Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hiểu về hai chữ "vãng sanh"

25 Tháng Hai 201200:00(Xem: 14612)
Hiểu về hai chữ "vãng sanh"
HIỂU VỀ HAI CHỮ "VÃNG SANH"
Thích Hạnh Chơn

blankSanh tửvấn đề ai cũng phải trải qua nhưng không phải ai cũng có thể hiểu rõ bản chất của nó. Đứng trên quan điểm nhị nguyên, sanh tử được cho là hai thái cực trái ngược nhau và do đó nhân loại luôn tìm cách kéo dài sự sống mà lý tưởng của nó là trường sanh bất tử. Dù có nỗ lực vượt bậc, con người cũng không thể đạt được mục tiêu ấy vì lý do đơn giản, đó là quy luật của tạo hóa. Trong khi chấp nhận sự thật sanh tử, con người lại tiếp tục tìm cách lý giải hiện tượng sau khi chết với hai thái cực trái ngược nhau là không còn gì tồn tại sau khi chết (đoạn kiến) và vẫn còn sự tồn tại sau khi chết. Ở thái độ thứ hai, lại có nhiều quan điểm khác nhau. Có thuyết cho rằng linh hồn (tâm) tồn tại bất biến hay bất diệt[1] (thường kiến), có thuyết cho rằng sau khi chết linh hồn tội lỗi phải chờ đợi đến ngày phán quyết cuối cùng để hoặc lên thiêng đàng hay đọa địa ngục do Chúa quyết định (Cơ đốc giáo, Hồi giáo…).[2] Phật giáo cũng khẳng định sau khi chết con người không mất hẳn mà tiếp tục luân hồi theo nghiệp đã tạo, trừ các bậc thánh. Thần thức, bardo hay gọi cho dễ hiểulinh hồn vô ngã[3] tiếp tục tồn tại ở các cõi hay cảnh giới phù hợp với nghiệp thức của người ấy.

Do nhận thức theo quan điểm nhị nguyên nên việc quan tâm đến sự tồn tại sau khi chếthoàn toàn dễ hiểu. Theo trường phái Tịnh độ, mục đích của người tu Tịnh độcầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Tuy nhiên, kinh điển đại thừa thường mang tính ẩn dụ thay vì nói thẳng chữ đâu nghĩa đó. Do đó, hiểu đúng về giáo lý đại thừa là một thách đố lớn với hành giả Phật giáo nói riêng và những người tín ngưỡng Phật giáo nói chung. Bài viết này đưa ra một cách hiểu về ‘vãng sanh’ dựa trên cơ sở giáo lý cốt tủy của đạo Phật nhằm mục đích cung cấp cho những hành giả tu tập Phật giáo tín ngưỡng, cụ thểpháp môn Tịnh độ có thêm một ý kiến tham khảohy vọng rằng nó giúp hành giả tu Tịnh độniềm tin vững hơn và thực tế hơn trong cuộc sống hiện thực này. Bài viết sẽ trình bày bốn điểm như sau:

Quan niệm về thế giới Cực Lạc

Khi tìm hiểu Phật giáo, người học Phật nên phân biệt hai nguồn giáo lý để hiểu đúng lời Phật dạyphương tiện của chư tổ. Trong khi nguồn giáo lý nguyên thủy thường rất rõ ràng, cụ thể thì nguồn giáo lý đại thừa thường được trình bày thông qua biểu tượng, ẩn dụ. Do đó, người học Phật giáo đại thừa dễ mắc sai lầm khi hiểu giáo pháp theo ‘nghĩa đen’ – chữ đâu nghĩa đó thay vì dựa trên cơ sở pháp ấn của Phật giáo.[4] Rõ ràng, không ai phủ nhận giáo lý Tịnh độ thuộc hệ đại thừa và mang giá trị biểu tượng hơn là cụ thể. Kinh A Di Đà miêu tả cảnh giới Cực Lạc ở phương Tây cách xa hơn ‘mười muôn ức cõi Phật’. Nếu hiểu theo ‘nghĩa đen’ thì Cực Lạc là một cõi vật chất tồn tại ở phương Tây, cách rất xa thế giới Ta bà. Nếu là cõi vật chất (dù là báu) có sự sống tồn tại khách quan thì dù xa vẫn có thể đến được bằng chính thân ngũ uẩn mà không cần đợi chết. Bằng chứng là khoa học đang chinh phục và thậm chí còn đến được các hành tinh không có sự sống.

Hơn nữa, nếu cho rằng Cực Lạc là cõi vật chất do Đức Phật A Di Đà sáng tạosở hữu thì sẽ có những phản biện. Thứ nhất, Đức Phật Thích Ca không dạy rằng các đức Phật có thể sáng tạo ra thế giới như chính bản thân Ngài sinh ra cõi đời này nhưng không hề sáng tạo ra thế giới Ta bà. Thứ hai, cho rằng Phật A Di Đà sáng tạo ra thế giới Cực Lạc thì chẳng khác nào chúng ta chấp nhận thuyết Chúa sáng tạo ra Thiên Đường và tất cả những thứ khác bao gồm con ngườithế giới chúng ta đang sống. Nếu chỉ kể Cực LạcThiên Đường thôi thì Phật giáoCơ đốc giáo có gì khác nhau, vì cả hai đều chấp nhận đấng sáng tạo. Thứ ba, một cõi vật chất sanh mà không diệt là không thể tồn tạitrái với pháp ấn vô thường, vô ngã của đạo Phật.

Dựa vào các ý trên, người học Phật nên nhìn lại để quán chiếu và hiểu lời Phật dạy theo hướng biểu tượng. Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới. Thế giới Cực Lạc hiểu theo nghĩa Pháp thân Phật thì đó là cảnh giới thanh tịnh, thuộc về tâm. Từ thể tánh thanh tịnh của Phật A Di Đà biểu hiện ra cảnh giới Cực Lạc (Tịnh độ) là hoàn toàn phù hợp với những lời dạy sau:

‘Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ’;
‘Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương’ (Tỳ ni Nhật dụng);
‘Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương, Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.’ (Lời của Phật Hoàng Trần Nhân Tông)[5]
‘Chớ bảo cõi Tây phương là gần, hành trình về Tây phương xa xôi đến mười vạn dặm đường. Đức Phật A Di Đà thương mà tiếp dẫn mới giải thoát khỏi tử sanh.’[6]
‘Chớ bảo cõi Tây phương xa xôi, cõi Tây phương ở ngay trước mặt. Như nước chảy về biển cả, như trăng lặn không ra khỏi bầu trời.’[7]

Thế giới Cực Lạc rất xa nhưng cũng rất gần và mọi người đều có thể tiếp xúc được khi tam nghiệp hằng thanh tịnh, tức không còn phiền não, là Phật tánh, là Niết bàn, là hạnh phúc chân thật. Khi tâm của chúng ta thanh tịnh thì đồng tâm Phật (Phật tánh) thì Phật, Bồ tát đang chờ mời chúng ta vào thế giới Cực Lạc để cùng thể nghiệm sự giải thoát. Như thế, hạnh nguyện độ sanh của Phật và Bồ tát thường hằng và thật công tâm. Chỉ e rằng chúng sanh không tạo đủ ‘độ cảm’ nên không ‘ứng hợp’ với chư Phật và do đó, cầu thì vẫn cứ cầu mà ứng thì khó đạt được.

Cầu vãng sanh và cái chết

Nếu ta hiểu Cực Lạc không phải là cõi vật lý mà là cảnh của tâm thì vấn đề tiếp theocầu vãng sanh như thế nào? Cầu vãng sanh phải chăng là cầu chết?

Xưa nay nói đến vãng sanh thì ai cũng hiểu là chết và về thế giới Cực Lạc. Do hiểu như thế nên người tu Tịnh độ rất muốn được vãng sanh để về cõi không còn khổ đau như cõi Ta bà. Cầu vãng sanh như thế đồng nghĩa với cầu chết và chết để được về cõi tịnh hết khổ đau thì có vẻ như ai cũng thích. Thế nhưng, sự thật có ai dám vứt bỏ mạng sống quý giá này để về Cực Lạc ngay không? Chắc chắn là không có, thậm chí còn muốn sống lâu thêm dù luôn rên đau khổ. Đó là sự mâu thuẫn khi ta hiểu vãng sanh đồng nghĩa với chết.

Hơn nữa, nếu có ai hỏi rằng pháp hữu về Cực Lạc để làm gì thì dường như ai cũng đồng thanh đáp rằng về Cực Lạc để tu thành Phật rồi trở lại Ta bà hóa độ chúng sanh. Lời đáp ấy có vẻ rất cao thượng mang tinh thần Bồ tát nhưng sự thật thì chính mỗi người tự biết rõ. Có hai ý xin trình bày để quý vị xem mà đánh giá sự thật của câu trả lời trên.

Thứ nhất, các vị tu Tịnh độ thường có ý niệm chán ghét Ta bà, cầu sanh về Cực Lạc với mục đích để chạy trốn khổ đau nơi Ta bà, mong được hưởng thụ sự an lạc sẵn có nơi Tịnh độ. Trong kinh Nam truyền (Pali) Phật dạy pháp quán ‘yểm ly’ với mục đích là để khuyến khích hành giả không tham đắm, chấp trước mà dễ chuyên tâm tu tập phụng sự, cống hiến; không hiểu từ đâu mà hành giả Tịnh độ lại hiểu chán ghétchạy trốn. Vả lại, ở Ta bàmột thế giới có khổ có vui mà hành giả còn chưa phấn đấu tinh tấn tu tập đúng mức thì lấy gì bảo đảm là quý vị sẽ tu tập ở một nơi hoàn toàn sung sướng. Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với lời dạy của đức Phật Thích Ca và chính tự thân Ngài chứng minh lời dạy ấy. Đó là chỉ có cõi Ta bà này là nơi phù hợp nhất để tu hành chứng nghiệm giác ngộ, giải thoát.

Thứ hai, hiện tại chúng ta không tu cho bản thân mình và giúp những người thân xung quanh trong khi ta có đủ điều kiện thì liệu ai tin rằng ta sẽ trở lại Ta bàđộ sanh. Một lời hứa hẹn không có cơ sở thực tế. Hơn nữa, không có đức Phật, Bồ tát nào phát nguyện tu tập tại cõi hạnh phúc (Cực Lạc) để được chứng ngộ rồi sau đó đến cõi khổ đau độ sanh cả. Từ Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni cho đến Đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng, v.v…. Vậy thì, hành giả Tịnh độ mong về Cực Lạc tu pháp môn gì, thực hành phước báo gì để thành Phậtpháp môn ấy có phù hợp với hạnh nguyện của Phật A Di Đà và chư Bồ tát đã và đang thực hiện không?!

Liên hệ đến Niết bàn, nhiều người cũng quan niệm sai lầm khi cho rằng Niết bàn là chết, hay Niết bàn hữu dưvô dư. Quan niệm Niết bàn là chết làm cho Phật giáo trở nên yểm thế. Sự thật, đức Phật và các vị A-la-hán chứng Niết bàn ngay khi còn sống và giáo hóa chúng sanh ngay trên cõi đời này, và Niết bànNiết bàn chứ không có hữu dư hay vô dư vì không thể đồng nhất sự tồn tại xác thân với Niết bàn. Có gì khác nhau giữa Niết bàn khi còn xác thân và khi xác thân tan rã!? Vấn đề chỉ là do chính chúng ta chủ quan dựa trên hiện tượngphân biệt thôi.

Để giải quyết vấn đề này thì không có gì hay hơn là hiểu đúng ý nghĩa vãng sanh. Chư vị tổ sư, các bậc tôn túc đã chỉ dạy vãng sanhvượt qua phiền não. Khi vượt thoát hoàn toàn phiền não tức là vãng sanh hoàn toàn, là Niết bàn, là Tịnh độ. Và do đó, cầu vãng sanh là cầu giải thoát, Niết bàn chứ không phải chỉ là cầu về Tây phương sau khi chết. Vãng sanh đồng nghĩa với chết là phương tiện, là niềm tin còn vãng sanhthoát khỏi phiền não mới đích thực là giáo pháp của đức Phật. Cầu vãng sanh như thế thì vãng sanh càng nhanh càng tốt và chắc chắn không ai từ chối cả.

Sự ngộ nhận vãng sanh như là một ‘ca vãng sanh’

Đã hiểu vãng sanh như là sự chấm dứt phiền não thì vấn đề hộ niệm sẽ được hiểu đúng và không bị rơi vào tình trạng ngộ nhậnvãng sanh như một ca’. Nhiều nhóm cư sĩ làm công việc hộ niệm cho người chết, sau khi đám tang xong thì cho rằng đã hoàn thành một ca vãng sanh. Những người hộ niệm phiền não còn quá đủ, người chết phiền não cũng còn dư. Vậy mà những tuyên bố như thế cũng làm bao nhiêu người mê và ca ngợi không ngớt. Ngay cả đức Phật khi được hỏi về trường hợp sau khi chết của các đệ tử, Ngài cũng chỉ trả lờitái sanh về cõi lành. Đành rằng quý vị hộ niệm có ý mong muốn tốt nhưng khi tuyên bố một việc không có thật hay do mình ảo tưởng, nhất là những việc có ảnh hưởng đến sự thăng trầm của kiếp người thì thiết nghĩ quý vị rất nên thận trọng. Đừng vì đam mê một chút tiếng tăm mà ta bị tổn phước báo khi gây hoang mang và tạo sự ỷ lại cho nhiều người chưa hiểu đạo Phật. Ấy là chưa kể những việc làm mâu thuẫn khác như là đọc tên cầu siêu….. Đã tuyên bố vãng sanh rồi thì phải mừng chứ sao lại còn khóc, còn đọc tên cầu siêu mà không thay bằng sự tưởng niệm mang tính tri ân giáo dụcvui mừng. Xin quý vị suy ngẫm lại xem để tránh tự lừa chính mình.

Khi đã hiểu ý nghĩa và điều kiện vãng sanh thì những người làm công việc hộ niệm không còn ngộ nhận ‘có hại’ như trên và gia quyến người chết cũng không bị ‘ảo tưởng’. Hộ niệm là một việc làm đáng khích lệ vì đó là hành động trợ duyên tích cực cho cả người chết và gia đình thân quyến của họ. Nó như là một sự nhắc nhở tích cực để người mất tỉnh thức quay về đường thiện, tái sanh cõi lành. Chư Phật, Bồ tát luôn cứu độ, tiếp dẫn bằng con đường hướng đạo với vai trò là bậc đạo sư như chính đức Phật Thích Ca vậy. Việc hiểu lầm vãng sanh là do hộ niệm dẫn đến thái độ ỷ lạimong mỏi rằng khi chết có nhiều thầy cô, ban hộ niệm đến tụng kinh mới được vãng sanh cần phải xem lại. Đáng tiếc, nhiều người xuất gia cũng có tư tưởng như thế huống gì những người tín ngưỡng. Tất cả chỉ vì sự lạm dụng hai chữ ‘phương tiện’ trong khi truyền bá Phật pháp.

Tu tịnh độ theo tinh thần nhân quả

Giáo lý nhân quả là một tuyệt phẩm của đạo Phật do đức Phật giác ngộ và truyền dạy lại. Nhân quảchân lýcon người có tin hay không tin, có chấp nhận hay không chấp nhận. Hành giả muốn tin thế giới Cực Lạc là cõi vật chấtTây phương hay là cảnh của tâm bao trùm tam thiên thế giới điều đó không trở ngại gì đến sự vãng sanh. Quan trọng là chúng ta phải dứt sạch phiền não. Đó chính là chánh nhân để vãng sanh ngay hiện tạicảnh giới Tây phương.

Muốn đạt được chánh nhân ấy, tâm hành giả phải luôn thanh tịnh (nhất tâm bất loạn) hay chánh niệm tỉnh thức. Tâm ấy chỉ có thể đạt được khi miệng nói lời chánh ngữ hay luôn niệm Phật và thân phải tu thiện, tạo phước, cứu giúp mọi người và muôn loài. Thành tựu được tâm bất loạn hay chánh niệm tỉnh thức và đầy đủ phước đức thì hành giả đã thành tựu vãnh sanh. Khi ấy, hành giả nguyện sanh về Cực Lạc hay bất cứ nơi đâu cũng không có gì trở ngại.

Từ bicứu khổ là bổn nguyện của tất cả chư Phật. Tuy nhiên, ba đời chư Phật chưa vị Phật nào phủ định nhân quả hay thay đổi nhân quả bằng năng lực thần thông. Nghĩa là Phật không bao giờ ‘đặc cách’ cho bất cứ một chúng sanh nào để cứu độ khi mà họ chưa dứt sạch nghiệp vì làm như thế là phủ định nhân quả hay ‘đạp lên’ nhân quả. Do đó, chúng ta không cần quá bận tâm việc Phật cứu độ theo nghĩa ‘nghĩa đen’ nữa mà nên dành trọn thời gian để tạo chánh nhân theo lời Phật dạy tức là dứt sạch hoàn toàn phiền não, đạt tâm bất loạn (chánh niệm) và đầy đủ phước đức thì khi ấy không phải Phật đang cứu độ ấy sao!

Tịnh độ là một pháp môn có nhiều tranh luận vì có nhiều sự lý giải khác nhau. Do đó, thay vì phủ bác lẫn nhau thì chúng ta hãy tiếp nhận sự kiến giải khác nhau từ đa chiều rồi tư duy quán chiếu theo tinh thần Phật dạy trong kinh Kalama. Từ đó, mỗi người sẽ tìm thấy cho mình hướng đi đúng, phù hợp với giáo lý cốt yếu của Phật giáo.

Hãy thận trọng khi tuyên bố những gì mình chưa chứng nghiệm, nhất là những tuyên bố chỉ dựa vào niềm tin kinh điển mà không phải dựa trên nhân quảpháp ấn của đạo Phật. Hậu quả của nó khó mà lường hết được!

Hành giả Tịnh độ vẫn được khuyến tấn tin Phật A Di Đà cứu độthế giới Cực Lạc để tu tập tinh tấn hơn. Tuy nhiên, tu tập là một quá trình chuyển hóa thân tâm. Niềm tincầu nguyện là chất xúc tác để hành giả thực hành tinh chuyên hơn. Nhờ chất xúc tác mà hành giả niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn thì vãng sanh có mặt hiện tiền. Có thể các bạn không đồng ý nhưng đó là điều các bạn có thể trải nghiệm được ngay bây giờ và tại thế giới này. Các bạn có quyền nghĩ về tương lai ở Cực Lạc nhưng lời khuyên chân thành là đừng đánh mất giá trị cuộc sống hiện tại hay hiểu một cách khác là đừng đánh mất ‘Tịnh độ hiện tiền.’

Hư Thật Mộng
[1] Thuyết này chủ trương thế giới và tự ngã thường còn. Bà-Phù-Đà-Ca-Chiên-Diên (Pakudha-Katyayana) – một trong sáu vị thầy ngoại đạo thời đức Phật, chủ trương thuyết này. Ông cho rằng tâm vật nhị nguyên bất diệt.

[2] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Last_Judgment

[3] Năm uẩn của con người gồm sắc thân cộng với phần tâm gồm cảm thọ, tri giác, suy nghĩnhận thức đều vô ngã. Dù gọi thần thức hay linh hồn thì thần thức hay linh hồn đó phải là vô ngã.

[4] Pháp ấn gồm Vô thường, Khổ, Vô ngã, Niết bàn hay Vô thường, Khổ, Vô ngã (theo Nam truyền).

[5]Xem thêm bài viết ‘Tịnh độ là lòng trong sạch, Di Đà là tính sáng soi’ của TT. Thích Phước Đạt (http://hoavouu.com/D_1-2_2-242_4-21667_5-30_6-1_17-47_14-2_15-2/tinh-do-la-long-trong-sach-di-da-la-tinh-sang-soi.html)

[6] ‘Mạc đạo Tây phương cận, Tây phương thập vạn trình, Di Đà thùy tiếp dẫn, vô tử diệc vô sanh’

[7] ‘Mạc đạo Tây phương viễn, Tây phương tại mục tiền, thủy lưu quy đại hải, nguyệt lạc bất ly thiên.’ Xem thêm bài ‘Ý nghĩa vãng sanh’ của TT Thích Viên Giác (http://hoavouu.com/D_1-2_2-242_4-21664_5-30_6-1_17-47_14-2_15-2/y-nghia-vang-sanh.html)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15482)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22897)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13953)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12900)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54954)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9060)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14344)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14084)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13812)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19783)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18096)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19101)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19044)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20192)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31381)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15848)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35795)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20950)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21473)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34166)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19404)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18821)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22832)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19738)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54358)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37551)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21043)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17797)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27259)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20169)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18812)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16253)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17796)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20851)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17272)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14388)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16285)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15926)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21858)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15008)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13408)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15305)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14909)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13274)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27315)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13114)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16131)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12326)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12806)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13113)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21508)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11205)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14940)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46044)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22321)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14378)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12521)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56808)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13566)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28877)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15328)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31100)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43245)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46471)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14317)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant