Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dừng tâm sanh diệt

04 Tháng Ba 201200:00(Xem: 15911)
Dừng tâm sanh diệt
DỪNG TÂM SANH DIỆT
HT. Thích Nhật Quang
(Thiền Viện Thường Chiếu)


Chúng tôi chọn viết đề tài dừng tâm sanh diệt là nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.

Tôi nói: Nếu đạo hữu bắt được những vọng tưởng ấy đem tới đây, tôi quất cho nó mấy roi. Bằng như đạo hữu không bắt được, tôi cũng không biết làm sao hơn. Hòa thượng thường dạy: Vọng tưởng không thật, đừng theo nó thì yên. Ngày xưa một thiền sư Trung Hoa nói với người học trò hỏi đạo thế này: Ma quỷ nào dẫn ông tới đây hỏi đạo?. Ông đệ tử không trả lời được. Thật ra niệm tưởng là gì? Nó là những dấy niệm. Chữ niệm là nhớ nghĩ. Sự nhớ nghĩ thì đa dạng, nó ra sao mình không biết, dài ngắn thế nào không hình dung được. Nó có mặt vào những lúc mình không thích tí nào hết. Lúc nghỉ ngơi, ăn uống, tụng niệm, tọa thiền v.v.. nó cứ trào dâng với đủ thứ hình thức, cái còn lại trong chúng ta sau khi nó tới viếng là phiền não. Bởi vì nó tới quấy rầy choáng hết một khoảng thời gian, sự an tĩnh của chúng ta mất hết. Cho nên nghĩ đến công phu tu hành mình không vui. Như người khách mình không thích tiếp, không muốn tới mà họ cứ tới hoài, quý vị sẽ phiền não chứ gì. Mình muốn nói thẳng: Tôi không thích ông nữa. Nhưng có ai mà dám nói thẳng đâu, nên nó xìu xìu ểnh ểnh, chùng chùng, thẳng thẳng, thành ra phiền não, bất ổn.

Cho nên điều mà ở đây chúng ta cần trao đổicông phu. Chúng ta phải làm sao có được một chút thiền định. Như nghe người nào nói: Sao con cứ bị vọng tưởng quấy rầy hoài, mình biết công phu của vị đó chưa được định. Bây giờ chúng ta phải làm sao để được thiền định? Trong công phu tu hành, nếu mình có thiền định thì trí tuệ phát sinh, bấy giờ vọng tưởng lăng xăng không làm gì được ta. Thật ra chúng tôi cũng còn niệm tưởng, nhưng tôi không quan trọng nó. Nó muốn tới thì tới, muốn đi thì đi, tôi không quan tâm, việc tôi tôi cứ làm. Những lúc nào chúng ta làm chủ được thì nó đứng ngoài cửa ngó thôi, không làm sao động đến ta nổi.

Bây giờ tôi đề nghị quí Phật tử khi vọng tưởng lăng xăng đến mình cứ mặc kệ nó, không phiền, không bận tâm, không nghĩ ngợi gì về nó. Miễn làm sao tâm chúng ta vững, tròn đầy thì tự nhiên vọng tưởng không làm gì được mình. Đó là một cách để chúng ta nuôi dưỡng công phu. Theo lời Phật dạy, người tu thiền mạnh trị vọng tưởng rất dễ. Do sức thiền định của chúng ta yếu nên khó yên ổn, vọng tưởng cứ quấy rầy hoài. Quý vị nghiệm lại xem trong một ngày, sự tu tập của mình cứ loay hoay với ba thứ gì đâu. Cuối cùng chúng ta thấy hôm ấy trôi qua một cách vô lý, mình không làm được gì.

Nghĩ cho cùng không ai bắt chúng ta đi mãi trong luân hồi, mình cũng thừa biết vòng luân hồi luẩn quẩn, lọt vô đó rồi thì cứ loay hoay mãi, không ai gỡ ra được. Đức Phật thị hiện nơi đời chỉ dạy những phương pháp để chúng ta dừng, cắt đứt vòng loay hoay luẩn quẩn đó, nhưng chúng ta làm chưa được. Bởi thực tế hiện tại những niệm tưởng ta chưa dứt được, những lăng xăng dấy niệm vẫn còn. Bây giờ chúng ta phải cố gắng! Nghĩ lại coi ai bắt mình đi trong đó? Tại sao mình đi tu? Thật ra đâu có ai bắt, vọng tưởng cũng không đem dây đem hèo gì tới bắt mình theo nó, tự nhiên mình cứ như vậy. Cuối cùng quả thậtđịnh tuệ của mình yếu quá, nên chúng ta bị loay hoay như vậy.

Bây giờ tập trung tu hành làm sao để chúng tasức mạnh. Sức mạnh bằng trí lực, dũng lực, bằng sự tỉnh táo. Có sức mạnh ấy ta mới trị được những thứ kia. Tu làm sao để không bị luân hồi sanh tử nữa, đừng loay hoay lẩn quẩn nữa, thật là khó ghê lắm. Bởi vì thói quen lăng xăng mình chưa chịu dừng. Nhiều vị nói: Thưa thầy con đến thiền việnnhất định tu đến chết thôi. Tôi bảo: Tốt! Phải có tinh thần, có tâm mãnh liệt như vậy mới tu được, mới xứng đáng. Nhưng ở trong chùa đâu được mười ngày, lại thưa: Thầy ơi! Ở nhà kêu con về. Hỏi về làm gì? Nói không biết nữa, cứ điện thoại lên kêu con về, nhất định phải có mặt con mới giải quyết được. Đó, cứ như vậy thôi. Lần nầy điện thoại kêu về, lần sau tự dưng tới khoảng đó quí vị tự về.

Ngoài ra còn nhiều thứ khác nữa. Chẳng hạn nhức đầu quá phải đi bác sĩ, hổm rày ăn không được phải đi bác sĩ, hai chân đau phải đi bác sĩ, con mắt lem nhem phải đi bác sĩ v.v.. trăm ngàn thứ việc. Như vậy làm sao tập trung được tỉnh lực để yên tu, đạt được định tuệ. Với cuộc diện này, nhìn chung chúng ta yếu thế hơn vọng tưởng. Nghĩ cũng lạ, phải chi mấy thằng vọng tưởng nó to lớn hay hung tợn mạnh mẽ nên mình ngán mình sợ, đằng này không thấy mặt mày nó ra sao, nhưng nó lôi tới đâu là mình theo tới đó, mà chẳng thể làm gì nổi nó.

Bây giờ đối với vọng tưởng chúng ta phải làm gì? Phải khởi lên một sự quyết tâm, một niệm kiên quyết mình không chơi chung với nó, không chấp nhận nó, nó rủ mình đi mình không đi, có điện thoại tới liền cắt đứt v.v.. như vậy mai ra mới có thời gian tu. Tôi nghĩ ngày xưa Bồ tát Sĩ Đạt Ta ở trong khổ hạnh lâm sáu năm, nếu ngài cứ bị triều đình gọi điện thoại về hoài chắc là không thiền định gì được. Không đắc cả những pháp tu của ngoại đạo, hà huốngđịnh tuệ, trí lực của pháp giác ngộ giải thoát. Nhờ Bồ tát Sĩ Đạt Ta kiên quyết một phen qua sông, ngài quyết liệt tăng tiến cho tới thành Phật. Sau khi thành Phật rồi, ở nhà năm lần bảy lượt cho người mời về, chớ không phải gọi bằng điện thoại nha, bấy giờ Phật mới chịu về. Khi về ngài chủ động, chớ không phải bị sắp đặt chỗ này chỗ kia. Đọc lại những đoạn sử này mình thấy thích thú làm sao.

Tin đức Thế Tôn trở về Ca-tỳ-la-vệ, Tịnh Phạn vương và thần dân, hoàng thân quốc thích chuẩn bị một cuộc đón rước thật long trọng. Tuy nhiên Phật không báo trước về lúc nào, đón rước ở đâu, ăn nghỉ ra sao. Triều đình cũng cho người hỏi han tin tức nhưng Phật không nói. Ngài về bất ngờ trong hình ảnh một vị khất sĩ hướng dẫn tăng đoàn đi khất thực từng nhà. Thành ra sự chuẩn bị linh đình của triều đình không dính dáng gì tới Thế Tôn cả. Ngài dẫn đệ tử đi khất thực, khất thực đầy bát rồi về, cứ cơm sẵn đó mà dùng đúng như pháp.

Hình ảnh này cho chúng ta một bài học thật quí báu. Chúng ta đi đâu sắp về là điện thoại báo "Trưa nay nấu cơm nha, thầy đi với mấy chục Phật tử nữa đó. Ra chợ coi cái gì ngon mua về nấu". Do vậy ở nhà phải tính toán đúng giờ, tất bật chuẩn bị đủ thứ. Thấy như bình thường nhưng rõ ràng mình mất chủ động. Đáng lẽ trên đường mình tự do, muốn đi thì đi, muốn ngừng thì ngừng, chừng nào về tới thì tới, không quan trọng việc đặt định ở nhà phải cơm nước, như vậy khoẻ hơn không. Mình đi đứng tự tại, nói làm tự tại, không bị lệ thuộc bởi điều gì cả. Đàng này dính mắc cơ sở, sự sắp đặt... đủ thứ. Nghiệm từ những việc nhỏ rồi tới những việc lớn, sự tu hành vì thế khó giải thoát quá. Rất khó, chớ không phải đơn giản.

Ngày về của đức Thế Tôn ở cung thành Ca-tỳ-la-vệ, bao nhiêu người trọng vọng, đón rước, cả vua Tịnh Phạn cũng thế. Nhưng Thế Tôn thực hành đúng theo nghi luật của một đức Phật. Ngài không để sự thân thương của gia đình, tổ quốc làm trở ngại phép ứng xử của một đức Phật. Người tu chúng ta bây giờ không khéo còn dính mắc hơn ai hết. Như từ đây tôi về Đà Lạt thăm Hòa thượng, vừa tính đi thì mấy chú thị giả biết, liền điện thoại lên Trúc Lâm báo: Bữa nay thầy về đó nha, khoảng mấy giờ đó là tới. Mỗi lần thông tin như vậy, có khi Hòa thượng lo. Ngài trông Ủa! Nghe nói chú đi hồi sáng mà tới chiều mới tới, xe có sao không, đi gặp chuyện gì không... Quý vị thấy, những vướng mắc của mình ảnh hưởng đến chung quanh. Cho nên chúng ta cố gắng làm sao gói gọn lại, tháo gỡ lần ra, để cho hơi thở, cho sự sống của mình được tự do tự tại một chút.

Bây giờ chúng ta phải định vị lại, định vị cái gì? Định vị chúng ta là một chúng sanh còn trong luân hồi sanh tử hay đã giác ngộ giải thoát? Nghe thầy dạy tất cả chúng sanh đều có tánh giác, ta phải sống được với tánh giác thì mới tự tại, mới giác ngộ giải thoát. Nhưng bây giờ chúng ta biết được tánh giác ấy chưa, sống được với nó chưa, hay chỉ nghe và nói qua danh từ? Với người tu, tôi nghĩ mình phải biết mình. Người xưa dạy chúng ta phải phản quan, phải biết mình như thế nào. Tôi nghĩ trong công phu, sự tỉnh giác mạnh mẽ và sự khiêm cung trên bước đường tu tập sẽ giúp cho hành giả đẩy lùi vọng tưởng một cách có hiệu quả.

Hòa thượng thường động viên chư tăng: Mấy chú phải tỉnh, nghe tiếng kiểng liền ngồi dậy, cuốn mùng liền, dù muỗi mòng gì cũng cuốn lại. Rửa mặt rồi đi tới đi lui, hít thở. Nếu thấy hơi lừ nhừ, uống thêm vài hớp trà rồi đi ngồi thiền. Trong những thời điểm mình thấy mắt không muốn mở ra, chân không muốn đứng lên, dậy cứ ngồi đó không chịu rửa mặt, nếu mình chìu theo nó, thì nó dẫn đi đâu? À, ngồi đó một chút là ngã ra, nằm xuống. Nằm xuống rồi không biết gì nữa. Tới chừng giựt mình thức dậy nghe đâu năm giờ, người ta xả thiền rồi. Như vậy suốt hai tiếng đồng hồ, mình ở trong si mê, tăm tối. Cho nên thiền sư nói hôn trầmma quỷ, quả đúng như vậy. Mình đâu biết gì nữa, nó dẫn đi tuốt luốt không hay. Cũng tại tâm không quyết liệt, xìu xìu ểnh ểnh mà ra nông nổi ấy.

Nếu chúng ta cố gắng, mãnh tỉnh một chút thì sẽ vươn lên, vượt qua những trạng thái đó. Nghiệp tập chúng ta vốn sâu dày mà công đức cạn mỏng, nếu không cố gắng làm sao tu được. Các thiền sư thường nhắc: Ông đợi tới chừng nào mới kết thúc sanh tử? Lúc còn tỉnh táo, có thể kiên quyết, có thể lập định thế này thế khác thì phải cố gắng thực hiện cho bằng được. Chớ đợi tới khi không làm chủ nổi thân này, đầu óc mù mờ, thân thể mệt mỏi thì đâu có tu được nữa. Cho nên chúng ta phải định vị để cố gắng vươn lên, nhất định chúng ta phải thoát ra khỏi con đường trầm luân sanh tử.

Bồ tát Sĩ Đạt Ta khi ngài khổ hạnh triệt để, thân thể gầy còm, không thể tưởng tượng nổi. Trong sách diễn tả, hai ánh mắt của ngài sâu hóm như đáy giếng. Thân chỉ còn một chuỗi xương sống thôi, ngài biết con đường tìm đạo của mình trước đây chưa rốt ráo, chưa viên mãn. Do vậy ngài kiên tâm quyết chí phải đi cho tới viên mãn. Từ đó ngài nhận bát sữa của nàng mục nữ và đi tới dưới cội Bồ-đề, trải cỏ ngồi với một lời thề kiên quyết: Dù thịt nát xương tan, nếu chưa đạt được đạo quả vô thượng thì ta nhất định không rời khỏi chỗ ngồi này. Phải ý chí lẫm liệt như vậy mới có một ngày mai giác ngộ rực rỡ. Chúng ta ngược lại, cứ chấp nhận ngã xuống rồi ngáy lên, tới chừng trời rực sáng là đã năm giờ. Bữa nào rủi ro như vậy, sáng mai nghe đánh bảng ăn cơm, mình tự thấy xấu hỗ làm sao, thấy không xứng đáng tí nào hết. Anh em dậy tu, người nấu cơm chịu nóng, chịu lạnh, dọn lên cực khổ, bây giờ nghe bản mình lên ăn tỉnh bơ. Ngày nào cũng như vậy thì biết thành cái gì?

Đối với tâm sanh diệt, nếu chúng ta dứt được thì làm chủ vấn đề sanh tử. Thật ra chỗ này rất khó nói. Khi Hòa thượng giảng, có người hỏi: Người tu Tịnh độ, lúc lâm chung niệm Phật A Di Đà thì được Phật rước, mình tu thiền tới lúc lâm chung ai rước? Các thiền sư nói đó là lúc tự tại chọn đường mà đi, chứ không ai rước hết. Chỗ nào chúng sanh cần đến độ thì tới độ. Tới như một sứ giả chứ không phải bị nghiệp dẫn. Rõ ràng như vậy, khi niệm lăng xăng dứt được thì sanh tử dứt được. Đi đứng nằm ngồi trong mọi giờ giấc kiểm nghiệm, mình thấy niệm lăng xăng chưa dứt, thì biết vòng luân hồi chưa thể dứt.

Chúng ta muốn dứt niệm lăng xăng khó hay dễ? Rất dễ cũng rất khó. Đừng chạy theo nó thì dễ, còn chạy theo nó thì khó. Hoà thượng dạy chúng ta phải chủ động, đừng để nó chủ động mình, phiền lắm. Chúng ta đều biết vòng luân hồi sanh tử nếu không dừng được thì chúng ta còn khổ. Biết sẽ khổ mà cứ lao tới, đó là người không có trí tuệ. Các thiền sư nói khổ lại thêm khổ. Thành thử bây giờ phải làm sao dừng được lăng xăng. Nghiệm lại quá trình tu tập, đối với những dấy niệm chúng ta còn nhiều hay ít thì đoán được kết quả của mình. Từ đó cố gắng, chứ khỏi cần trông cậy vào ai.

Có một đệ tử đến hỏi thiền sư: Thưa thầy con có Phật tánh không? Thiền sư đáp: Không có. Vị đệ tử ngạc nhiên hỏi lại: Tại sao Phật bảo tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mà thầy lại nói con chó không có Phật tánh? Thiền sư đáp: Tại vì có mà không dám nhận thì cũng như không có. Quý vị thấy phải vậy không? Mình biết dễ mà tu không được kể như khó chớ gì. Dễ mà khó. Khó nhưng rất dễ. Đây là chỗ ách yếu trong công phu tu hành của chúng ta.

Trong cuộc sống hiện tại, nếu chúng ta không chỉnh đốn công phu, cứ để ngày qua ngày, trôi theo các sự duyên, trong tâm luôn dấy niệm loạn tưởng, thì làm sao tự chủ để đi con đường mình chọn. Thiền sư thì phải làm chủ, không bị nghiệp dẫn. Nghiệp là cái gì? Nghiệp là năng lực tạo tác từ thân khẩu ý. Thân làm gì, miệng nói gì, ý nghĩ gì, các thao tác ấy tạo thành năng lực, năng lực đó hình thành nghiệp lực. Nghiệp lực dẫn mình đi thọ báo. Ví dụ chúng ta hay nói lời gì, làm gì, lâu dần thành quen, nó dẫn mình đi theo hướng đó. Rồi ý nghĩ, như xưa nay mình chuyên môn nghĩ xấu thiên hạ, thì ý nghĩ ấy tạo thành năng lực, đẩy mình đi tới chỗ hễ nghĩ là nghĩ xấu thiên hạ.

Người tu phải chủ động ba nghiệp thân, khẩu, ý. Đó là cách chúng ta khống chế năng lực xấu. Được thế ta mới tự tại, còn không khống chế nó, không có năng lực gì hết thì đâu thể tự tại. Nếu muốn trước giờ phút lâm chung tự tại chọn đường đi thì ngay đây ta phải tự tại. Bây giờ mình chưa tự tại nên ngồi nghĩ một hồi thì toát mồ hôi lạnh. Thiền định chưa vững, thầy dạy phải tỉnh mình cũng chưa tỉnh, xìu xìu ểnh ểnh, buổi khuya ai nấy đều dậy ngồi thiền còn mình nằm ngủ. Thói quen xấu chưa dừng được tức là còn bị nghiệp lôi.

Chư huynh đệ nhớ, khi thấy tay chân quờ quạng, hơi thở yếu, ta không còn chủ động được là biết lúc này mình sắp từ giã. Đừng sợ, đừng hoảng hốt thì mới không đi vào các đường dữ. Bằng ngược lại, nghiệp lực sẽ dẫn chúng ta thọ sanh ở những nơi tương ưng. Trong kinh nói rằng người vừa nhắm mắt, tự nhiên thấy trời nổi sấm sét, rồi tiếng hú, tiếng gầm của cọp beo thật ghê gớm, đương sự mất tự chủ. Bấy giờ bên cạnh không có đệ tử, cũng không thân thuộc, không có cha mẹ, hoảng quá rồi chạy lẩn quẩn. Thấy có lùm tre gai nào đó liền tới núp cho cọp beo đừng xơi. Nhưng vừa núp vô, mở mắt ra thấy mang lông đội sừng, chuyển sang đời khác. Nghiệp dẫn chúng ta đi chớp nhoáng như vậy. Nguy hiểm ghê chớ đâu phải chuyện đơn giản. Do vậy cần phải định vị kiểm thấy mình chưa sáng, còn nghiệp nào xấu nhiều thì phải lo tu sửa, đừng để tới lúc sắp lâm chung, không thể tu kịp nữa.

Huynh đệ nghĩ rằng, khi mình lâm chung có những bậc thầy, những huynh đệ đến nói lời khai thị, nếu được như thế thì tốt. Giả như không có thì sao? Cho nên ngay trong khi sống, mình luôn nhớ những lời khai thị thì mới đảm bảo lúc lâm chung an ổn. Thầy tổ chúng ta thường dạy, người tu phải quan tâm vào việc chính của mình, không để dính mắc chuyện bên ngoài. Có ông thầy nào dạy đệ tử tu thì cứ tu, nhưng chuyện làm ăn lỗ lã của ai con phải biết dùm không? Không có. Chẳng có thầy nào dạy kỳ vậy. Chỗ này chúng ta chính chắn nghiệm lại, xem mình có làm đúng lời thầy dạy chưa, hay mình còn quan tâm nhiều thứ bên ngoài? Thí dụ chiều chiều ra ngồi gốc Bồ-đề, thấy xe chạy rần rần, thiệt là sảng sốt. Rồi nghĩ, không biết mấy anh em chạy tới đâu, có chuyện gì không? Nghĩ rồi tưởng tượng, vẽ thêm sự việc. Có một người trong nhóm năm bảy huynh đệ nói chuyện xe đụng ở bên tây bên tàu gì đó. Chuyện vừa dứt thì chuyện xe đụng ở Sài Gòn hay Vũng Tàu được kế tiếp. Hết Sài Gòn, Vũng Tàu tới các tỉnh miền nam rồi miền bắc. Tự nhiên buổi chiều hôm đó xe đụng tùm lum hết. Cuối cùng đứng dậy ngơ ngác, vọng tưởng dẫn cả đám đi nhà thương. Việc người ta chạy báng mạng ngoài đường có dính dáng gì tới mình đâu, mà suốt buổi chiều xúm nhau, cấm đầu vô đó mà tưởng tượng, mà nói thôi là nói. Đó là gì? Là điên đảo vọng tưởng, là không soi xét lại chính mình mà chiếu lộn ra bên ngoài. Thành ra tầm bậy, khiến cho ba nghiệp không thanh tịnh.

Là người tu, chúng ta phải quan tâm vào việc của chính mình ngay bây giờ. Ta đang ngồi đây, làm gì? Đang ngồi tự tại, không làm gì hết. Nhớ luôn quan tâm như vậy, không để niệm lăng xăng phóng ra, thì mới làm chủ được. Còn nếu ngồi đó mà nói chuyện năm trên năm dưới thì tu không biết chừng nào cho xong. Đó là ta không chiếu cố, không chủ động, không xoay lại, không quan tâm chính mình. Việc làm của chúng ta là vừa nghĩ tới chợ Phước Thái liền chặt, nghĩ Sài Gòn chặt, nghĩ Vũng Tàu chặt, nghĩ Đà Lạt cúp luôn. Như vậy mình mới yên. Nếu chúng ta chỉ chuyên tâm chiếu cố việc của mình, đừng chạy ra ngoài, thì ngay đó trí tuệ rực sáng, mình có thể dừng bớt vọng tưởng dễ dàng.

Bây giờ chúng ta có thể đoán biết tại sao mình nhiều vọng tưởng? Tại vì mình cứ nghĩ ngợi, cứ lo ra hoài. Bộ phận đầu não cứ lao lư hoài, từ đó hình thành những dấy niệm, vọng tưởng thế này thế khác. Bây giờ làm sao đừng để như vậy nữa. Đó là điều rất khó nhưng không phải là không làm được, nếu chúng ta chịu làm. Hoà thượng dạy niệm vừa dấy lên liền biết, thì cái biết đó là chân tâm. Ngài chỉ thẳng như vậy cho chúng ta tu, nhưng nếu huynh đệ không chịu thực hiện, cứ xìu xìu thì tới lúc bỏ thân này chúng ta sẽ quờ quạng. Cho nên bây giờ phải hạ quyết tâm nỗ lực tu hành.

Chúng ta biết rằng mình đã lang thang trong luân hồi sanh tử nhiều đời kiếp rồi, bây giờ là lúc phải dừng. Biết luân hồi sanh tử khổ, đã nếm cái khổ đó nhiều rồi, bây giờ phải tự ý thức, tự dừng, tự mình làm chủ, đừng để nó kéo lôi lang thang nữa. Như hôm nay, huynh đệ chúng ta đang ngồi lắng nghe cách hành trì tu tập để được tự tại đối với các pháp, không bị luân hồi sanh tử nữa. Đó là một bước tiến. Do đó chúng ta biết cách dừng, biết sợ luân hồi sanh tử thì kết quả sẽ bớt trôi lăn. Như Phật nói: Người tại gia bị gia duyên ràng buộc như gông cùm, biết như vậy rồi quí vị không để cho những thứ đó bận bịu mình nữa. Đó là một cách vươn lên, vùng lên để được giải thoát.

Đã có cách rồi, bây giờ chúng ta phải gì? Phải nỗ lực, phải tinh cần. Vọng tưởng không có hình tướng gì hết, nhưng nó có sự hấp dẫn, vì vậy mình dễ lao theo. Bây giờ ta phải giành quyền làm chủ. Làm chủ ban ngày, làm chủ ban đêm, làm chủ luôn cả trong giấc ngủ và tất cả các sinh hoạt của mình. Dĩ nhiên thời gian đầu chưa quen ta bị rối loạn, không được như ý, nhưng không nản chí cứ tiếp tục thực hành như thế, dần dần ta sẽ làm được. Trước tiên chúng ta dừng được một số niệm tưởng lăng xăng, từ từ hạ quyết tâm phải chiến thắng toàn bộ bọn chúng.

Thiền sư Phù Dung thường nhắc nhở: Các ông đi trong luân hồi sanh tử đã nhiều lần, bây giờ cố gắng ngay trong đời này phải giải quyết cho xong, đừng đi theo lối mòn đó nữa, chỉ toàn khổ ách mà thôi. Biết khổ thì đừng lao tới, phải dừng, phải tự khắc phục lấy. Các ông hạ thủ công phu giống như người trồng hoa trên đá. Chúng ta luôn quan tâm, xét lại việc bổn phận của mình, dù khó khăn bao nhiêu cũng cố gắng, nhất định sẽ thành công. Tóm lại, làm sao dứt được luân hồi sanh tử, đó là điều cốt yếu nhất của người tu.

Muốn dứt luân hồi sanh tử phải làm chủ được những dấy niệm, đừng để nó chi phối mình. Làm chủ cách nào đây? Quí vị sắp đặt trong nhà có tấm bảng nhỏ, trên đó ghi rõ năm giờ sáng thức dậy ngồi thiền, sáu giờ ăn cơm, bảy giờ làm việc, mười một giờ nghỉ... sắp cho tới năm giờ chiều. Đã ghi trên đó thế nào thì làm y như vậy. được thế là tập trung, là có sức mạnh. Chúng ta muốn tu đạt kết quả tốt thì phải đủ bản lĩnh giải quyết việc của mình, không để lơ lững nữa. Ví dụ năm giờ là giờ tọa thiền, gần năm giờ có bà bạn điện thoại tới nói: Chị ơi! Bữa nay mình đi chơi chỗ này vui lắm. Nếu quý vị có quyết tâm trong việc tu hành, sẽ trả lời: Cảm ơn chị, năm giờ em có việc. Cắt một cái rụp, khỏi giải thích gì hết. Làm được như vậy nhất định quý vị có sức mạnh, nhất định sẽ thành công.

Việc tu hành hằng ngày phải cương quyết đối với các dấy niệm, các vọng tưởng. Chúng ta cố gắng chủ trì nó, đừng để nó dẫn mình đi. Trong những việc đời thường, ta làm một cách an ổn, không để phiền não len vô, đó là sự định tỉnh thường nhật. Sự định tỉnh nếu được thực tập thường xuyên sẽ có sức mạnh phi thường. Như khi chúng ta ngồi thiền được định, đó là chuyện dĩ nhiên. Nhưng xả thiền ra mình còn định hay không, mới là chuyện đáng nói. Người có sức định tỉnh sâu, trí tuệ sáng suốt, thấy rõ các sự kiện trước mắt trong mọi thời điểm, mọi sinh hoạt. Đó mới là nội lực chắc thực.

Hành giả tu thiền không được ai đón như hành giả tu Tịnh độ, thì mình phải tự tại mà đi. Nếu không, khi thấy mưa, gió, sấm chớp, tiếng la hét, kêu thương của người thân v.v…làm mình không yên. Những thứ đó sẽ kéo lôi mình vào các đường xấu. Như vị nào trước phút lâm chung mà sân thì đi vào cõi ngạ quỷ. Thường thường khi gần chết, người ta nhớ lại đủ thứ chuyện cũ. Có người nhớ lại rồi sân, hoặc thân thể đau nhức quá cũng sân. Nhiều người đau quá không thể niệm Phật mà kêu trời, vì họ không làm chủ được thân đau nhức. Chúng ta đôi khi cũng vậy, vì hằng ngày không quen làm chủ nên tới lúc hấp hối, cận tử nghiệp quay mình. Bây giờ phương pháp tu hành chúng ta đã nắm, chỉ còn tích cực gầy dựng năng lực trong công phu, để đảm bảo có thể chủ động được trước phút lâm chung. Lúc này phải có sức mạnh mới cắt được dòng cận tử nghiệp.

Các thiền sư Việt Nam luôn dạy chúng ta phản quan tự kỷ, đó là việc bổn phận của mình. Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn. Chính mỗi người nghiệm xem coi mình làm chủ được chưa, rồi những huynh đệ chung quanh có làm chủ được không? Trong huynh đệ chúng ta có người làm chủ được, đó là tin vui, giúp mình tin tưởng rồi tất cả sẽ làm chủ được hết. Chúng ta tu thiền, Tổ bảo phải được định, có trí tuệ, chúng ta cố gắng tu cho được như vậy. Chớ biểu được định, chúng ta không định, không định làm sao có tuệ, mà không có định tuệ thì đâu làm chủ được.

Trong số các Phật tử đây, có nhiều vị đâu phải mới đi chùa ngày hôm nay. Tôi biết quý vị đã đi chùa nhiều năm tháng rồi, đã học Phật, đã có tâm tu hành mong cầu giác ngộ giải thoát, nhưng tại sao không được kết quả tốt. Đó là vấn đề quí vị phải suy nghĩ. Các thiền sư nói: Mỗi chúng ta đều có chân tâm, có bản lai diện mục, có Phật tính. Phật tính là gì? Là chất Phật thật. Có sẵn tánh Phật chúng ta mới tu thành Phật được. Nếu không có tánh Phật mình tu không thành Phật đâu. Chúng ta có sẵn nhưng vì bỏ quên, ngược xuôi theo trần cảnh bên ngoài nên lắm lem. Bây giờ cố gắng xoay về, nhận lại tánh Phật ấy thì hết khổ, hết lang thang trôi dạt trong sáu nẻo luân hồi. Đó là chúng ta biết tu.

Thiền sư Hoàng Bá có lời răn nhắc thế này:

Muốn thoát trần lao việc phi thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,
Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

Mình phải là người gìn giữ lập trường. Bởi vì muốn tu, muốn được hết khổ, được giải thoát thì phải giữ vững lập trường. Nhưng chỉ giữ vững lập trường không đủ chưa? Chưa. Ví chẳng một phen xương lạnh buốt, nghĩa là nếu chúng ta không có công phu, không có sự gắng gổ, thì không thể nào giác ngộ. Câu chót ngài nói: Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương, tức là không có công phu chắc thực thì trí tuệ không sáng suốt, không nhận ra được tánh Phật sẵn có nơi mình.

Trên đường tu, chư huynh đệ chúng ta hữu duyên kết được chủng Phật và ít nhiều gì chúng ta đã có một quá trình tu tập. Ngày hôm nay mình nhận ra lẽ chân ngụy là đã khá lắm rồi, bây giờ chỉ cần cương quyết lên, nỗ lực công phu thấu xương thấu tuỷ thì lo gì không có ngày đạt đạo. Kính chúc toàn thể chư huynh đệ dừng được tâm sanh diệt của mình, để rồi tất cả chúng ta tích cực bảo vệ sự tu tập của mình đạt được kết quả viên mãn, vĩnh viễn an vui, tự tại.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25621)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37854)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19554)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18644)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14231)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20079)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9489)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14345)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35543)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10639)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19674)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23179)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13347)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10735)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20188)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10589)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9944)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14852)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17638)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17580)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13166)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31127)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25719)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13967)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17489)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10957)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12269)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10455)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12253)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11741)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9605)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12340)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9171)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8470)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9942)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9748)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12011)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14398)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9892)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11197)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8287)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10954)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14070)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9892)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15193)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13025)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23059)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23960)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12553)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15414)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17763)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15038)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16538)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16076)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17616)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11573)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11601)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17806)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10765)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10508)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11299)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12068)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11027)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36390)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8948)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9662)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34678)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17242)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10224)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10454)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12189)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13618)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14642)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9136)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24790)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11623)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10304)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15921)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15555)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14496)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12978)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12424)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14558)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18328)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9557)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18501)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18566)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18997)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18812)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11809)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13315)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47963)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11051)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13536)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13025)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11051)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12539)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11042)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31749)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11651)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant