MÔNG LUNG! Để rồi bị ngoại đạo kết luận cho rằng Đạo Phật chỉ là môn TỰ KỶ ÁM THỊ, luyện tâm, luyện đức tin, chẳng khác gì tin GOD là có thật. Vô tình đã làm cho Đạo Phật bị xấu hổ.

Đạo của Phật không như vậy. Đạo của PHẬT rất KHOA HỌC, có phương pháp rõ ràng để chứng nghiệm đàng hoàng. Trước hết PHẬT dạy cho cái định đề: "CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH". Cái định đề đó có thể chứng minh đúng trong mọi trường hợp. Không có pháp náo sinh ra mà không do các nhân duyên đã hội đủ. Mưa nắng cũng như vậy, pháp thiện pháp ác đều như vậy. Không ngoại đạo nào có thể phản chứng được đình đề đó.

Xong rồi, PHẬT lại dạy thêm cho pháp thực hành CHÁNH NIỆM: TỨ NIỆM XỨ để thực nghiệm tánh DUYÊN SINH trên chính ta. Khi PHẬT đã xác minh pháp CHÁNH NIỆM, TỨ NIỆM XỨ, là "CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT đi đến NIẾT BÀN", thì có nghĩa là không có con đường VÔ NIỆM vô néo nào khác có thể đi tới NIẾT BÀN cả. Không lẻ mấy ông tổ TQ hay hơn PHẬT? Biết nhiều hơn PHẬT?

Nhưng thực hành CHÁNH NIỆM là làm sao?

-- Là khảo sát chính ta như một khoa học gia khảo sát các đề mục cần tìm hiểu ở trong phòng thí nghiệm. Khảo sát một cách khách quan tất cả các thành phần THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Khảo sát tất cả các ngủ uẩn: SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC để chứng nghiệm cái lý thuyết DUYÊN KHỞI mà PHẬT đã dạy: "CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH". Khi sự thật đó đã được chứng nghiệm trên tất cả ngủ uẩn, đã thấy rõ tất cả mọi thành phần hợp nên cái bãn ngã của ta không phải "do ta", không phải là "của ta", không phải "là ta" thì tự nhiên "Thực nghiệm" được VÔ NGÃ trên chính ta, thực nghiệm được cái KHÔNG TÁNH trên chính ta, và sau đó sẽ chứng ngộ luôn cái KHÔNG TÁNH của vạn pháp. Vì vạn pháp đều do cái KHÔNG TÁNH của TA mà thấy.
06 Tháng Hai 201208:00
Khách
NGOHOAIKHONG: “khổ,vô thường,vô ngã” chưa phải là cứu cánh vì cái thấy này chưa đem đến sự từ bỏ một cách mạnh mẽ do còn thấy vạn pháp là thực có

GS001: Thưa bạn, khi thấy các pháp VÔ NGÃ, cái bàn không phải là cái bàn (vì cái "bàn" làm thành bởi toàn những thứ "không bàn"), tức là đã thấy KHÔNG TÁNH của vạn pháp, tức là đã thấy các pháp vừa SẮC vừa KHÔNG.


NGOHOAIKHONG: (nếu vạn pháp chỉ là vô thường nghĩa là nó thường tại hiện tại trong một sát na)

GS001: Như một chiếc xe đang chạy, bánh vẫn không ngừng lăn, máy vẫn không ngừng nổ, bạn có nghĩ là xe ngừng trong một sát na nào không? Dĩ nhiên là không. Khi các pháp VÔ THƯỜNG cũng vậy, không có một sát na nào thường tại hết cả. Bằng chứng là các electrons của các nguyên tử vật chất vẫn luôn luôn bay vùn vụt, không ngừng lại một sát na nào cả.


NGOHOAIKHONG: do dó Phật mới nói tính Không (cái không hàm chứa đầy ắp khác với cái không đối đãi giữa có và không)

GS001: TÁNH KHÔNG chính là VÔ NGÃ. Nhưng PHẬT đã không dùng danh từ "TÁNH KHÔNG" vì biết chúng sanh có ÁI HỮU mà cũng có ÁI KHÔNG. Cả hai thứ ái đều làm khổ chúng sanh. Vã lại trong tinh thần BÁT NHÃ: Không những "SẮC tức thị KHÔNG" và còn "KHÔNG tức thị SẮC". Thấy được cả hai như vậy mới là VIÊN GIÁC tròn đầy. Chứ nếu chỉ thấy "SẮC tức thị KHÔNG", vạn thứ đều KHÔNG, thì không khế hợp với thế gian.

Trong khi tất cả Phật tử chúng ta vẫn còn ăn "CƠM" mà không ăn "CÁT", nếu cứ quảng cáo "SẮC tức thị KHÔNG" thì chỉ làm trò cười cho ngoại đạo. Họ sẽ cho đạo Phật của ta chỉ là một thứ "TỰ KỶ ÁM THỊ" bắt ép tư tưởng nghĩ vậy mà thôi. Chứ thực tế không sống như vậy. Cho nên đạo trí tuệ BÁT NHÃ là phải chứng tròn đầy thêm "KHÔNG tức thị SẮC", thấy các pháp vừa KHÔNG vừa CÓ, thấy các pháp vừa HƯ vừa THẬT. Có như vậy mới dung thông với thế gian. Có như vậy mới dung thông cả LÝ cùng SỰ. Dung thông cả đạo lẫn đời,


NGOHOAIKHONG: để thấy vạn pháp là không (không phải vạn pháp là không có mà không thực có) từ đó người ta dễ buông bỏ (ví dụ có ai đựa bạn một xấp tiền giả bảo bạn lấy bạn chắc chắn không lấy) nếu có cái nhìn thấy vạn pháp không thực giống như bạn thấy xấp tiền giả không thực thì bạn tự buông xả pháp, khi có cái thấy vậy là chứng đạo.

GS001: Nói như vậy thì ai nói cũng được, bằng chứng là vô số dân thiền tông lặp đi lặp lại những câu như vậy. Thế nhưng nếu ai hỏi làm sao chứng được như vậy thì câu trả lời là một sự MƠ HỒ! là một sự MÔNG LUNG! Để rồi bị ngoại đạo kết luận cho rằng Đạo Phật chỉ là môn TỰ KỶ ÁM THỊ, luyện tâm, luyện đức tin, chẳng khác gì tin GOD là có thật. Vô tình đã làm cho Đạo Phật bị xấu hổ.

Đạo của Phật không như vậy. Đạo của PHẬT rất KHOA HỌC, có phương pháp rõ ràng để chứng nghiệm đàng hoàng. Trước hết PHẬT dạy cho cái định đề: "CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH". Cái định đề đó có thể chứng minh đúng trong mọi trường hợp. Không có pháp náo sinh ra mà không do các nhân duyên đã hội đủ. Mưa nắng cũng như vậy, pháp thiện pháp ác đều như vậy. Không ngoại đạo nào có thể phản chứng được đình đề đó.

Xong rồi, PHẬT lại dạy thêm cho pháp thực hành CHÁNH NIỆM: TỨ NIỆM XỨ để thực nghiệm tánh DUYÊN SINH trên chính ta. Khi PHẬT đã xác minh pháp CHÁNH NIỆM, TỨ NIỆM XỨ, là "CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT đi đến NIẾT BÀN", thì có nghĩa là không có con đường VÔ NIỆM vô néo nào khác có thể đi tới NIẾT BÀN cả. Không lẻ mấy ông tổ TQ hay hơn PHẬT? Biết nhiều hơn PHẬT?

Nhưng thực hành CHÁNH NIỆM là làm sao?

-- Là khảo sát chính ta như một khoa học gia khảo sát các đề mục cần tìm hiểu ở trong phòng thí nghiệm. Khảo sát một cách khách quan tất cả các thành phần THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Khảo sát tất cả các ngủ uẩn: SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC để chứng nghiệm cái lý thuyết DUYÊN KHỞI mà PHẬT đã dạy: "CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH". Khi sự thật đó đã được chứng nghiệm trên tất cả ngủ uẩn, đã thấy rõ tất cả mọi thành phần hợp nên cái bãn ngã của ta không phải "do ta", không phải là "của ta", không phải "là ta" thì tự
09 Tháng Hai 201208:00
Khách
Xin post laij phần bị đứt đuôi:

3) Ông ta tuyên bố: "nó không tuân theo một quy luật phổ biến nào của luận lý học cả". Nhưng ông ta chưa chứng BÁT NHÃ thì làm sao ông biết là nó không theo một quy luật nào của luận lý? Nếu không cần một luận lý nào thì không lẻ CHÁNH TƯ DUY trong BÁT CHÁNH ĐẠO của PHẬT là dư thừa? Nếu BÁT CHÁNH ĐẠO không cần có đầy đủ với CHÁNH TƯ DUY thì tại sao PHẬT lại tuyên bố rằng:

" Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhứt Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong Pháp và Luật này có Bát Thánh Ðạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán."

(Trích từ Trường Bộ Kinh, Phẩm 16-Kinh Đại Bát Niết Bàn)
http://www.budsas.org/uni/u-kinh-truongbo/truong16.htm

Trên kinh nghiệm tu hành của chính bản thân tôi, sau khi tôi đã thu thập nhiều CHÁNH KIẾN từ kinh tạng của PHẬT để làm vốn liếng kiến thức, tôi cũng đã vận dụng CHÁNH TƯ DUY rât nhiều không thua gì trong TOÁN và KHOA HỌC. Nhờ như thế tôi mới có thể chứng thực được những điều sâu sắc trong những lời PHẬT dạy. Kkhông những tư duy trong khi đi đứng nằm ngồi, mà ngay lúc ở sâu trong Thiền Định và Thiền Quán vẫn có sự vừa quan sát vừa tư duy. Có như thế mới gọi là "HÀNH THÂM BÁT NHÃ". Nhờ đó tôi mới biết CHÁNH TƯ DUY là không thể thiếu trong sự chứng đạo, ngộ đạo.

4) Ông ta bảo: "Bởi vì khi Bát-nhã đảm nhận vai trò chủ thể nhận ra chính mình một cách bất ngờ, như là một PHÉP LẠ." À há! chứng đạo của ông ta là một sự "chờ sung rụng!" cứ VÔ NIỆM chờ rồi thình lình xảy ra? Khi ông ta tuyên bố như thế là ông ta đã mất cái trí tuệ căn bản nhất của một người con Phật. Trong ĐẠO PHẬT cũng như trong KHOA HỌC, không hề có chuyện PHÉP LẠ Mọi sự kiện đều xảy ra theo LUẬT NHÂN QUẢ. Ngài Xá Lợi Phất chỉ nhờ nghe được câu nói: "CÁC PHÁP DO DUYÊN SINH" mà đã từ bỏ các PHÉP LẠ của GOD Bà La Môn để theo Phật. PHÉP LẠ là ý tưởng của những kẻ chưa thấy vấn đề và còn VÔ MINH.

Trong đạo Phật cũng như trong khoa học, ai biết rõ do NHÂN nào, do DUYÊN nào thì có thể tạo ra được QUẢ, trăm lần như một. Bởi thế chư PHẬT, chư BỒ TÁT, chư vị A LA HÁN đều cùng chứng TỨ DIỆU ĐẾ, BÁT CHÁNH ĐẠO như nhau. Hễ đi đúng con đường đạo, CHÁNH PHÁP, thì sẽ cùng đến một đích như nhau, không có một PHÉP LẠ nào cả. Ai thực hành nghiêm túc TỨ NIỆM XỨ để hiểu rõ THÂN và TÂM của chính mình, thì từ 7 năm cho đến 7 ngày, đều có thể chứng đạo (đạt được quả vị CHÁNH TRÍ). Phật đã khẳng định rõ như thế ở trong kinh TỨ NIỆM XỨ.

(còn tiếp)
09 Tháng Hai 201208:00
Khách
RIGHTVIEW: Rõ ràng là đã dấu nghề nhá. Đã thành thật thì thành thật chê luôn cho rồi. Có gan dám chứng tỏ hơn ông SUZUKI không? Hay sợ sẽ bị thiên hạ "vặn họng"? Bạn đã bảo "không bị ai trói buộc cho nên dám nói ra SỰ THẬT, mà chẳng sợ gì ai" mà. Còn chờ gì nữa. Tôi chờ nghe đây.

GS001: Có gì mà gan với dạ. Ông SUZUKI sai thì tôi nói ông sai. Tôi có SỰ THẬT để chứng minh rõ ràng thì sức mấy mà sợ. Dầu cho ông ta là "núi thái sơn" của Thiền Tông mà không có SỰ THẬT thì cũng chỉ như núi làm bằng giấy, đụng một cái là bị xô ngã như thường. Để tôi chỉ ra những cái sai của ông ta cho mọi người thấy. Ai không đồng ý thì cứ tranh luận.

SUZUKI: Bát-nhã (s: prajñā ) thực sự là một thuật ngữ mang đầy tính biện chứng biểu thị tiến trình ngộ giải đặc biệt nầy, còn được gọi là là “chợt nhận ra”, “bỗng thấy ngay”, “thấy ngay lập tức”. Nó không tuân theo một quy luật phổ biến nào của luận lý học cả. Bởi vì khi Bát-nhã đảm nhận vai trò chủ thể nhận ra chính mình một cách bất ngờ, như là một phép lạ, đó là đối diện với tính không (s: śūnyatā) – sự rỗng không của tất cả vạn pháp. Điều nầy không xảy ra như là kết quả của lý luận, mà xảy ra khi lý luận đã bị bỏ rơi vì vô dụng, và nói theo khía cạnh tâm lý học, ngộ xảy ra khi năng lực ý chí đi đến mức thành tựu.

GS001: Chỉ qua một đoạn rất ngắn trên đã thấy ông ta có vô số sai lầm:

1) Ông ta bảo NGỘ xảy ra "khi năng lực ý chí đến mức thành tựu". Đó là là một câu tuyên bố chết người. Đạo của Đức Thế tôn là THANH TỊNH ĐẠO chứ đâu phải là ĐẠO THAM ÁI. NGỘ là do sự phát triển TRÍ TUỆ toàn toàn sau khi đã dẫn cà THÂN và TÂM đến mức THUẦN TỊNH, trong đó mọi THAM ÁI đã không còn. Không có sự phát triển lòng DỤC thì nói gì đến 2 chữ Ý CHÍ? Ngay từ quả SƠ THIỀN là đã phải LY DỤC, LY ÁC PHÁP, thì Ý CHÍ cần thiết ở chỗ nào? Đem mấy thứ phàm trần này vào trong Thiền Định, Thiền Quán, thì chỉ có từ "Chết cho đến bị thương", chứ không thể chứng đạo.

2) Ông ta bảo: "Bát-nhã (s: prajñā ) thực sự là một thuật ngữ mang đầy tính biện chứng biểu thị tiến trình ngộ giải đặc biệt nầy, còn được gọi là là “chợt nhận ra”, “bỗng thấy ngay”, “thấy ngay lập tức”. THẤY NGAY LẬP TỨC thì tại sao cả tỉ tỉ người, hằng ngàn ngàn năm, vẫn không "thấy ngay lập tức". Ông SUZUKI đã "thấy ngay lập tức" chưa?

3) Ông ta tuyên bố: "nó không tuân theo một quy luật phổ biến nào của luận lý học cả". Nhưng ông ta chưa chứng BÁT NHÃ thì làm sao ông biết là nó không theo một quy luật nào của luận lý? Nếu không cần một luận lý nào thì không lẻ CHÁNH TƯ DUY trong BÁT CHÁNH ĐẠO của PHẬT là dư thừa? Nếu BÁT CHÁNH ĐẠO không cần có đầy đủ với CHÁNH TƯ DUY thì tại sao PHẬT lại tuyên bố rằng:

" Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, trong Pháp và Luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhứt Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong Pháp và Luật này có Bát Thánh Ðạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán."



(Trích từ Trường Bộ Kinh, Phẩm 16-Kinh Đại Bát Niết Bàn)

http://www.budsas.org/uni/u-kinh-truongbo/truong16.htm


Trên kinh nghiệm tu hành của chính bản thân tôi, sau khi tôi đã thu thập nhiều CHÁNH KIẾN từ kinh tạng của PHẬT để làm vốn liếng kiến thức, tôi cũng đã vận dụng CHÁNH TƯ DUY rât nhiều không thua gì trong TOÁN và KHOA HỌC. Nhờ như thế tôi mới có thể chứng thực được những điều sâu sắc trong những lời PHẬT dạy. Kkhông những tư duy trong khi đi đứng nằm ngồi, mà ngay lúc ở sâu trong Thiền Định và Thiền Quán vẫn có sự vừa quan sát vừa tư duy. Có như thế mới gọi
07 Tháng Hai 201208:00
Khách
GS001: Aí chà, cái này thì bạn nên chờ các luận gia của THIỀN TÔNG phát tâm từ bi giải thích trước. Vì họ có thể hiểu ông ta nhiều hơn tôi. Ông SUZUKI là người rất nổi tiếng. Thiền luận SUZUKI cả thế giới đông tây đều biết. Ông ta là bậc Thầy, là bậc Tổ, là cây "đại thụ" của Thiền tông đấy. Tôi mà loạng quoạng phê bình ông ta thì thiên hạ có thể "vặn họng" tôi liền. Bạn hãy chịu khó chờ đi!

RIGHTVIEW: Có phải bạn đã dấu nghề không vậy? Thôi được, tôi đành chờ. Bây giờ tôi có câu hỏi khác cho bạn vậy:

Bạn cho rằng "Đạo Phật thật chẳng khác gì một khoa học đi tìm kiếm SỰ THẬT, tìm hiểu gốc cội của mọi vấn đề, nhất là NGUỒN GỐC CỦA SỰ KHỔ. GIÁC NGỘ là khi lời giải cho bài toán KHỔ đã được tìm ra và có thể trình bày lại được cho chúng sanh theo"

Khi cho đạo Phật là một Khoa học đi tìm kiếm sự thật, có phải bạn đã phàm trần hóa đạo Phật không? Như vậy có ảnh hưởng gì đến đạo đức thiêng liêng của đạo Phật muốn đưa con người đến những cỏi "siêu nhiên" hay không? Đó là chưa nói bạn coi bộ còn thích giởn cợt thiếu tôn nghiêm nữa. Bạn giải thích sao đây?
06 Tháng Hai 201208:00
Khách
RIGHTVIEW: Nhân tiện xin bạn giải thích cho tôi đoạn nói về Bát Nhã sau đây của ông SUZUKI

GS001: Aí chà, cái này thì bạn nên chờ các luận gia của THIỀN TÔNG phát tâm từ bi giải thích trước. Vì họ có thể hiểu ông ta nhiều hơn tôi. Ông SUZUKI là người rất nổi tiếng. Thiền luận SUZUKI cả thế giới đông tây đều biết. Ông ta là bậc Thầy, là bậc Tổ, là cây "đại thụ" của Thiền tông đấy. Tôi mà loạng quoạng phê bình ông ta thì thiên hạ có thể "vặn họng" tôi liền. Bạn hãy chịu khó chờ đi!
08 Tháng Hai 201208:00
Khách
Đạo hữu HOAI KHONG NGO kính mến!

Đạo hữu có thể thỉnh quí thầy bên Thiền Tông giải thích cho bạn RIGHTVIEW về thắc mắc này được không?

RIGHTVIEW: Xin bạn giải thích cho tôi đoạn nói về Bát Nhã sau đây của ông SUZUKI:

"Bát-nhã (s: prajñā ) thực sự là một thuật ngữ mang đầy tính biện chứng biểu thị tiến trình ngộ giải đặc biệt nầy, còn được gọi là là “chợt nhận ra”, “bỗng thấy ngay”, “thấy ngay lập tức”. Nó không tuân theo một quy luật phổ biến nào của luận lý học cả. Bởi vì khi Bát-nhã đảm nhận vai trò chủ thể nhận ra chính mình một cách bất ngờ, như là một phép lạ, đó là đối diện với tính không (s: śūnyatā) – sự rỗng không của tất cả vạn pháp. Điều nầy không xảy ra như là kết quả của lý luận, mà xảy ra khi lý luận đã bị bỏ rơi vì vô dụng, và nói theo khía cạnh tâm lý học, ngộ xảy ra khi năng lực ý chí đi đến mức thành tựu.

Dụng của Bát-nhã là khước từ tất cả những gì mà ta nhận thức được từ thế giới phàm trần nầy, nó thuộc về một trật tự hoàn toàn khác với cuộc sống thường nhật của chúng ta. Nhưng điều nầy không có nghĩa Bát-nhã là điều gì đó hoàn toàn cách biệt với nếp sống và tư tưởng của chúng ta, là một cái gì đó được gởi đến cho chúng ta bằng phép lạ từ một nguồn nào đó không biết và không thể nào biết được. Nếu đúng như vậy, Bát-nhã sẽ chẳng có ích gì cho chúng ta cả và sẽ chẳng có sự giải thoát nào giành cho chúng ta. Quả thực vai trò của Bát-nhã làm tản mạn và gián đoạn tiến trình suy luận duy lý, nhưng trong mọi lúc Bát-nhã vẫn nhấn mạnh đến suy luận nầy, và nếu không có Bát-nhã, chúng ta không thể có một suy luận nào cả. Cùng một lúc, Bát-nhã vừa ở trên, vừa ở trong tiến trình suy luận. Thông thường mà xét, đây là một mâu thuẫn. Nhưng thực tế, chính mâu thuẫn nầy tự nó đem đến sự khả hữu cũng là nhờ Bát-nhã.

Hầu như các nền văn học tôn giáo đều chứa đầy mâu thuẫn, phi lý, nghịch lý, bất khả đắc và nếu đòi hỏi ta phải tin nhận chúng, như là những chân lý mặc khải, chính là vì tri thức tôn giáo được đặt nền tảng trên sự vận hành của Bát-nhã. Một khi quan điểm về Bát-nhã được chấp nhận, thì tất cả mọi phi lý tính chủ yếu có nền tảng tôn giáo đều trở nên có thể hiểu được."

(THIỀN VÀ PHÁP MÔN VÔ NIỆM, CHƯƠNG 4: ĐỐN NGỘ VÀ VÔ NIỆM)

Tôi cũng muốn được nghe quí vị Thiền Tông giảng rõ thêm về những lời trên như thế nào. Thành thật, tôi thấy ông SUZUKI nói rất sai về BÁT NHÃ nhưng tôi chưa dám vội vã phê bình vì sợ tỏ ra bất kính với một ông tổ Thiền Tông "to tổ bố" mà từ Đông sang Tây ai cũng đã kính nể và tôn sùng.
07 Tháng Hai 201208:00
Khách
HOAI KHONG NGO: Bạn nói các vị tổ nói sai thì bạn thật sự giỏi trình độ của bạn phải ngang hàng các vị tổ.Bạn hãy chỉ ra cho mình thấy các tổ nói sai chổ nào vậy mình muốn biết thêm.

GS001: Ví dụ các tổ chê TỨ ĐẾ là pháp thấp thỏi của hàng căn cơ nhị thừa trong khi đó thì chính Đức Phật xác nhận TỨ ĐẾ là pháp mà chỉ có một bậc CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC mới có thể thấu triệt được:

"Này hỡi các Tỳ Khưu, ngày nào mà tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức chưa được hoàn toàn sáng tỏ thì, cho đến chừng ấy, Như Lai không xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (anuttaram samma-sambodhim).

Đến khi, này hỡi các Tỳ Khưu, tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn pháp thánh đế, dưới ba sắc thái và mười hai phương thức, đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, chỉ đến chừng ấy, Như Lai mới xác nhận trước thế gian gồm chư Thiên, Ma Vương và Phạm Thiên, giữa các chúng sa môn, bà la môn, Trời và người, rằng Như Lai đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”

Kinh Chuyển Pháp Luân
14 Tháng Hai 201208:00
Khách
Sau đây là những lợi ích đáng biết thêm về sự sống có CHÁNH NIỆM:


1) Như trên đã định nghĩa: "CHÁNH NIỆM là luôn luôn khách quan khảo sát chính ta" Điều này hơi khó khăn vào lúc đầu khi ta muốn vừa làm việc vừa quan sát mình cùng một lúc. Nhưng nếu cứ tinh tấn thực hành thì sẽ đến lúc như cô thư ký đánh máy thành thạo, tay vừa đánh máy, mắt vừa đọc bài cùng một lúc và còn có thể đánh máy nhanh hơn lúc trước. Cái GIÁC TÁNH bao la và vô hình như HƯ KHÔNG nó có thể phân ra bao nhiêu cũng được. Như anh chàng nhạc sĩ chuyên nghiệp, một tay vừa bấm phím đàn, một tay vừa móc giây đàn, mắt vừa đọc nốt nhạc, miệng vừa hát, và ý vừa thưởng thức tiếng hát của mình. Cho nên ta có thể vừa sống vừa lo chu toàn mọi công việc mà vẫn không mất CHÁNH NIỆM.

2) Thực hành CHÁNH NIỆM được ngay trong cuộc sống là một cách sống tuyệt vời. Vừa tỉnh thức để nhanh chóng phát hiện những sai trật trong công việc, những tâm xấu hay những phiền não của mình để nhanh chóng điều chỉnh, lại còn THƯỞNG THỨC SỰ SỐNG một cách trọn vẹn. Biết bao nhiêu người đang sống mà không biết mình đang sống. Đến khi sự sống sắp mất mới thấy tiếc nuối sự sống quí giá đã qua, nhưng lúc đó đôi khi đã muộn rồi.

3) Thực hành CHÁNH NIỆM là một cách sống vừa TRÍ TUỆ vừa HẠNH PHÚC. Cho dù gặp phải hoàn cảnh khổ đau, mình cũng sẽ không khổ như người ta. Nhờ tâm đã quen AN TRÚ TRONG HIỆN HẠI, nên không dính mắc quá khứ để mà tiếc nuối, cũng không dính mắc tương lai để mà nôn nóng mong cho hoàn cảnh sớm qua đi. Rồi cũng nhờ khả năng AN TRÚ TRONG HIỆN TẠI mà khi có hạnh phúc thì sự thưởng thức hạnh phúc cũng trọn vẹn hơn người ta. Người có AN TRÚ TRONG HIỆN TẠI có thể cảm nhận hạnh phúc trong từng bước chân đi, trong từng hơi thở.

4) CHÁNH NIỆM với sự sống tỉnh tức trong hiện tại là một pháp môn hiệu quả nhất để diệt trừ THAM, SÂN, SI hằng giây hằng phút. Vì THAM là tâm dính mắc tới tương lai. SÂN là tâm dính mắc tới hoặc quá khứ (chuyện qua rồi mà vẫn giận) hoặc tương lai (nôn nóng mong cho sớm đạt điều mong muốn). SI là không biết những gì đang xảy ra cho thân và tâm của mình. Cho nên sống có CHÁNH NIỆM càng ngày con người của ta càng được thanh lọc. Cụ thể còn giúp cho cả Thân và Tâm lành mạnh. Thân có thêm sức khỏe nhờ sớm thấy những mõi mệt để điều chỉnh, Tâm thêm an vui nhờ sớm thấy những phiền não phát hiện để ngăn ngừa.

5) Sau cùng CHÁNH NIỆM là cách sống giúp mình phát triển trí tuệ, phát triển GIÁC TÁNH, PHẬT TÁNH, để dần dần KHÁCH QUAN với những khổ đau cuả chính mình, để sẽ khám phá (giác ngộ) THỰC TƯỚNG VÔ NGÃ. Đây là trình độ giải thoát rốt ráo ra khỏi những cột buộc của NGỦ UẨN, trong đó sự cột buộc của THỨC TÁNH là bền chặt nhất. Đây là sự giải thoát ra khỏi các pháp hữu vi sinh diệt, để chấm dứt hoàn toàn khổ đau, đạt CỨU CÁNH NIẾT BÀN. Xin đọc thêm bài: TỨ NIỆM XỨ: CON ĐƯỜNG THẲNG ĐẾN BÁT NHÃ ở tại link này:
http://hoavouu.com/D_1-2_2-219_4-21508_5-15_6-1_17-674_14-2_15-2/tu-niem-xu-con-duong-thang-den-bat-nha.html
07 Tháng Hai 201208:00
Khách
HOAI KHONG NGO: đạo Phật là đạo từ bi, trí tuệ không giới hạn bởi Tq, hay Vn, hay ấn độ hay bất kì một nước nào khác, Bạn trong kiếp này sinh ra ở vn nhưng trong kiếp trước lại sinh ở tq thì sao. Bạn có thấy rằng mình tự gò ép cho đạo Phật trở nên nhỏ bé và giới hạn hay không. Phật tử vn cũng chỉ biết ptử vn, còn các phật tử khác thây kệ hay sao. Người tq hay quốc gia nào khác có phải là chúng sinh không (biết ham sống biết đau khổ hay không) vậy lòng từ bi của bạn đâu rồi.

GS001: Chính vì tôi có từ bi cho nên mới nói rõ SỰ THẬT cho mọi người thấy để tránh lầm lẫn. Tôi chỉ ra những sự "qui ngưỡng" nô lệ tâm thức TQ quá đáng của Phật tử VN để cứu vãn ĐẠO PHÁP và dân tộc (khỏi bị TQ lợi dụng để đồng hóa). Như vậy không phải do từ bi sao?


HOAI KHONG NGO: Bạn nói :"nhiều ông tổ TQ dạy cho đệ tử rằng A LA HÁN là "hạt giống lép" làm "TIÊU NHA BẠI CHỦNG" xin lỗi bạn nhe nhưng câu này Phật nói trong kinh Pháp hoa.

GS001: Bạn đừng phỉ báng Đức Phật. Ngài không bao giờ tuyên bố một cách sai sự thật như vậy. Tôi xin bạn chỉ cho tôi thấy Phẩm nào? Trang nào? trong kinh Pháp Hoa Phật đã nói A LA HÁN làm TIÊU NHA BẠI CHỦNG.


HOAI KHONG NGO: Tôi thấy bạn bị trói buộc ở chỗ kì thị tq quá, và vướng víu đạo pháp dân tộc quá. Đồng ý ta là người Vn phải có trách nhiệm với dân tộc ta nhưng cái gì quá cũng có hại đều sai trung đạo.

GS001: Chính vì tôi không bị ai trói buộc cho nên tôi mới dám nói ra SỰ THẬT, mà chẳng sợ gì ai, chẳng sợ ai mất lòng. Tôi không kỳ thị TQ nhưng tôi có bằng cớ Chính quyền TQ đã dùng Phật Giáo như "sức mạnh mềm" để hổ trợ chính sách bá quyền của họ. Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Các đế quốc Tây Phương cũng đã lợi dụng Kitô giáo kiểu như vậy để tạo ra người tiếp tay cho họ trong các cuộc xâm lăng. Trong bài mà tôi sẽ viết gởi tặng các bạn: "TẠI SAO PHẬT GIÁO TQ SUY TÀN" tôi sẽ nêu rõ các âm mưu của TQ cải đổi Phật Giáo cho các bạn thấy.

Thân ái.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10115)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10514)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10134)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20396)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11652)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13789)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19120)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46710)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12093)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11672)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23082)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17854)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10159)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17764)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13935)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14049)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15113)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20299)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18294)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17409)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18177)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12721)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12854)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13425)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17034)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11480)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18290)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18593)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21380)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22165)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16873)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12562)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15331)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24619)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14233)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11645)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19736)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13422)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22810)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19006)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18463)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21626)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20532)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20033)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14077)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15010)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13795)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15109)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17240)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15300)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12822)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15882)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12998)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13136)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15024)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22650)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7158)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19367)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37699)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9175)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8683)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17902)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14874)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27050)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19948)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15269)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15487)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26793)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14565)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19712)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14634)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18659)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15925)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16358)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19363)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19736)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19907)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18608)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29830)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14578)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17767)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32436)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15276)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17311)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29767)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31542)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64709)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32811)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20239)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18532)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30822)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19924)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45908)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32602)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39358)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40455)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50148)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19097)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18563)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20695)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant