GS001
Nói đến Thiền người ta thường nghĩ đến một cách tu của Phật giáo, như hình ảnh ngồi xếp bàn, yên tĩnh của các nhà sư. Gần đây Thiền đã trở nên một vấn đề phổ biến trong dân gian. Người ta thấy có thiền Yoga, thiền xuất hồn của ông Lương sĩ Hằng, thiền Quán Âm của Sư Cô Thanh Hải, v.v., rồi chính ngay trong đạo Phật người Phật tử cũng phân vân với vô số phương pháp thiền: Thiền công án, Tổ sư thiền, Như Lai thiền, Thiền Minh Sát, Thiền với nhiều đề mục khác nhau. Kinh Lăng Nghiêm có bàn đến thiền với đề mục Quán Âm nhưng khác với thiền Quán Âm của Cô Thanh Hải như thế nào?
Bài viết này không có tham vọng tả rõ hết tất cả các phương pháp thiền nhưng chỉ xác định lại ý nghĩa và mục đích của Thiền căn cứ trên phương cách tu hành của đức Phật đã được ghi lại trong Tam Tạng Kinh điển. Nắm vững được tinh thần này người Phật tử tự nhiên sẽ thấy sự khác biệt như thế nào giữa Thiền Đạo Phật, mà trong bài này gọi là THIỀN TRÍ TUỆ, với tất cả các loại Thiền khác, mà trong bài này gọi là THIỀN THAM ÁI. Thấy rõ sự khác biệt này sẽ hữu ích cho người Phật tử để thực hành đúng CHÁNH ĐỊNH, CHÁNH TINH TẤN, để không đi lạc đạo quá xa trong lúc tu Thiền.
Cũng như trong các ngành khoa học, Y Khoa, Vật Lý, hoặc Hóa Học, một sinh viên muốn thấu triệt ngành học của mình không những chỉ học phần lý thuyết mà còn phải thực tập trong phòng thí nghiệm để chứng nghiệm những gì đã học, hoặc để khám phá thêm những phát minh mới. Người Phật tử học Phật cũng gần như vậy, không thể chỉ tu TỊNH ĐỘ tụng kinh mà còn phải thực hành THIỀN để thực nghiệm chân lý. Thật là thiếu sót khi phân chia tông phái để rồi chỉ chọn một trong hai, hoặc TỊNH ĐỘ (tụng kinh) hoặc THIỀN (bất lập văn tự, kiến tánh thành Phật). Người tu Phật phải đi qua trọn vẹn cả 3 pháp: Pháp Học phải đầy đủ, để Pháp Hành khỏi đi lạc, và rồi để đi đến Pháp Thành là lúc để hoàn tất sự giải thoát.
Học Kinh sách để có đầy đủ những CHÁNH KIẾN mà Đức Phật đã khám phá, để học thêm những kinh nghiệm tu hành của Đức Phật. Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃ mà đức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp. Tinh thần của Thiền là tinh thần của Khoa Học Thực Nghiệm. Là tìm kiếm lời giải đáp cho những thắc mắc về chính mình bằng cách khảo sát, nghiên cứu tìm hiểu cái TA của chính mình. Cũng từ những thắc mắc như thế mà đức Phật đã Giác Ngộ được Đạo. Ngày thành đạo, ngài đã kể lại công trình nghiên cứu đó như sau:
Xuyên qua bao vạn kiếp Như Lai đi kiếm ông thợ xây cửa dựng nhà Như Lai đi thênh thang mà không gặp Hôm nay Như Lai đã kiếm thấy ngươi Từ nay ngươi không còn xây nhà cho Như Lai nữa Kinh Pháp cú 153.Các vị Bồ Tát cũng thực hành Thiền quán với tinh thần khoa học tương tự như vậy. Trong kinh Lăng Nghiêm, ta thấy Bồ Tát Quán Âm chẳng khác gì là một khoa học gia chuyên môn nghiên cứu về sự nghe. Phương pháp quán của ngài là quán vào CĂN của SỰ NGHE (Nhĩ căn viên thông). Có nghĩa là tìm hiểu “gốc cội”, lý do tại làm sao mà ta nghe được. Tương tự như vậy Bồ Tát Di Lặc là một khoa học gia nghiên cứu về CĂN của Ý tức là “gốc cội” của Tư Tưởng, từ đâu mà đến. Có thắc mắc như thế ta mới có thể đi xa hơn những gì mà khoa học ngày hôm nay đã tìm thấy. Ví dụ: với khoa học sự nghe là do Màng Nhĩ của Tai, do Âm thanh. Sự thấy là do Mắt do Ánh Sáng, v.v. Nhưng trong giấc mơ dầu mắt nhắm, dầu không có âm thanh, hay ánh sáng ta vẫn có sự nghe, sự thấy.
Đạo Phật thật chẳng khác gì một khoa học đi tìm kiếm SỰ THẬT, tìm hiểu gốc cội của mọi vấn đề, nhất là NGUỒN GỐC CỦA SỰ KHỔ. GIÁC NGỘ là khi lời giải cho bài toán KHỔ đã được tìm ra và có thể trình bày lại được cho chúng sanh theo. Chứ không phải tuyên bố “Hoát nhiên đại ngộ” rồi vẫn “câm miệng hến” như nhiều ông Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Người Phật tử thực hành Thiền quán là để phát triển Trí Tuệ hiểu biết về TA và về sự KHỔ, chứ không phải để đạt được những tham ái của bãn ngã. Ai thực hành thiền mà để hoàn thiện bản ngã thì vẫn kể như còn ở trình độ THIỀN THAM ÁI của “Ngoại Đạo”, tức chưa phải là THIỀN TRÍ TUỆ của Phật.
Trong tinh thần THIỀN TRÍ TUỆ của Phật, chừng nào mà sự thật về TA và về nguyên nhân sự KHỔ chưa được chứng thực thì hành giả vẫn chưa gọi là GIÁC NGỘ. Nếu không có tinh thần Trí Tuệ như vậy thì tâm THAM ÁI sẽ rất dễ “CHẠY THEO TRẦN CẢNH” với các hiện tượng tâm vật lý của thiền. Rất nhiều hành giả đã bị “kẹt” vào những “âm thanh vi diệu” với pháp Thiền Quán Âm của Cô Thanh Hải. Rất nhiều hành giả sau khi bị rơi vào những “feeling giải thoát” (kể cả feeling vô ngã) đã tuyên bố “Tôi đã Giác Ngộ”. Phải biết rằng những gì còn ở trình độ “CẢM THỌ” (feeling) thì vẫn còn ở trình độ NGŨ UẨN, vẫn còn trình độ của “PHÁP HỮU VI”, vô thường, tạm bợ, không phải là sự giải thoát chân thật và bền chắc. Những “feeling tuyệt vời” đó kinh Lăng Nghiêm gọi là “Ngũ Ấm Ma” vì nó khi hiện khi mất.
Khi hành thiền, hành giả phải quán sát chính TA với tâm rất KHÁCH QUAN chẳng khác gì các khoa học gia trong phòng thí nghiệm, không phê phán (Vọng hoặc Chơn), không chọn lựa. Đó là lý do trong kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật đã dạy: “Thấy tâm Tham nổi lên, biết tâm Tham nổi lên, thấy tâm Sân nổi lên biết tâm Sân nổi lên... Khi thở ra hơi dài biết thở ra hơi dài, khi thở ra hơi ngắn biết thở ra hơi ngắn, khi sắp thở ra biết sắp thở ra, khi sắp hít vô, biết sắp hít vô”. Nói như thế cũng phải hiểu rằng nếu có “tâm phê phán” hay “tâm chọn lựa” nổi lên thì cũng vẫn “TUỆ TRI” các tâm đó đang nổi lên một cách khách quan với sự giác biết thanh tịnh.
Quán sát khách quan như vậy để làm gì? -Để cho THAM ÁI không dự phần, để cho NGÃ tánh không phát triển, để mới có thể khám phá ra được sự thật VÔ NGÃ: Ta không phải SẮC, ta không phải THỌ, ta không phải TƯỞNG, ta không phải HÀNH, ta không phải THỨC (ngủ uẩn giai không), TA không phải bất cứ cái CÓ nào cả, TA KHÔNG THỰC SỰ HIỆN HỮU. Chứng nghiệm được cái “KHÔNG TÁNH” của ta đó là sự chứng nghiệm “SẮC TỨC THỊ KHÔNG”. “KHÔNG TỨC THỊ SẮC” của BÁT NHÃ. Đó cũng là để hoàn toàn ra khỏi NGÃ, ÁI, THỦ, HỮU, ra khỏi mọi khổ đau ách nạn. Đó cũng là chứng nghiệm được những gì mà Đức Phật đã dạy ở trong Tiểu Bộ Kinh:
“Này các Tỷ-kheo, có sự không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sinh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có sự trình bày xuất ly khỏi sinh, khỏi hiện hữu, khỏi bị làm, khỏi hữu vi.”Như vậy THIỀN là để Phát Triển TRÍ TUỆ VÔ NGÃ. Có nghĩa rằng phải thấy rõ THỰC TƯỚNG của chính ta. “CÓ SAO THẤY VẬY” không bắt ta phải VÔ NIỆM, kềm kẹp TRI KIẾN, hoặc ỨC CHẾ TÂM gì cả. Những phương cách thiền nào nhằm mục đích để cho NGÃ của ta được hay hơn, tốt đẹp hơn, nhiều khả năng hơn, sung sướng hơn, an vui hơn, thanh tịnh hơn, v.v. thì còn chưa ra ngoài lãnh vực THAM ÁI và CHẤP NGÃ nên sẽ không thể khám phá được sự thật VÔ NGÃ. Sau khi sự thật VÔ NGÃ đã được khám phá thì trong TRÍ TUỆ VÔ NGÃ dầu ngũ uẩn này còn bấn loạn, còn lo, còn buồn, còn khổ gì đi nữa, đó vẫn chỉ là các pháp hữu vi, “DO DUYÊN SINH”, không phải do ta, không phải là của ta. Cho nên vẫn giải thoát. NIẾT BÀN được thực chứng ngay trong KHỔ mới thực sự là NIẾT BÀN. Nếu đòi hỏi KHỔ phải biến mất thì NIẾT BÀN đó không phải là NIẾT BÀN thật. (vì hễ còn có điều kiện, thì sẽ không bền vững).
GIỮ GÌN CHÁNH NIỆM
Rất nhiều người hiểu hạn hẹp chữ CHÁNH của Phật theo nghĩa THIỆN. Có thầy dạy giữ gìn Chánh Niệm trong khi ăn bằng cách quán tưởng đến công ơn của các bác nông phu cày cấy. Nhưng đối với tinh thần của TỨ NIỆM XỨ, quán niệm như vậy là VỌNG NIỆM, vì đã đi ra khỏi sự theo dõi chính mình. Chánh Niệm trong khi ăn là theo dõi sự ăn để tìm hiểu tại sao ta phải ăn? Tại sao ta khổ vì đói? Chữ CHÁNH trong đạo Phật có nghĩa là hướng đúng về mục tiêu NIẾT BÀN (lúc khổ được tận diệt). Làm chệch ra khỏi hướng đó thì là TÀ (trật). Vì sự KHỔ chỉ hoàn toàn chấm dứt khi sự thật VÔ NGÃ được chứng nghiệm, cho nên CHÁNH cũng là hướng về sự phát triển TRÍ TUỆ VÔ NGÃ.
CHÁNH NIỆM là luôn luôn “tâm niệm” (mindfulness) khách quan khảo sát chính ta. Bất chấp nó tốt hay xấu, bất chấp nó khổ hay vui, bất chấp nó thiện hay ác. Sự khảo sát này có 2 tính chất chính: LIÊN TỤC và KHÁCH QUAN. Ví dụ, khi tâm tinh tấn tu hành, biết tâm đang có sự tinh tấn. Khi tâm chán nản, biết tâm đang chán nản. Nếu tâm tinh tấn chống cự, biết tâm đang tinh tấn chống cự, nếu tâm có khuynh hướng chịu thua, biết tâm muốn chịu thua. Dầu thế nào đi nữa, phải Luôn Luôn KHÁCH QUAN nhận rõ những gì đang xảy ra. Như thế, thì vẫn ở trong CHÁNH NIỆM. Duy trì tâm khách quan như thế để sẽ thấy rõ NHÂN DUYÊN sinh khởi của các NGŨ UẨN, để từ đó chứng thực sự thật VÔ NGÃ. Đạo Phật là để hết Khổ, không phải để làm cho TA hay hơn hoặc tốt hơn. Hay hơn hoặc Tốt hơn mà còn Ngã chấp, còn chấp thủ ngũ uẫn, thì vẫn còn khổ như thường.
Bài viết liên quan đến chủ đề (nên đọc thêm):
● Chương 13: Chánh Niệm (Sati) trích từ:CHÁNH NIỆM CƠ BẢN
Thiền sư: Henepola Gunaratana
Dịch Việt: Lương Thanh Bình
● CHÍNH NIỆM - THỰC TẬP THIỀN QUÁN Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
● HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÁNH NIỆM - Bhante Henepola Gunaratana - Chuyển Ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh
● SỰ QUAN TRỌNG CỦA CHÁNH NIỆM KINH ĐẠI NIỆM XỨ - Thiền Sư U Silananda - Nita Truitner dịch Việt
● THIỀN PHẬT GIÁO Tâm Thái
Source: thuvienhoasen
Nhân tiện xin bạn giải thích cho tôi đoạn nói về Bát Nhã sau đây của ông SUZUKI:
Bát-nhã (s: prajñā ) thực sự là một thuật ngữ mang đầy tính biện chứng biểu thị tiến trình ngộ giải đặc biệt nầy, còn được gọi là là “chợt nhận ra”, “bỗng thấy ngay”, “thấy ngay lập tức”. Nó không tuân theo một quy luật phổ biến nào của luận lý học cả. Bởi vì khi Bát-nhã đảm nhận vai trò chủ thể nhận ra chính mình một cách bất ngờ, như là một phép lạ, đó là đối diện với tính không (s: śūnyatā) – sự rỗng không của tất cả vạn pháp. Điều nầy không xảy ra như là kết quả của lý luận, mà xảy ra khi lý luận đã bị bỏ rơi vì vô dụng, và nói theo khía cạnh tâm lý học, ngộ xảy ra khi năng lực ý chí đi đến mức thành tựu.
Dụng của Bát-nhã là khước từ tất cả những gì mà ta nhận thức được từ thế giới phàm trần nầy, nó thuộc về một trật tự hoàn toàn khác với cuộc sống thường nhật của chúng ta. Nhưng điều nầy không có nghĩa Bát-nhã là điều gì đó hoàn toàn cách biệt với nếp sống và tư tưởng của chúng ta, là một cái gì đó được gởi đến cho chúng ta bằng phép lạ từ một nguồn nào đó không biết và không thể nào biết được. Nếu đúng như vậy, Bát-nhã sẽ chẳng có ích gì cho chúng ta cả và sẽ chẳng có sự giải thoát nào giành cho chúng ta. Quả thực vai trò của Bát-nhã làm tản mạn và gián đoạn tiến trình suy luận duy lý, nhưng trong mọi lúc Bát-nhã vẫn nhấn mạnh đến suy luận nầy, và nếu không có Bát-nhã, chúng ta không thể có một suy luận nào cả. Cùng một lúc, Bát-nhã vừa ở trên, vừa ở trong tiến trình suy luận. Thông thường mà xét, đây là một mâu thuẫn. Nhưng thực tế, chính mâu thuẫn nầy tự nó đem đến sự khả hữu cũng là nhờ Bát-nhã.
Hầu như các nền văn học tôn giáo đều chứa đầy mâu thuẫn, phi lý, nghịch lý, bất khả đắc và nếu đòi hỏi ta phải tin nhận chúng, như là những chân lý mặc khải, chính là vì tri thức tôn giáo được đặt nền tảng trên sự vận hành của Bát-nhã. Một khi quan điểm về Bát-nhã được chấp nhận, thì tất cả mọi phi lý tính chủ yếu có nền tảng tôn giáo đều trở nên có thể hiểu được.
(THIỀN VÀ PHÁP MÔN VÔ NIỆM, CHƯƠNG 4: ĐỐN NGỘ VÀ VÔ NIỆM)
Bạn vô tình đóng khung đao Phật tự do phóng khoáng thành đạo vị ngã (đạo pháp của dân tộc ta). Đời đã khổ vì ý thức hệ chia 5 xẻ 7 hình thành các quốc gia, chủng tộc chống nhau rồi bây giờ bạn lại chia 5 xẽ 7 đạo Phât hay sao.
Bạn nói các vị tổ nói sai thì bạn thật sự giỏi trình độ của bạn phải ngang hàng các vị tổ.Bạn hãy chỉ ra cho mình thấy các tổ nói sai chổ nào vậy mình muốn biết thêm. Thân
GS001: Cái câu của nhiều ông tổ TQ (Trung Quốc) cho rằng "A LA HÁN chỉ thấy NGÃ KHÔNG mà PHÁP HỮU" tôi nghe dân thiền tông đua nhau lặp đi lặp lại đến độ nhàm tai. Họ nói về những thứ họ chưa hề biết chưa hề thấy, mà cứ nói ra như thật. Họ bị nô lệ tâm thức của mấy ông tổ TQ mà họ không hay biết. Chính mấy ông tổ TQ chưa hề chứng được VÔ NGÃ, chưa hề chứng được A LA HÁN, thì biết gì mà tuyên bố về các ngài A LA HÁN?
Khi tôi còn học trung học, chưa biết chi về Đạo Phật, chỉ học qua lý thuyết quang học về sự thấy: Cho rằng khi ta thấy một vật A tại vì ánh sáng từ vật đó, đi vào võng mô và giác mạc của ta, rồi truyền tín hiệu lên não. Não process những tín hiệu này rồi cho ra một "IMAGE" về vật A. Cái ta thấy về A thật ra là cái IMAGE của óc não chứ không thực là A. Như vậy tôi cũng đã biết rằng mọi pháp ta thấy đều HƯ HUYỄN không thực, chưa cần biết gì đến Đạo Phật. Một tên học sinh trung học đã còn thấy được thế gian là HƯ HUYỄN thì huống gì là một bậc đã chứng được quả vị A LA HÁN. Ông tổ TQ nào mà ăn nói như thế tôi cho là rất u mê chưa biết VÔ NGÃ là gì. A LA HÁN là gì?
Thậm chí tôi còn nghe nhiều ông tổ TQ phỉ báng các ngài A LA HÁN rằng: A LA HÁN còn ích kỷ, chỉ ham an trú NIẾT BÀN không muốn độ chúng sanh. Eo ôi! một bậc đã chứng được VÔ NGÃ đã không còn BÃN NGÃ, mà còn ÍCH KỶ được ư? Thậm chí còn có nhiều ông tổ TQ dạy cho đệ tử rằng A LA HÁN là "hạt giống lép" làm "TIÊU NHA BẠI CHỦNG". Trong khi đó, ngày hôm nay đạo Phật được nhân loại biết đến, chúng sanh biết đến PHẬT và các lời dạy của ngài, đều do các vị A LA HÁN đã kết tập kinh tạng qua 3 thời kỳ, để cho hạt giống PHẬT không bị mất đi. Thế mà người ta lại cho rằng A LA HÁN làm "tiêu nha bại chủng".
Ôi thôi, quí vị Phật tử VN ơi! Đừng "qui ngưỡng" TQ, đừng nô lệ TQ quá đổi như thế. Học đạo PHẬT để giái thoát chứ đâu phải để nô lệ TQ. Nô lệ TQ thái quá như thế sẽ có ngày làm mất cả ĐẠO PHÁP lẫn DÂN TỘC VN. Tôi sẽ viết gởi tặng quí Phật tử VN một bài: "TẠI SAO PHẬT GIÁO TQ SUY TÀN". Nhớ chờ đón đọc nhé!
Thân ái.
GS001: Như thế là bạn đã xác nhận với tôi rằng trong kinh PHÁP HOA không có phẩm nào, giòng nào, PHẬT đã chê A LA HÁN như các ông tổ TQ truyền tụng cả phải không?
GS001: Thưa bạn, hiệu quả của sự cầu nguyện cũng do NHÂN QUẢ chứ không phải do một PHÉP LẠ nào. Đó cũng chẳng khác gì khi bạn lên tiếng cần cứu giúp rồi gặp được những người hữu duyên đến giúp bạn như trong cuộc đời này vậy thôi. Khi bạn cầu nguyện thì cũng là một cách đánh tín hiệu về sự cần cứu giúp. Nếu bạn không có nghiệp lực gây ra chướng ngại thì chư thiên hoặc các vị Bồ Tát, có thể giúp được, bằng cách này hay cách khác. Sau đây là những yếu tố giúp cho sự cầu nguyện dễ có hiệu quả:
1) Bạn nên cầu nguyện với tâm thanh tịnh để sự truyền thông (communication) giữa bạn và thế giới bên trên được nghe rõ ràng hơn cả hai chiều.
2) Bạn không gặp nạn do trả nghiệp ác. Ví dụ khi bạn gây tội rồi phải vào tù do tội lỗi, thì không có một bậc tôn trọng công lý nào có thể giúp bạn ra khỏi tù.
3) Bạn có sự tuyên hứa sẽ biết tu học hơn sau khi được cứu khổ.
RIGHTVIEW: Nếu ông SUZUKI đã không diễn tả đúng trí BÁT NHÃ, vậy bạn có thể diễn tả đúng hơn bằng một cách dễ hiểu, dễ thấy được không?
GS001: TRÍ TUỆ BÁT NHÃ là TUỆ GIÁC nhận ra được thực tướng VÔ NGÃ (ngủ uẩn giai không). Đó là lúc đến bờ giải thoát, "ra khỏi mọi khổ đau ách nạn" (xem kinh BÁT NHÃ).
NIẾT BÀN chỉ là DỨT HẾT KHỔ (DIỆT ĐẾ). Cũng như người LÀNH HẾT BỆNH thế thôi. Đi đâu cũng được, ở đâu cũng thoải mái. NIẾT BÀN đâu phải là một cỏi mà nhập vào đó rồi phải ở luôn không ra được. Ai bảo NHẬP NIẾT BÀN kiểu như thế, thì là kẻ chưa biết NIẾT BÀN là gì cả.
HOAI KHONG NGO: “Ai thực hành nghiêm túc TỨ NIỆM XỨ để hiểu rõ THÂN và TÂM của chính mình, thì từ 7 năm cho đến 7 ngày, đều có thể chứng đạo”
Vậy bạn đạt được gì chưa vậy?
GS001: Đó là sự khẳng định của PHẬT ở cuối kinh TỨ NIỆM XỨ, chứ chẳng phải sự tuyên bố của tôi. Nếu bạn không tin lời PHẬT thì cứ tự do tu lang thang đi. Còn chuyện tôi đạt được gì chưa thì bạn có thể nhận ra trong cách diễn đạt rõ ràng và thẳng thắn của tôi. Nếu tôi chưa thấy được SỰ THẬT thì tôi đâu dám chê các tổ TQ. Chính nhờ đã thấy được hàng "xịn" của PHẬT nên mấy thứ "MADE IN CHINA", kém quality, không lừa tôi được nữa.
Dĩ nhiên tôi cũng đã chứng đạo với TỨ NIỆM XỨ. Chứng bao nhiêu thì khỏi cần nói làm gì. Tôi chỉ cần nói rằng, nếu bạn muốn chứng đạo thì hãy thực hành TỨ NIỆM XỨ. Đó là "con đường độc nhất" đúng như PHẬT đã tuyên bố. Bạn không có nhận xét để thấy tôi nói rành mạch rõ ràng về THIỀN và điểm đến (VÔ NGÃ) của THIỀN hay sao? Khi nghe một người diễn tả về một con đường một cách rành mạch và rõ ràng hơn người khác, thì bạn phải biết người đó đã đi qua rồi mới có thể nói được rõ ràng như thế.
Tôi lấy ví dụ cho bạn thấy: Đa số thiên hạ định nghĩa CHÁNH NIỆM trong ý nghĩa "thắp sáng hiện tại" để có sự an vui trong cuộc sống. Còn tôi, tôi định nghĩa thế nào là CHÁNH? thế nào là NIỆM? hoàn toàn đúng với chủ đích của PHẬT khi dạy về CHÁNH NIỆM. Tôi biết rõ ràng lý do tại sao PHẬT dạy CHÁNH NIỆM? Nếu sống an vui là quan trọng thì PHẬT đã ở nhà hưởng thụ cuộc sống sung túc cho rồi chứ vào rừng ngồi một mình làm gì?
GS001: Bạn đừng phỉ báng Đức Phật. Ngài không bao giờ tuyên bố một cách sai sự thật như vậy. Tôi xin bạn chỉ cho tôi thấy Phẩm nào? Trang nào? trong kinh Pháp Hoa Phật đã nói A LA HÁN làm TIÊU NHA BẠI CHỦNG. )
Tôi xin lỗi vì có lẽ tôi nói chưa được rõ ràng lắm nên mới gây hiểu lầm như trên ,bản thân tôi không cho rằng tất cả các vị alahan đã đạt được chứng ngộ là hạt giống lép nhưng tôi đồng ý với quan điểm những người con Phật cho dù đã có chứng ngộ đến quả vị alahan đi nữa nhưng nếu thiếu lợi tha (do quả vị alahan là những vị đã đạt được tự lợi còn thiếu lợi tha),nếu những vị alahan đó tiếp tục con đường hạnh nguyện của chư Phật (lợi tha,vd như tập kết kinh điển ,làm lợi chúng sanh )thì mới không uổng công chư Phật, còn vị nào đạt tự lợi xong mà nhập niết bàn (không đem lợi lạc chúng sanh ) thì vị đó là hạt giống lép (không kê thừa được tinh hoa chư Phật,không nghe lời dạy của Phật)
“hẳn biết rằng các vị A LA HÁN là những đệ tử ruột của PHẬT mà ngài đã đào tạo nên. Làm sao mà PHẬT lại có thể phỉ báng các đệ tử quí nhất của mình là thứ "HẠT LÉP"”
Một vị thầy dạy học trò đâu phải toàn bô học trò đều nên ,có người như thế này có người như thế khác trong lịch sử đã có nhiều học trò của Phật phải Phật đấy thôi.Phật là bậc toàn giác không có chuyện Ngài quí người này hơn người khác :đứng trước Phật dù là một con kiến hay môt vị alahan Ngài cũng đối xử như nhau (tâm bình đẳng,từ bi).Nếu như là một vị Thầy giỏi đệ tử mình càng sai phạm vị thầy càng nghiêm khắc (thương cho roi vọt).Bạn dùng từ phỉ bang ở đây là chưa đúng Ngài nói mục đích răn dạy đệ tử đùng giải đãi kinh mạn nhằn để đệ tử Ngài tiến bộ (nói mà nhằm hạ nhục người nâng mình,nói vị ngã mới là phỉ báng).Phật đâu có sự vị ngã thân sơ mà bao che
Còn việc bạn nói “Ví dụ các tổ chê TỨ ĐẾ là pháp thấp thỏi của hàng căn cơ nhị thừa trong khi đó thì chính Đức Phật xác nhận TỨ ĐẾ là pháp mà chỉ có một bậc CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC mới có thể thấu triệt được”
Tôi xin nói rõ Tứ thánh đế là chân lý nhưng chỉ là chân lý giai đoạn mà thôi không phải là rốt ráo. Nếu chê tứ thánh đế thấp thỏi là sai.Điều này lần sau tôi sẽ phân tích. Về thiền sư Suzuki ông ấy cũng đã đạt được thành quả trên đường đạo nhưng nhưng gì ông đã thấy chứng nghiêm thì ông viết chính xác nhưng có phần là do ông ấy tưởng tượng mà ra thêm , đôi khi người viết ,người dịchcòn chưa đủ kinh nghiệm tâm linh khi nào có thời gian tôi sẽ phân tích kĩ nhưng điều mà bạn gs nói trên(gs nói có chỗ chưa hợp lý)
“Ai thực hành nghiêm túc TỨ NIỆM XỨ để hiểu rõ THÂN và TÂM của chính mình, thì từ 7 năm cho đến 7 ngày, đều có thể chứng đạo”
Vậy bạn đạt được gì chưa vậy?
GS001: Nếu nó thuộc một trật tự khác với thế giới này thì làm sao ông SUZIKY biết được nhỉ? Nói chuyện trên mây như thế thì khác gì ngoại đạo.
SUZUKI: Nhưng điều nầy không có nghĩa Bát-nhã là điều gì đó hoàn toàn cách biệt với nếp sống và tư tưởng của chúng ta, là một cái gì đó được gởi đến cho chúng ta bằng phép lạ từ một nguồn nào đó không biết và không thể nào biết được.
GS001: Đạo Phật mà tuyên bố như vậy thì hơn gì ngoại đạo cho rằng do phép lạ của GOD ban cho? Ông SUZUKI có thật là Phật tử không?
SUZUKI: Cùng một lúc, Bát-nhã vừa ở trên, vừa ở trong tiến trình suy luận. Thông thường mà xét, đây là một mâu thuẫn. Nhưng thực tế, chính mâu thuẫn nầy tự nó đem đến sự khả hữu cũng là nhờ Bát-nhã.
GS001: Vừa cả hai như thế thì có gì là mâu thuẩn. Như một con người vừa làm việc vừa thấy được sự làm việc của mình, thì có gì mâu thuẩn?
SUZUKI: Hầu như các nền văn học tôn giáo đều chứa đầy mâu thuẫn, phi lý, nghịch lý, bất khả đắc và nếu đòi hỏi ta phải tin nhận chúng, như là những chân lý mặc khải.
GS001: Ai mặc khải? CHÚA TRỜI chăng? Té ra ông SUZUKI lý luận BÁT NHÃ một hồi để tiến gần đến TÀ KIẾN thượng đế! BÁT NHÃ là trí tuệ để có CHÁNH KIẾN để thấy rõ SỰ THẬT. Đã thấy được SỰ THẬT thì làm sao còn có sự MÂU THUẨN? Chỉ những kẻ còn VÔ MINH, trí tuệ bị che lấp, không thấy rõ sự thật, còn sự tưởng lầm mới có thể có sự mâu thuẩn xảy ra. Kẻ nào còn thấy MÂU THUẨN kẻ đó còn VÔ MINH. Bậc đã chứng ngộ BÁT NHÃ thấy mọi chuyện đúng lý đúng sự, thì không có gi mâu thuẩn cả.
SUZUKI: chính là vì tri thức tôn giáo được đặt nền tảng trên sự vận hành của Bát-nhã. Một khi quan điểm về Bát-nhã được chấp nhận, thì tất cả mọi phi lý tính chủ yếu có nền tảng tôn giáo đều trở nên có thể hiểu được.
GS001: Nói như thế là đồng hóa BÁT NHÃ với VÔ MINH. Tôn giáo là một thế giới có nhiều TÀ KIẾN hơn đâu hết (hơn thế giới khoa học), bởi dầy những đức tin do vô minh và tham ái tạo dựng mà không cần kiểm chứng với CHÁNH KIẾN, và CHÁNH TƯ DUY. Ví dụ khi con người không tìm ra được nguyên do của vấn đề thì thường dựng dứng chuyện do GOD tạo ra. GOD là một vấn đề lớn lao nhất của hầu hết các tôn giáo và do VÔ MINH tạo dựng chứ không do trí BÁT NHÃ. Ông SUZUKI chưa hiểu được điều đó sao?
RIGHTVIEW: Đạo Phật của bạn rõ ràng minh bạch đến thế ư? Thế thì bạn giải thích thế nào về những hiệu quả do sự cầu nguyện? Không phải là những phép lạ sao?
GS001: Nói như thế là đồng hóa BÁT NHÃ với VÔ MINH. Tôn giáo là một thế giới có nhiều TÀ KIẾN hơn đâu hết (hơn thế giới khoa học), bởi dầy những đức tin do vô minh và tham ái tạo dựng mà không cần kiểm chứng với CHÁNH KIẾN, và CHÁNH TƯ DUY. Ví dụ khi con người không tìm ra được nguyên do của vấn đề thì thường dựng dứng chuyện do GOD tạo ra. GOD là một vấn đề lớn lao nhất của hầu hết các tôn giáo và do VÔ MINH tạo dựng chứ không do trí BÁT NHÃ. Ông SUZUKI chưa hiểu được điều đó sao?
RIGHTVIEW: Nếu ông SUZUKI đã không diễn tả đúng trí BÁT NHÃ, vậy bạn có thể diễn tả đúng hơn bằng một cách dễ hiểu, dễ thấy được không?