THIỀN TRONG ĐỜI SỐNG
ZEN IN LIFE
Thiện Phúc
1. Thiền Là Gì?
Thiền
na dịch là “tư duy.” Tư duy trong cõi sắc giới thì gọi là thiền. Thiền theo tiếng
Phạn là Dhyana. Thiền là một yếu tố của Định; tuy nhiên, cả hai từ được dùng gần
như lẫn lộn với nhau. Thiền là thuật ngữ Trung Hoa, do từ tiếng Phạn “Dhyana”
mà ra. Thiền Na chỉ sự tập trung tinh thần và sự tĩnh tâm, trong đó mọi sự phân
biệt nhị nguyên đều biến mất. Tịnh lự là làm vắng lặng dòng suy tưởng. Thiền Na
là Ba La Mật thứ năm trong lục độ Ba La Mật (thực tập thiền na để được trí huệ
Bát Nhã), trong đó tất cả mọi biện biệt giữa chủ thể và đối tượng, giữa thật và
giả, đều bị xóa bỏ. Ch’an là chữ tương đương gần nhất của Hoa ngữ cho chữ
“Dhyana” trong Phạn ngữ, có nghĩa là tĩnh lự. Tịnh lự hay đình chỉ các tư tưởng
khác, chỉ chuyên chú suy nghĩ vào một cảnh. Thiền là một trường phái phát triển
tại Đông Á, nhấn mạnh đến vô niệm, hiểu thẳng thực chất của vạn hữu. Chữ Thiền
được dịch từ Phạn ngữ “Dhyana”. Dhyana dùng để chỉ một trạng thái tịnh lự đạt
được bởi buông bỏ. Thiền dùng để làm lắng dịu và loại bỏ luyến ái, hận thù,
ganh ghét và si mê trong tâm chúng ta hầu
đạt được trí tuệ siêu việt có thể dẫn tới đại giác. Thực tập thiền có thể dẫn đến
định. Theo dấu tích ngược về thời một vị sư Ấn Độ tên là Bồ Đề Đạt Ma, người đã
du hành sang Trung quốc vào đầu thế kỷ thứ sáu. Người ta tin rằng ông là vị tổ
thứ 28 của dòng Thiền ở Ấn Độ và là vị tổ đầu tiên của dòng Thiền ở Trung Quốc.
Trường phái này nhấn mạnh đến “thiền,” và một vài trường phái còn dùng những lời
nói bí ẩn (công án) nhằm đánh bại lối suy nghĩ bằng nhận thức hay quan niệm, và
hỗ trợ thực chứng chân lý. Khi nhìn lại nguồn gốc của Thiền, chúng ta thấy rằng
người sáng lập thật sự của Thiền không ai khác hơn là Đức Phật. Qua quán tưởng
nội tại mà Đức Phật đạt được chánh đẳng chánh giác và do đó trở thành bậc Giác
Giả, vị Chúa của Trí Tuệ và Từ Bi. Trong đạo Phật có nhiều phương pháp tu tập
và thiền định là một trong phương pháp chính và quan trọng nhất của Phật giáo.
Theo lịch sử Phật giáo thì Đức Thích Tôn Từ Phụ của chúng ta đã đạt được quả vị
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sau nhiều ngày tháng tọa thiền dưới cội Bồ Đề.
Hơn 25 thế kỷ về trước chính Đức Phật đã dạy rằng thực tập thiền là quay trở lại
với chính mình hầu tìm ra chân tánh của mình. Chúng ta không nhìn lên, không
nhìn xuống, không nhìn sang đông hay sang tây, hay bắc hay nam; chúng ta nhìn lại
chính chúng ta, vì chính ở trong chúng ta và chỉ ở trong đó thôi là trung tâm
xoay chuyển của cả vũ trụ. Mãi đến ngày nay, chúng ta vẫn còn kính thờ Ngài qua
hình ảnh tọa thiền lắng sâu trong chánh định của Ngài. Thiền tông được truy
nguyên từ thời Đức Phật lặng lẽ đưa lên một cánh sen vàng. Lúc ấy hội chúng cảm
thấy bối rối, duy chỉ có Ngài Đại Ca Diếp hiểu được và mỉm cười. Câu chuyện này
ngầm nói lên rằng yếu chỉ của Chánh Pháp vượt ngoài ngôn ngữ văn tự. Trong nhà
Thiền, yếu chỉ này được người thầy truyền cho đệ tử trong giây phút xuất thần,
xuyên phá bức tường tri kiến hạn hẹp thông thường của con người.
Yếu
chỉ mà Ngài Đại Ca Diếp nhận hiểu đã được truyền thừa qua 28 vị tổ Ấn Độ cho đến
tổ Bồ Đề Đạt Ma. Tổ Bồ Đề Đạt Ma là một thiền sư Ấn Độ có chí hướng phụng hành
theo kinh Lăng Già, một bản kinh của tông Du Già. Ngài du hóa sang Trung Quốc
vào năm 470 và bắt đầu truyền dạy Thiền tại đây. Sau đó Thiền tông lan tỏa sang
Triều Tiên và Việt Nam. Đến thế kỷ thứ 12 Thiền tông phổ biến mạnh mẽ và rộng
rãi ở Nhật Bản. Thiền theo tiếng Nhật là Zen, tiếng Trung Hoa là Ch’an, tiếng
Việt là “Thiền”, và tiếng Sanskrit là “Dhyana” có nghĩa là nhất tâm tĩnh lự. Có
nhiều dòng Thiền khác nhau tại Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, mỗi truyền thống
đều có lịch sử và phương thức tu tập của riêng mình, nhưng tất cả đều cho rằng
mình thuộc dòng thiền bắt đầu từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thiền sử cho rằng Đức
Phật đã truyền lại tinh túy của tâm giác ngộ của Ngài cho đệ tử là Ca Diếp, rồi
tới phiên Ca Diếp lại truyền thừa cho người kế thừa. Tiến trình này tiếp tục
qua 28 vị tổ Ấn Độ cho đến tổ Bồ Đề Đạt Ma, người đã mang Thiền truyền thừa vào
Trung Hoa. Tất cả những vị đạo sư Ấn Độ và Trung Hoa thời trước đều là những vị
Thiền sư. Thiền là một trong những pháp môn mà Đức Phật truyền giảng song song với giới luật, bố thí, nhẫn nhục và
trí tuệ. Một số hành giả muốn lập pháp môn Thiền làm cốt lõi cho việc tu tập
nên Thiền tông dần dần được thành hình. Nguyên lý căn bản của Thiền tông là tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức là hạt giống Phật mà mỗi người tự có sẵn.
Nguyên lý này được một số Thiền sư trình bày qua câu “Tất cả chúng sanh đều đã
là Phật”, nhưng chỉ vì những tâm thái nhiễu loạn và những chướng ngại pháp đang
còn che mờ tâm thức mà thôi. Như vậy công việc của thiền giả chỉ là nhận ra
tánh Phật và để cho tánh Phật ấy phát hào quang xuyên vượt qua những chướng ngại
pháp. Vì tiền đề cơ bản để chứng đạt quả vị Phật, tức là chủng tử Phật đã nằm sẵn
trong mỗi người rồi nên Thiền tông nhấn mạnh đến việc thành Phật ngay trong kiếp
này. Các vị Thiền sư tuy không phủ nhận giáo lý tái sanh hay giáo lý nghiệp
báo, nhưng không giảng giải nhiều về những giáo lý này. Theo Thiền tông, người
ta không cần phải xa lánh thế gian này để tìm kiếm Niết Bàn ở một nơi nào khác,
vì tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật tánh. Hơn nữa, khi người ta chứng ngộ được
tánh không thì người ta thấy rằng sinh tử và Niết Bàn không khác nhau.
Thiền
tông nhận thức sâu sắc những giới hạn của ngôn ngữ và tin chắc rằng công phu tu
tập có chiều hướng vượt qua phạm vi diễn đạt của ngôn ngữ. Hành thiền là quay
trở lại trong mình hầu tìm ra chân tính của chính mình. Chúng ta không nhìn
lên, không nhìn xuống, không nhìn sang đông hay sang tây, sang bắc hay sang
nam; mà là nhìn lại chính chúng ta, vì chính ở trong chúng ta và chỉ trong đó
thôi mới là trung tâm xoay chuyển của cả vũ trụ. Vì vậy Thiền tông đặc biệt nhấn
mạnh đến việc thực nghiệm và không đặt trọng tâm vào việc hiểu biết suông. Do
đó nên với người tu Thiền thì điều quan trọng trước tiên là phải gắn bó với một
vị Thiền sư có nhiều kinh nghiệm. Bổn phận của vị Thiền sư là đưa thiền sinh đi
ngược trở lại cái thực tại hiện tiền bất cứ khi nào tâm tư của thiền sinh còn
dong ruổi với những khái niệm có sẵn. Hiểu theo nghĩa này, Thiền là một tôn
giáo mang học thuyết và các phương pháp nhằm mục đích đưa tới chỗ nhìn thấy được
bản tính riêng của chúng ta, và tới giác ngộ hoàn toàn, như Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã trải qua dưới cội Bồ Đề sau một thời kỳ thiền định mãnh liệt. Hơn bất
cứ một phái Phật giáo nào, Thiền đặt lên hàng đầu sự thể nghiệm đại giác và nhấn
mạnh tới tính vô ích của các nghi lễ tôn giáo. Con đường ngắn hơn nhưng gay go
trong tu hành là “tọa thiền.” Những đặc trưng của Thiền có thể tóm tắt bằng bốn
nguyên lý sau đây: Giáo ngoại biệt truyền; bất lập văn tự; trực chỉ nhân tâm;
kiến tánh thành Phật. Theo quan điểm bí truyền: Thiền không phải là một tôn
giáo, mà là một nguồn gốc không thể xác định được và không thể truyền thụ được.
Người ta chỉ có thể tự mình thể nghiệm. Thiền không mang một cái tên nào, không
có một từ nào, không có một khái niệm nào, nó là nguồn của tất cả các tôn giáo,
và các tôn giáo chỉ là những hình thức biểu hiện của cùng một sự thể nghiệm giống
nhau. Theo nghĩa này, Thiền không liên hệ với một truyền thống tôn giáo riêng
biệt nào, kể cả Phật giáo. Thiền là “sự hoàn thiện nguyên lai” của mọi sự vật
và mọi thực thể, giống với sự thể nghiệm của tất cả các Đại Thánh, các nhà hiền
triết và các nhà tiên tri thuộc tất cả mọi tôn giáo, dù có dùng những tên gọi
khác nhau đến mấy để chỉ sự thể nghiệm ấy. Trong Phật giáo, người ta gọi nó là
“sự đồng nhất của Sanh tử và Niết bàn.” Thiền không phải là một phương pháp cho
phép đi đến sự giải thoát đối với một người sống trong vô minh, mà là biểu hiện
trực tiếp, là sự cập nhật hóa sự hoàn thiện vốn có trong từng người ở bất cứ
lúc nào.
Theo
quan điểm công truyền: Thiền là một phái của Phật giáo Đại Thừa, phát triển ở
các thế kỷ thứ sáu và thứ bảy, nhờ sự hòa trộn Phật giáo Thiền do tổ Bồ Đề Đạt
Ma du nhập vào Trung Quốc và Đạo giáo. Tuy nhiên, theo các truyền thống Phật
giáo, có năm loại Thiền khác nhau: Ngoại đạo Thiền, Phàm phu Thiền, Tiểu Thừa
Thiền, Đại Thừa Thiền, và Tối thường thừa Thiền. Thiền ngoại đạo gồm nhiều loại
khác nhau. Chẳng hạn như Thiền Cơ Đốc
giáo, thiền thiêng liêng và thiều siêu việt, vân vân. Phàm phu thiền là sự tập
trung tinh thần đến chỗ sâu xa, vận động thể dục thể thao, trà đạo thiền, và những
nghi thức khác. Tiểu thừa thiền là quán tâm vô thường, quán thân bất tịnh và
quán pháp vô ngã. Thiền Đại thừa là a) quán pháp sanh diệt là tự tánh của chư
pháp; b) quán sự thật về cái gì thuộc về hình tướng bên ngoài đều hư dối không
thật; c) quán sự hiện hữu, không và trung đạo; d) quán thật tướng của của mọi
hiện tượng; e) quán sự thâm nhập hỗ tương qua lại của mọi hiện tượng; f) quán mọi
hiện tượng tự chúng là tuyệt đối. Tất cả sáu pháp quán này tương đương với lời
Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm: “Nếu bạn muốn biết rõ tất cả chư Phật ba đời
quá khứ, hiện tại và vị lai, thì bạn nên quán tánh của pháp giới là tất cả chỉ
do tâm tạo mà thôi.” Tối thượng thừa Thiền được chia ra làm ba loại: Nghĩa Lý
Thiền, Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền.
Trong
Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: “Tu Du-già thì trí phát, bỏ Du-già thì tuệ tiêu. Biết
rõ hay lẽ này thế nào là đắc thất, rồi nỗ lực thực hành, sẽ tăng trưởng thêm
trí tuệ (282). Gìn giữ tay chân và ngôn ngữ, gìn giữ cái đầu cao, tâm mến thích
thiền định, riêng ở một mình, thanh tịnh và tự biết đầy đủ, ấy là bậc Tỳ kheo
(362). Này các Tỳ Kheo, hãy mau tu thiền định! Chớ buông lung, chớ mê hoặc theo
dục ái. Đừng đợi đến khi nuốt hườn sắt nóng, mới ăn năn than thở (371). Ai nhập
vào thiền định, an trụ chỗ ly trần, sự tu hành viên mãn, phiền não lậu dứt sạch,
chứng cảnh giới tối cao, Ta gọi họ là Bà-la-môn (386).”
1.
What Is Zen?
Dhyana
is considered meditating. Meditation in the visible or known is called Dhyana.
Dhyana is Meditation (Zen), probably a transliteration. Meditation is an
element of Concentration; however, the two words (dhyana and samadhi) are
loosely used. Ch’an-na is a Chinese version from the Sanskrit word “Dhyana,”
which refers to collectedness of mind or meditative absorption in which all
dualistic distinctions disappear. The fifth paramita (to practice dhyana to
obtain real wisdom or prajna). In dhyana all dualistic distinctions like
subject, object, true, false are eliminated. Ch’an is a Chinese most equivalent
word to the Sanskrit word “Dhyana,” which means meditation. To enter into
meditation. A school that developed in East Asia, which emphasized meditation
aimed at a non-conceptual, direct understanding of reality. Its name is
believed to derive from the Sanskrit term “Dhyana.” Dhyana is a general term for
meditation or a state of quietude or equanimity gained through relaxation. To
meditate, to calm down, and to eliminate attachments, the aversions, anger,
jealousy and the ignorance that are in our heart so that we can achieve a
transcendental wisdom which leads to enlightenment. It traces itself back to
the Indian monk named Bodhidharma, who according to tradition travelled to
China in the early sixth century. He is considered to be the twenty-eighth
Indian and the first Chinese patriarch of the Zen tradition. The school’s
primary emphasis on meditation, and some schools make use of enigmatic riddles
called “kung-an,” which are designed to defeat conceptual thinking and aid in
direct realization of truth. When looking into the origins of Zen, we find that
the real founder of Zen is none other than the Buddha himself. Through the
practice of inward meditation the Buddha attained Supreme Enlightenment and
thereby became the Awakened One, the Lord of Wisdom and Compassion. In
Buddhism, there are many methods of cultivation, and meditation is one of the
major and most important methods in Buddhism. According to the Buddhist
History, our Honorable Gautama Buddha reached the Ultimate Spiritual Perfection
after many days of meditation under the Bodhi Tree. The Buddha taught more than
25 centuries ago that by practicing Zen we seek to turn within and discover our
true nature. We do not look above, we do not look below, we do not look to the
east or west or north or south; we look into ourselves, for within ourselves
and there alone is the center upon which the whole universe turns. To this day,
we, Buddhist followers still worship Him in a position of deep meditation. Zen
is traced to a teaching the Buddha gave by silently holding a golden lotus. The
general audience was perflexed, but the disicple Mahakasyapa understood the
significance and smiled subtly. The implication of this is that the essence of
the Dharma is beyond words. In Zen, that essence is transmitted from teacher to
disciple in sudden moments, breakthroughs of understanding.
The
meaning Mahakasyapa understood was passed down in a lineage of 28 Indian
Patriarchs to Bodhidharma. Bodhidharma, an Indian meditation master, strongly
adhered to the Lankavatara Sutra, a Yogacara text. He went to China around 470
A.D., and began the Zen tradition there. It spread to Korea and Vietnam, and in
the 12th century became popular in Japan. Zen is a Japanese word, in Chinese is
Ch’an, in Vietnamese is Thiền, in Sanskrit is “Dhyana” which means meditative
concentration. There are a number of different Zen lineages in China, Japan and
Vietnam, each of it has its own practices and histories, but all see themselves
as belonging to a tradition that began with Sakyamuni Buddha. Zen histories
claim that the lineage began when the Buddha passed on the essence of his
awakened mind to his disciple Kasyapa, who in turn transmitted to his
successor. The process continued through a series of twenty-eight Indian
patriarchs to Bodhidharma, who transmitted it to China. All the early Indian
missionaries and Chinese monks were meditation masters. Meditation was one of
many practices the Buddha gave instruction in, ethics, generosity, patience,
and wisdom were others, and the Ch’an tradition arose form some practitioners’
wish to make meditation their focal point. An underlying principle in Zen is
that all being have Buddha nature, the seed of intrinsic Buddhahood. Some Zen
masters express this by saying all beings are already Buddhas, but their minds
are clouded over by disturbing attitudes and obscurations. Their job, then, is
to perceive this Buddha nature and let it shine forth without hindrance.
Because the fundamental requirement for Buddhahood, Buddha nature, is already
within everyone, Zen stresses attaining enlightenment in this very lifetime.
Zen masters do not teach about rebirth and karma in depth, although they accept
them. According to Zen, there is no need to avoid the world by seeking nirvana
elsewhere. This is because first, all beings have Buddha-nature already, and
second, when they realize emptiness, they will see that cyclic existence and
nirvana are not different.
Zen
is accurately aware of the limitations of language, and gears its practice to
transcend it. When we practice meditation we seek to turn to within and to discover
our true nature. We do not look above, we do not look below, we do not look to
the east or to the west, or to the north, or to the south; we look into
ourselves, for within ourselves and there alone is the center upon which the
whole universe turns. Experience is stressed, not mere intellectual learning.
Thus, associating with an experienced teacher is important. The Zen teacher’s
duty is to bring the students back to the reality existing in the present
moment whenever their fanciful minds get involved in conceptual wanderings. In
this sense, Ch’an is a religion, the teachings, and practices of which are
directed toward self-realization and lead finally to complete awakening or
enlightenment as experienced by Sakyamuni Buddha after intensive meditative self-discipline
under the Bodhi-tree. More than any other school, Ch’an stresses the prime
importance of the enlightenment experience and the useless of ritual religious
practices and intellectual analysis of doctrine for the attainment of
liberation. Ch’an teaches the practice of sitting in meditative absorption as
the shortest, but also steepest, way to awakening. The essential nature of
Ch’an can be summarized in four short statements: Special transmission outside
the orthodox teaching; nondependence on sacred writings; direct pointing to the
human heart; leading to realization of one’s own nature and becoming a Buddha.
Esoterically regarded, Ch’an is not a religion, but rather an indefinable,
incommunicable root, free from all names, descriptions, and concepts, that can
only be experienced by each individual for him or herself. From expressed forms
of this, all religions have sprung. In this sense, Ch’an is not bound to any
religion, including Buddhism. It is the primor-dial perfection of everything
existing, designated by the most various names, experienced by all great sages, and founders of religions
of all cultures and times. Buddhism has referred to it as the “identity of
Samsara and Nirvana.” From this point of view, Ch’an is not a method that brings
people living in ignorance to the goal of liberation; rather it is the immediate expression and actualization
of the perfection present in every person at every moment.
Exoterically
regarded, Zen, or Ch’an as it is called when referring to its history in China,
is a school of Mahayana Buddhism, which developed in China in the 6th and 7th
centuries from the meeting of Dhyana Buddhism, which was brought to China by
Bodhidharma, and Taoism. However, according to Buddhist traditions, there are
five different kinds of Zen: Outer Path Zen, Common People’s Zen, Hinayana Zen,
Mahayana Zen, and Utmost Vehicle Zen. Outer Path Zen: Outer Path Zen includes
many different types of meditation. For example, Christian meditation, Divine
Light, Transcendental Meditation, and so on. Common People’s Zen: Common
People’s Zen is concentration meditation, Dharma Play meditation, sports, the
tea ceremony, ritual ceremonies, etc. Hinayana Zen: Hinayana Zen is insight
into impermanence, impurity, and non-self. Mahayana Zen: Mahayana Zen a)
insight into the existence and nonexistence of the nature of the dharmas; b)
insight into the fact that there are no external, tangible characteristics, and
that all is empty; c) insight into existence, emptiness, and the Middle Way; d)
insight into the true aspect of all phenomena; e) insight into the mutual
interpenetration of all phenomena; f) insight that sees that phenomena
themselves are the Absolute. These six are equal to the following statement
from the Avatamsaka Sutra: “If you wish thoroughly understand all the Buddhas
of the past, present, and future, then you should view the nature of the whole
universe as being created by the mind alone.” Utmost Vehicle Zen: Utmost
Vehicle Zen, which is divided into three types: Theoretical Zen, Tathagata Zen,
and Patriarchal Zen.
In
the Dharmapada Sutra, the Buddha taught: “From meditation arises wisdom. Lack
of meditation wisdom is gone. One who knows this twofold road of gain and loss,
will conduct himself to increase his wisdom (Dharmapada 282). He who controls
his hands and legs; he who controls his speech; and in the highest, he who
delights in meditation; he who is alone, serene and contented with himself. He
is truly called a Bhikhshu (Dharmapada 362). Meditate monk! Meditate! Be not
heedless. Do not let your mind whirl on sensual pleasures. Don’t wait until you
swallow a red-hot iron ball, then cry, “This is sorrow!” (Dharmapada 371). He
who is meditative, stainless and secluded; he who has done his duty and is free
from afflictions; he who has attained the highest goal, I call him a Brahmana
(Dharmapada 386).”
2.
Mục Đích Của Việc Hành Thiền
Phải,
mục tiêu tối hậu của thiền Phật giáo là chứng ngộ toàn giác, hoàn toàn tự chủ
và tâm trí tuyệt đối lành mạnh hay trạng thái niết bàn qua điều phục tâm và gột
rửa hết thảy những bợn nhơ tinh thần. Tuy nhiên, ngoài cái mục tiêu tối hậu ấy
còn có những lợi ích mà hành giả có thể thọ hưởng được. Thiền tập có thể gợi
nguồn cảm hứng cho chúng ta khám phá trạng thái sáng suốt minh mẫn (sự thông minh) và sự phong phú của
phẩm cách tự nhiên của chính mình. Hành thiền cũng có thể giúp chúng ta khơi dậy
tiềm năng trong tâm, suy nghĩ sáng suốt, hiểu biết sâu sắc, và cân bằng và làm
dịu đi tình trạng căng thẳng trong tâm. Hành thiền là một tiến trình sáng tạo
nhằm biến đổi những cảm xúc vọng động và tư tưởng bất thiện thành trạng thái
tinh thần điều hòa và thanh sạch. Nếu hành thiền có nghĩa là kỷ luật tinh thần
hay phương pháp trau dồi tâm trí, thì khỏi phải nói gì cả, tất cả mọi người không
phân biệt giới tính, màu da, chủng tộc, hay bất luận là lồi phân chia nào đi nữa,
đều nên hành thiền. Xã hội tân tiến hiện nay đang sa lầy vào trong những vọng động
và quyến rũ mà chỉ có công phu thiền tập mới mong kiểm soát được. Tất cả chúng
ta nên tỉnh thức và nhận diện ra sự kiện chúng ta cần phải thay đổi cách sống bằng
cách thay đổi nhân sinh quan mà chúng ta đang có, và muốn được như vậy, chúng
ta cần phải tu tập thiền quán. Chúng ta cần phải thông suốt sự khác biệt giữa
cái “Bản Ngã” và “Tánh Giác”; và chỉ có công phu tu tập mới có khả năng làm cho
sự khác biệt nhỏ dần; cho đến một lúc nào đó cả hai hòa nhập thành một, lúc đó
chúng ta nhận diện được chân lý cuộc đời.
Có
lẽ ai trong chúng ta cũng thấy rằng cuộc sống này đầy dẫy những khó khăn chướng
ngại, hoang mang và bất công. Ngay những lúc mà mọi việc đều trôi chảy tốt đẹp,
chúng ta cũng cảm thấy lo lắng rằng chúng sẽ không tồn tại lâu dài. Đây chính
là lý do mà ai trong chúng ta cũng nên hành thiền. Nói về thiền, tại sao chúng
ta phải tu thiền? Chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ “định” hay “thiền”, tức
là phương thức làm cho tâm mình an định. Khi tâm được an định, nó không vọng động
và chúng ta đạt được nhất điểm tâm. Mục đích của thiền là làm tan chảy đi khối
vọng tưởng chồng chất bấy lâu nay của chúng ta. Cái còn tồn đọng lại trong
chúng ta chỉ là cái chân ngã và cuối cùng chúng ta thể nhập vào cảnh giới vô
ngã. Nếu chúng ta không dừng lại ở đây, không nghĩ tưởng hay chấp trước về cảnh
giới này, chúng ta sẽ tiếp tục tu tập cho đến khi chứng nhập vào Tuyệt đối. Như
vậy thì phương pháp tu thiền có khác những phương pháp tu Phật khác hay không?
Trong khi tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, chúng ta ngồi yên và chỉ nhiếp tâm
vào tụng kinh, niệm chú, hay niệm Phật mà thôi. Vì vậy khi tụng kinh, niệm chú,
hay niệm Phật, chúng ta kiểm soát được cả thân, khẩu và ý nếu chúng ta không muốn
cho ý rong ruổi (thân ngồi yên, khẩu chỉ tụng niệm và ý chỉ chú tâm vào việc tụng
kinh, niệm chú, hay niệm Phật mà thôi). Cũng như thế, khi tu tập thiền định,
chúng ta cũng kiểm soát được cả thân, khẩu và ý nếu chúng ta không muốn cho ý
dong ruổi. Thật là khó khăn trong việc điều phục tâm ý; tuy nhiên, nếu chúng ta
kềm giữ được thân khẩu là chúng ta cũng có nhiều công đức lắm rồi vậy. Nếu muốn
đạt tới mức độ công đức cao hơn, chúng ta phải cố gắng điều phục cho bằng được
tâm ý của mình. Mục đích chính của hành giả tu thiền là tầm cầu chân lý, tầm cầu
giác ngộ. Trên cuộc hành trình này, nếu chúng ta bước đi một bước tức là chúng
ta tiến gần đến giác ngộ một bước. Đức Phật là bậc Giác Ngộ, vì vậy học Phật là
học phương pháp giác ngộ. Như vậy trên đường giác ngộ, càng tiến tới là càng đến
gần với giác ngộ.
Thiền
quán là tu tập để đạt được cái thấy vượt ra ngoài tầm mức thông thường, thấy một
cách rõ ràng, chứ không chỉ thấy phớt qua nơi bề mặt, hay thấy cái dáng bề
ngoài, mà là thấy sự vật đúng trong bối cảnh của nó, tức là thấy dưới ba đặc tướng
hay ‘tam pháp ấn’ trong nhà Phật, đó là vô thường, khổ và vô ngã. Đây là ba dấu
hiệu đặc thù của tất cả các pháp hữu vi, tất cả những hiện tượng sinh tồn. Chính
thiền minh sát này dựa trên nền tảng của thiền vắng lặng, giúp cho hành giả có
khả năng gột rửa tất cả mọi ô nhiễm trong tâm đến mức tận cùng, buông bỏ mọi ảo
kiến về cái ‘ngã’, nhìn thấy thực tướng của vạn pháp và chứng ngộ Niết Bàn. Như
vậy, cả hai pháp thiền vắng lặng và minh sát đều hỗ trợ cho nhau giúp hành giả
chứng ngộ được Niết Bàn. Mục tiêu tối hậu của thiền là để loại trừ những bợn
nhơ trong tâm của chúng ta. Trước khi đạt được mục tiêu này, hành giả sẽ có được
những lợi ích thiết thực như sẽ có một cái tâm bình an, tĩnh lặng và có đủ năng
lực để chấp nhận những gì xãy đến cho mình. Thiền giúp chúng ta nhìn sự vật
đúng như thực tướng của chúng chứ không phải thấy chúng qua những biểu hiện bên
ngoài. Sự vật xuất hiện trước mắt chúng ta dưới trạng thái trường tồn, vững bền,
đáng yêu và có thực chất, nhưng trên thực tế thì chúng không phải như vậy. Khi
thực hành thiền quán, chúng ta sẽ tự mình thấy được sự sinh diệt của hiện tượng
vật chất và tinh thần. Đồng thời chúng ta cũng ý thức được một cách rõ ràng hơn
những diễn biến trong thân tâm mình. Chúng ta sẽ có đủ khả năng chấp nhận mọi
chuyện xãy đến với mình với một phong cách an nhiên, chứ không bị xao động hay
cảm xúc và đương đầu với hoàn cảnh một cách lạc quan hơn. Đúng, mục tiêu cao nhất
trong thiền tập Phật giáo là chứng ngộ toàn giác, hoàn toàn tự chủ và tâm trí
hoàn toàn lành mạnh hay trạng thái Niết Bàn, bằng cách điều phục tâm và gột rửa
tận cùng những bợn nhơ tinh thần. Tuy nhiên, ngoài cái mục tiêu cùng tột ấy,
thiền tập còn có nhiều lợi ích mà hành giả có thể hưởng được. Thiền gợi hứng
cho ta khám phá trạng thái sáng suốt minh mẫn của chính mình, sự phong phú và
phẩm cách tự nhiên của mình. Hành thiền còn có thể khơi dậy khả năng tiềm tàng
trong tâm, giúp chúng ta suy nghĩ sáng suốt, hiểu biết thâm sâu, cân bằng trạng
thái tâm và sự tĩnh lặng. Hành thiền là một tiến trình sáng tạo nhằm biến đổi
những cảm xúc vọng động và những tư tưởng bất thiện thành trạng thái tinh thần
hòa hợp và thanh sạch. Như vậy, nếu chúng ta chờ đến lúc ngồi xuống mới thực tập
thiền trong một vài giờ thì những giờ khác trong ngày của chúng ta sẽ ra sao? Nếu
nói tọa thiền là tu tập thiền định là chúng ta thật sự phá hủy cái khái niệm thật
của thiền. Nếu chúng ta biết cách tu tập thiền định thì chúng ta phải biết lợi
dụng tất cả thời giờ có được trong ngày của mình. Để làm được chuyện này, chúng
ta nên thực tập thiền ngay trong những công việc hằng ngày của mình.
2.
Purposes of Meditation Practices
Yes, the ultimate aim of Buddhist meditation is to gain full enlightenment, self-mastery and complete mental health or Nirvana through the conquest of mental defilements. However, apart from this ultimate aim there are other advantages and benefits that can be derived through meditation. It can inspire us to discover our own intelligence, richness and natural dignity. Meditation can also stimulate the latent powers of the mind, aid clear thinking, deep understanding, mental balance and tranquility. It is a creative process which aims at converting the chaotic feelings and unwholesome thoughts into mental harmony and purity. If by meditation is meant mental discipline or mind culture, it goes without saying that all should cultivate meditation irrespective of sex, color, creed or any other division. Modern society in in danger of being swamped by distractions and temptation which can only be controlled if we undertake the difficult taks of steadilt training our minds. All of us should wake up to the fact that we need to work with our life, we need to practice Zen. We have to see through the mirage that there is an “I” that is separating from our “Original Nature”. Our cultivation is to close the gap. Only in that instant when we and the object become one can we see what our life is.
Yes, the ultimate aim of Buddhist meditation is to gain full enlightenment, self-mastery and complete mental health or Nirvana through the conquest of mental defilements. However, apart from this ultimate aim there are other advantages and benefits that can be derived through meditation. It can inspire us to discover our own intelligence, richness and natural dignity. Meditation can also stimulate the latent powers of the mind, aid clear thinking, deep understanding, mental balance and tranquility. It is a creative process which aims at converting the chaotic feelings and unwholesome thoughts into mental harmony and purity. If by meditation is meant mental discipline or mind culture, it goes without saying that all should cultivate meditation irrespective of sex, color, creed or any other division. Modern society in in danger of being swamped by distractions and temptation which can only be controlled if we undertake the difficult taks of steadilt training our minds. All of us should wake up to the fact that we need to work with our life, we need to practice Zen. We have to see through the mirage that there is an “I” that is separating from our “Original Nature”. Our cultivation is to close the gap. Only in that instant when we and the object become one can we see what our life is.
Perhaps
everyone of us finds life difficult, perplexing, and oppressive. Even when
everything goes well for some time, we still worry that it probably will not
keep on that way. This is the very reason for all of us to practice Zen.
Speaking of Zen, why do we have to practice Zen? We often hear about ‘Samadhi’,
that is a ‘Ch’an’ method of meditation to pacify the mind. When the mind is
pacified, it is unperturbed, and we attain the one-pointedness of mind. The
purpose of Zen is to dissolve our accumulated ‘thought-mass’. What is finally
left in us is just the real self and eventually we enter into the world of the
selfless. And if we do not stop there, if we do not think about this realm or
cling to it, we will continue in our practice until we become one with the
Absolute. Then, is Zen method different from any other methods in Buddhism?
While reciting the sutra, reading the mantras, and practicing Buddha
Recitation, we are sitting still and fixing our mind in reciting the sutra,
reading the mantras, and practicing Buddha Recitation. Thus, when practicing
reciting the sutra, reading the mantras, and practicing Buddha Recitation, we
may have accomplished controlling the body, speech and mind if we want to stop
our mind from wandering about. In the same manner, when practicing meditation,
may also have accomplished controlling the body, speech and mind if we want to
stop our mind from wandering about. It is really difficult to control the mind;
however, if we can halt our body and speech still, we earn some merits. If we
want to get the highest level of all merits, we have to control our mind. The
main purpose of a Zen practitioner is the search for truth, the search for
awakening. On our journey, if we move one step, we are one step closer to the
truth, one step closer to awakening. The Buddha is the Awakened, so learning
the Buddha’s teachings is learning about his methods of awakening. Thus, on the
way to enlightenment, the more we move forward, the closer we come to
awakening.
Meditation
and contemplation means practice to obtain the seeing which goes beyond what is
ordinary, clear vision. It is not surface seeing or skimming, not seeing mere
appearance, but seeing things as they really are. This means seeing everything
in terms of the three characteristics, the signs of all phenomenal existence:
impermanence, suffering, and egolessness. It is this insight meditation, with
calm concentration of mind as its basis, that enables the practitioner to purge
his mind of all defilements, to remove ego-illusion, to see reality, and to
experience Nirvana. The ultimate purpose of meditation is to eradicate mental
impurities from our mind altogether. Before that stage, there are benefits of
tranquillity, peace of mind and the ability to accept things as they come.
Meditation helps us to see things as they truly are, not as they appear to be.
Things appear to be permanent, desirable and substantial, but actually they are
not. When we practice meditation, we will see for ourselves the arising and
disappearing of mental and physical phenomena. And we will have a clearer comprehension
of what is going on in our mind and body. We will be able to accept things as
they come to us with less agitation and deal with situations in a more positive
way. Yes, the ultimate aim of Buddhist meditation is to gain full
enlightenment, self-mastery and complete mental health or Nirvana through the
conquest of mental defilements. However, apart from this ultimate aim there are
other advantages and benefits that can be derived through meditation. It can
inspire us to discover our own intelligence, richness and natural dignity.
Meditation can also stimulate the latent powers of the mind, aid clear
thinking, deep understanding, mental balance and tranquility. It is a creative
process which aims at converting the chaotic feelings and unwholesome thoughts
into mental harmony and purity. Therefore, if we wait until we sit down and
compose ourselves to practice meditation for a couple of hours, then what
happens to the other hours of our day? Saying that sitting meditation is Zen,
we really destroy the true concept of Zen. If we know how to practice
meditation, we will certainly make good use of our whole day. In order for us
to do this, we should devote our day to Zen while accomplishing our daily
tasks.
3.
Thiền Không Phải Là Một Triết Học Lý Thuyết Không Thực Tiễn
Thiền
không phải là một triết học lý thuyết để bàn cãi và tranh luận suông, mà là một
đường lối hành động, một triết lý phải ứng dụng và thực hành từng giây phút
trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Để đạt được kinh nghiệm giác ngộ, mục đích
tối thượng của nhà Thiền, cần phải ngồi thiền, nhưng tọa thiền không thôi chưa
đủ. Thiền quán được dùng để phát triển trí tuệ, nhưng chúng ta phải khả dĩ đưa
ra một biểu hiện cụ thể về cái trí tuệ nầy, và để làm được việc nầy, chúng ta
phải trau dồi chánh nghiệp. Nhiều người nghĩ rằng hành giả tu thiền quay lưng lại
với thế giới để tự chìm mình trong thiền định trừu tượng. Đây là một quan niệm
sai lầm. Tu tập thiền quán là biến công phu tọa thiền trở nên thành phần của cuộc
sống hằng ngày, nhưng đồng thời cũng là làm việc, là hành động với lòng từ bi
và kính trọng người khác, là đóng góp vào thế giới mà chúng ta đang sống hầu biến
đổi thế giới này thành một thế giới tốt đẹp hơn. Thiền đạo không xa lìa cuộc đời
để rút vào một môi trường biệt lập, mà là hòa nhập vào cuộc đời hầu biến đổi nó
từ bên trong bằng hành động. Muốn làm những sinh hoạt thường nhật trong tinh thần
nhà thiền, chúng ta thực hành cách quán tưởng trên mọi vật. Không chỉ thiền
quán lúc đang ngồi mà thôi, mà còn phải áp dụng thiền quán trong đời sống hằng
ngày. Khi đang rửa chén, chúng ta cũng phải thiền quán. Khi làm vườn, chúng ta
cũng quán tưởng. Khi làm công việc tại sở, chúng ta cũng phải quán tưởng. Nói cách khác, chúng ta phải thiền quán bất cứ
lúc nào trong cuộc sống hằng ngày của mình. Đối với người biết tu thì cuộc sống
là Thiền, nhưng có nhiều người cho rằng cuộc sống là đau khổ. Kỳ thật, nếu
chúng ta tạo nên cuộc sống của chúng ta là Thiền, thì cuộc sống chúng ta trở
thành Thiền. Ngược lại, nếu chúng ta tạo ra cuộc sống khổ đau thì cuộc sống phải
trở thành khổ đau. Chúng ta phải giữ tâm mình ở ngay sát na nầy trong Thiền, vì
tâm hiện tiền này nối tiếp và trở thành sự sống Thiền của chính mình, như một
điểm liên tục để nối kết thành đường thẳng.
Thật
vậy, thiền không phải bằng các trau dồi lý luận mà bằng tu tập tâm thức. Phù hợp
với thái độ của thiền đối với cái thấy trí thức, mục tiêu của giáo lý Thiền
không giống như mục tiêu của Tây phương, một sự không ngớt gia tăng cái tinh vi
của tư tưởng luận lý, phương pháp cốt yếu của thiền ở chỗ đặt người ta vào chỗ
tiến thối lưỡng nan, mà người ta phải cố thoát ra không phải bằng lý luận, mà bằng
tâm thức ở trình độ cao hơn. Theo một vị thầy không phải là một vị thầy hiểu
theo nghĩa Tây phương. Ông là một vị thầy vì ông làm chủ được tâm mình, do đó
ông có thể truyền đạt cho người đệ tử điều duy nhất có thể truyền đạt được: cuộc
sống của mình ‘với tất cả những gì vị thầy có thể làm được, ông không thể làm
cho người đệ tử nắm được sự vật, trừ phi người đệ tử đã chuẩn bị đầy đủ đề nắm
bắt. Nắm giữ được thực tại cứu cánh là việc mình phải tự làm lấy. Thật là vô dụng
khi chỉ lý luận suông rằng danh và tướng thì khác nhau, nhưng bản thể thì giống,
hoặc danh và tướng được tạo thành bởi sự suy nghĩ của chúng ta. Chúng ta phải
thực chứng qua thiền quán, chứ không phải bằng suy nghĩ, để không có sự chấp
trước vào danh tướng, thì chừng đó chúng ta sẽ tự nhiên thấy rằng tất cả bản thể
đều là một bằng chính kinh nghiệm của mình. Chừng đó chúng ta sẽ thấy tất cả mọi
vật trong vũ trụ, từ mặt trời, mặt trăng, các vì sao, núi, sông, con người, vân
vân, đều có cùng bản thể giống nhau.
3.
Zen Is Not So Much An Unpractical Theoretical Philosophy
Zen
is not so much a theoretical philosophy to be discussed and debated at leisure
as it is a way of action, a philosophy to be practiced and realized every
moment of our daily life. To attain the experience of enlightenment, the
ultimate goal of Zen, sitting meditation is necessary, but only sitting
meditation is not enough. Meditation serves to develop wisdom, but we must be
able to give concrete expression to this wisdom, and to do so, we have to
cultivate right action. Many people think that a Zen practitioner turns his
back upon the world to submerge himself in abstract meditation. This is a
misconception. To practice meditaion is to make the practice of sitting
meditation an integral part of our daily life, but it is at the same time to
work, to act with loving-kindness and respect for others, to contribute our
part to the world in which we live in order to change this world into a better
world. The Zen way is not to withdraw from life into an isolate environment,
but to get into life and change it from the inside action. To perform our daily
activities in the spirit of meditation, we should perform everything as a form
of meditation. We should not meditate only when we sit in quiet, but should
apply the method of meditation to our daily life. When we wash dishes, we must
meditate. When we work in the garden, meditate. When we drive, meditate. When
we work in an office, meditate. In other words, we must meditate at every
moment, in every activity of our daily life. To those who have a life of
cultivation, life is Zen, but some people say that life is suffering. As a
matter of fact, if we make a life of Zen, then our life becomes Zen. In the
contrary, if we make a life of suffering, then our life must become suffering.
We should keep our mind in Zen just now, at this very moment, for this
‘just-now mind in Zen’ continues and becomes our life, as one point continues and
becomes a straight line.
Indeed,
meditation is not done by polishing the logical thinking, but by cultivating
the mind. In accordance with Zen’s attitude towards intellectual insight, its
aim of teaching is not as in the West an ever-increasing subtlety of logical
thinking, but its method “consists in putting one in a dilemma, out of which
one must contrive to escape not through logic indeed but through a mind of
higher order. Accordingly the teacher is not a teacher in Western sense. He is
a master, inasmuch as he has mastered his own mind, and hence is capable of
conveying to the student the only thing that can be conveyed: his existence.
With all that the master can do, he is helpless to make the disciple take hold
of the thing, unless the latter is fully prepared for it. The taking hold of
the ultimate reality is to be done by oneself. It is no use if we only reason
that names and their forms are different, but their substance is the same, or
names and forms are made by our thinking. We have to realize through meditation
and contemplation, not by thinking, so that we will not have attachment to name
and form, then we will automatically see that all substance is one with our
real experience. Then we will see all things in the universe, the sun, the
moon, the stars, mountains, rivers, people, and so forth, have the same
substance.
4.
Sự Phát Triển của Tâm Thức
Thiền
không khuyến khích hành giả liên hệ tới việc thờ cúng hay cầu nguyện một đấng
siêu nhiên nào, mà là nhìn thẳng vào chân tính của mình để thấy rằng chân tính
đó cũng chính là Phật tính. Muốn đến được sự nhận thức này, chúng ta phải tu tập,
chúng ta phải thực hành. Làm sao chúng ta có thể khám phá được chân tánh nếu
chúng ta cứ mù quáng chấp vào kinh sách mà không chịu tự mình thực hành? Nếu
chúng ta đi đến một trung tâm thiền và hỏi chuyện với một vị thiền sư, có khi
ông ta chỉ trả lời câu hỏi của chúng ta bằng sự im lặng. Đây là sự im lặng của
tri thức. Điều này không có nghĩa là vị thiền sư không biết câu trả lời, nhưng
ông ta lại cố cho chúng ta biết có những thứ không thể giải thích được bằng lời,
những việc luôn chìm trong bóng tối cho tới khi chúng ta khám phá ra bằng chính
kinh nghiệm của mình. Thiền quán (sự phát triển liên tục của tâm thức về một đối
tượng nào đó trong lúc trầm tư hay thiền định). Đây là một trong tam vị mà Đức
Phật đã dạy tọa thiền. Thiền là chữ tắt của “Thiền Na” có nghĩa là tư duy tĩnh
lự. Đây là một trong những nghệ thuật dập tắt dòng suy tưởng của tâm, để làm
sáng tỏ tâm tính. Thiền được chính thức giới thiệu vào Trung Quốc bởi Tổ Bồ Đề
Đạt Ma, dầu trước đó người Trung Hoa đã biết đến, và kéo dài cho tới thời kỳ của
các tông phái Thiên Thai. Theo Kinh Duy Ma Cật, cư sĩ Duy Ma Cật đã nói với ông
Xá Lợi Phất khi ông này ở trong rừng tọa thiền yên lặng dưới gốc cây như sau:
“Thưa ngài Xá Lợi Phất! Bất tất ngồi sững đó mới là ngồi thiền. Vả chăng ngồi
thiền là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý, mới là ngồi thiền; không khởi diệt
tận định mà hiện các oai nghi, mới là ngồi thiền; không rời đạo pháp mà hiện
các việc phàm phu, mới là ngồi thiền; tâm không trụ trong cũng không ở ngoài mới
là ngồi thiền; đối với các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo
mới là ngồi thiền; không đoạn phiền não mà vào Niết Bàn mới là ngồi thiền. Nếu
ngồi thiền như thế là chỗ Phật ấn khả (chứng nhận) vậy. Là Phật tử, chúng ta phải luôn thấy được như vậy để từ đó
có thể thường xuyên thực tập thiền quán hầu thanh tịnh thân tâm. Phần hành thiền
được lưu truyền từ những kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy, căn cứ trên những
phương pháp mà chính Đức Phật đã áp dụng, pháp môn hành thiền đã đưa Ngài đến
giác ngộ và Niết Bàn, và từ chính kinh nghiệm bản thân của Ngài trong sự phát
triển tâm linh. Chữ “Thiền” thật sự không phải là từ tương đương với chữ
“Bhavana” trong ngôn ngữ Nam Phạn, mà đúng theo nguyên nghĩa có nghĩa là mở
mang hay phát triển, trau dồi hay làm cho trở thành, là sự nỗ lực xây dựng tâm
vắng lặng và an trụ, có khả năng nhận thức rõ ràng bản chất thật sự của tất cả
các pháp hữu lậu và chứng ngộ Niết Bàn, trạng thái tâm lành mạnh lý tưởng. Pháp
môn hành thiền mà chính Đức Phật đã chứng nghiệm gồm có hai phần: (1) an trụ
tâm là gom tâm vào một điểm, hay thống nhất, tập trung tâm vào một đề mục, hay
nhất điểm tâm; (2) Thiền minh sát tuệ. Một trong hai phần này là samatha hay tập
trung tâm ý hay trụ tâm vào một đề mục và không hay biết gì khác ngoài đề mục.
Thiền tập bắt đầu bằng sự an trụ tâm. An trụ là trạng thái tâm vững chắc, không
chao động hay phóng đi nơi khác. An trụ tâm là gì? Dấu hiệu của tâm an trụ là
như thế nào? Nhu cầu và sự phát triển tâm an trụ như thế nào? Bất cứ sự thống
nhất nào của tâm cũng là tâm an trụ. Tứ niệm xứ là dấu hiệu của tâm an trụ. Tứ
chánh cần là nhu cần thiết của tâm an trụ. Bất cứ sự thực hành hay phát triển
nào, sự tăng trưởng nào của các pháp trên đều là sự phát triển của tâm an trụ.
Lời dạy này chỉ một cách rõ ràng ba yếu tố của nhóm định: chánh tinh tấn, chánh
niệm và chánh định cũng sinh hoạt và nâng đỡ lẫn nhau. Chúng gồm chứa sự gom
tâm chân thật. Phải nói rõ rằng sự phát triển của tâm an trụ được dạy trong Phật
giáo không chỉ riêng Phật giáo mới có. Từ trước thời Đức Phật các đạo sĩ Du Già
đã có thực hành những pháp môn “thiền định” khác nhau, như hiện nay họ vẫn còn
thực hành. Xứ Ấn Độ từ bao giờ vẫn là một vùng đất huyền bí. nhưng pháp hành Du
Già đã áp dụng nhiều nhất ở Ấn Độ chỉ đưa đến một mức độ nào chứ không hề vượt
xa hơn. Thiền định hay sự phát triển tâm linh, hay quán chiếu về khổ, vô thường
và vô ngã. Thiền định trong các trường phái Phật giáo tuy có khác nhau về hình
thức và phương pháp, nhưng cùng có một mục tiêu chung là làm tinh thần tập
trung, thanh thản và trong suốt như một dòng sông nước trong mà người ta có thể
nhìn thấy tận đáy, từ đó ý thức biết được sự thể nghiệm về ngộ, giải thoát và đại
giác. Ngoài ra, cố gắng thực tập thiền định thường xuyên nếu hành giả chưa nhập
vào chân lý thì ít ra cũng sẽ giúp chúng ta xa rời nhị nguyên phân biệt. Thiền
cũng là quá trình tập trung và thấm nhập nhờ đó mà tâm được yên tĩnh và nhất
tâm bất loạn (qui nhất), rồi đi đến giác ngộ. Thiền định để chỉ những giáo lý
thiền thuộc về Phật giáo, nhưng áp dụng đặc biệt vào Thiền Tông. Là một tông
phái Phật giáo Đại Thừa, Thiền là một tôn giáo thoát khỏi giáo điều mà chỉ hướng
thẳng đến sự tự chứng ngộ. Tỷ như sự tự chứng ngộ của Đức Phật Thích Ca dưới cội
cây Bồ Đề sau khi nỗ lực tu tập. Thiền tông Việt Nam bao gồm các phái Lâm Tế,
Tào Động, và Trúc Lâm.
4.
A Mental Development
Zen
does not encourage practitioners to involve worshipping or praying to some supernatural being, but seeing into our
true nature and realizing that our true nature is Buddha-nature. To arrive at
this insight we must cultivate ourselves, we must practice. How can we discover
our true nature if we blindly cling to the scriptures and do not practice for
ourselves? If we go to a meditation center and speak with a Zen master,
sometimes he may answer our questions with silence. This is the silence of
knowledge. It does not mean that the Zen master does not know how to answer;
rather it means that he is trying to communicate that there are some things
which cannot be explained in words, things which will ever remain in the
dark until we discover them through our
own experience. This is one of the three flavors taught by the Buddha. To sit
in dhyana (abstract meditation, fixed abstraction, contemplation). Its
introduction to China is attributed to Bodhidharma, though it came earlier, and
its extension to T’ien-T’ai. According to the Vimalakirti Sutra, Vimalakirti
reminded Sariputra about meditation, saying: “Sariputra, meditation is not necessarily
sitting. For meditation means the
non-appearance of body and mind in the three worlds (of desire, form and
no
form); giving no thought to inactivity when in nirvana while appearing (in the
world) with respect-inspiring deportment; not straying from the Truth while
attending to worldly affairs; the mind abiding neither within nor without;
being imperturbable to wrong views during the practice of the thirty-seven
contributory stages leading to enlightenment: and not wiping out troubles
(klesa) while entering the state of nirvana. If you can thus sit in meditation,
you will win the Buddha’s seal.” We, Buddhist followers, should always see
this, so that we can practice meditation on a regular basis to purify our body
and mind. The exposition of meditation as it is handed down in the early
Buddhist writings is more or less based on the methods used by the Buddha for
his own attainment of enlightenment and Nirvana, and on his personal experience
of mental development. The word meditation really is no equivalent for the
Buddhist term “bhavana” which literally means ‘development’ or ‘culture,’ that
is development of the mind, culture of the mind, or ‘making-the-mind become.’
It is the effort to build up a calm, concentrated mind that sees clearly
the
true nature of all phenomenal things and realizes Nirvana, the ideal state of
mental health. Meditation as practiced
and experienced by the Buddha is twofold: Concentration of the mind (samatha or
samadhi) that is one-pointedness or unification of the mind, and insight
(vipassana, skt—vipasyana or vidarsana). Of these two forms, samatha or
concentration has the function of calming the mind, and for this reason the
word samatha or samadhi, in some contexts, is rendered as calmness, tranquility
or quiescence. Calming the mind implies unification or “one-pointedness”
of the
mind. Unification is brought about by focussing the mind on one salutary
object
to the exclusion of all others. Meditation begins with concentration.
Concentration is a state of undistractedness. What is concentration? What is
its marks, requisites and development? Whatever is unification of mind, this is
concentration; the four setting-up of mindfulness are the marks of
concentration; the four right efforts are the requisites for concentration; whatever
is the exercise, the development, the increase of these very things, this is
herein the development of concentration. This statement clearly indicates that
three factors of the samadhi group, namely, right effort, right mindfulness,
and right concentration function together in support of each other. They
comprise real concentration. It must be mentioned that the development of
concentration or calm (samath or bhavana) as taught in Buddhism, is not
exclusively Buddhist. Practitioners, before the advent of the Buddha, practiced
different systems of meditation as they do now. India has always been a land of
mysticism, but the Yoga then prevalent in India never went beyond a certain
point. Meditation or Mental development, or to meditate upon the implications
or disciplines of pain, unreality, impermanence, and the non-ego. Although
different in forms and methods in different Buddhist schools, but has the same
goal is to concentrate the mind of the cultivators, to calm and to clarify it as one would calm and clarify the surface of a turbulent body of water, so
that the bottom of which can be seen. Once the surface of that turbulent
water
is pacified, one can see it’s bottom as when the mind is pacified, one can come
to an expierence or a state of awakening, liberation or enlightenment. In
addition, diligent repetition of practice of meditation, if the cultivator has
not yet become one with the “absolute truth,” dualistic state of mind and
distinction between subject and object disappeared in that person. Zen is also
a process of concentration and absorption by which the mind is first
tranquilized and brought to one-pointedness, and then awakened. The term
“Dhyana” connotes Buddhism and Buddhist things in general, but has special
application to the Zen (Ch’an) sects. As a Mahayana buddhist sect, Zen is a
religious free of dogmas or creeds whose teachings and disciplines are directed
toward self-consummation. For example, the full awakening that Sakyamuni
Buddha
himself experienced under the Bodhi-tree after strenuous self-discipline. In
Vietnam, Zen sects comprise of Lin-Chi, T’ao-Tung, and Ch’u-Lin.
5.
Thiền Quán Trong Phật Giáo
“Zen”
là lối phát âm của Nhật Bản của danh từ Ch’an của Trung Hoa, mà từ này lại là lối
phát âm theo từ Dhyana của Phạn ngữ có nghĩa là “thiền.” Điểm đặc biệt của công
phu tu tập đạt đến giác ngộ của Đức Phật là quán chiếu nội tậm. Vì lý do này mà
nhiều người tin rằng rằng họ thiền quán để thành Phật. Vâng, họ đúng. Mục tiêu
cuối cùng của bất cứ người con Phật nào cũng là thành Phật; tuy nhiên, thiền tự
nó không làm cho bất cứ chúng sanh nào thành Phật. Thiền là phương pháp thâm cứu
và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức
để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh chứ không là gì khác hơn. Tuy nhiên,
truyền thống tư duy của Phật giáo không đơn giản như vậy. Truyền thống tư duy của
Phật giáo khác với truyền thống tư duy của các tôn giáo khác vì Phật giáo coi
thiền định không thôi tự nó chưa đủ. Chúng ta có thể nói, với Phật giáo, thiền
định tựa như mình mài một con dao. Chúng ta mài dao với mục đích để cắt vật gì
đó một cách dễ dàng. Cũng như vậy, qua thiền định chúng ta mài dũa tâm mình cho
một mục đích nhất định, trong trường hợp tu theo Phật, mục đích này là trí tuệ.
Trí tuệ có thể xóa tan vô minh và cắt đứt khổ đau phiền não. Trong những giờ
phút trước khi đạt được đại ngộ, chính Đức Phật đã thực hành cách quán chiếu nội
tại trong suốt bốn mươi chín ngày, cho đến lúc Ngài đột nhiên đạt được sự giác
ngộ và trở thành Phật. Khi Ngài quay lại với chính Ngài, Ngài tìm thấy chân
tánh của mình, hay Phật tánh, và Ngài đã thành Phật. Đó là mục tiêu tối thượng
của ‘Thiền’. Thiền theo Phật giáo khác hẳn thiền của những tôn giáo khác. Đa số
các tôn giáo khác đặt một thượng đế tối cao trên con người, từ đó con người phải
lắng lòng cầu nguyện và thờ lạy đấng thượng đế, với quan niệm cho rằng sự thật
phải đến từ bên ngoài. Trong khi đó, thiền Phật giáo quan niệm sự thật không phải
đến từ bên ngoài, mà từ bên trong. Sự thật nằm ngay trong tự tánh của chúng ta chứ
không phải nơi nào khác. Thiền tập là cố sống làm sao cho tâm được bất động
trong thế giới liên tục biến động này. Thiền tập là cố sống như nước, chứ không
như sóng trào hay bọt nổi. Nước thì bất động, vô tác và vô vi; trong khi các đợt
sóng sinh rồi diệt, bọt nổi rồi tan. Hành giả nên luôn nhớ tâm mình như một
dòng suối bất tận của các niệm, thiền tập là tập nhìn vào tâm một cách liên tục,
và cứ sống như nước, bình đẳng cuốn trôi hết tất cả những gì vào dòng suối đang
chảy nầy. Theo Phật giáo, mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, và trở thành Phật chỉ
là quay vào chính mình để tìm lại cái Phật tánh nầy mà thôi. Phật tánh nầy luôn
sẳn có ở trong và luôn chiếu sáng. Giống như mặt trời và mặt trăng, luôn luôn
chiếu sáng, nhưng khi bị mây che phủ, chúng ta không thấy được ánh nắng hay ánh
trăng. Mục đích của người tu thiền là loại trừ những đám mây, vì khi mây tan
thì chúng ta lại thấy nắng thấy trăng. Tương tự, chúng ta luôn có sẳn Phật tánh
bên trong, nhưng khi tham dục, chấp trước và phiền não che phủ, Phật tánh không
hiển hiện được. Trong Phật giáo, thiền làm công việc của một ngọn đuốc đem lại
ánh sáng cho một cái tâm u tối. Giả như chúng ta đang ở trong một căn phòng tối
tăm với một ngọn đuốc trong tay. Nếu ngọn đuốc quá mờ, hay nếu ngọn đuốc bị gió
lay, hay nếu tay chúng ta không nắm vững ngọn đuốc, chúng ta sẽ không thấy được
cái gì rõ ràng cả. Tương tự như vậy, nếu chúng ta không thiền đúng cách, chúng
ta sẽ không bao giờ có thể đạt được trí tuệ có thể xuyên thủng được sự tăm tối
của vô minh để nhìn thấy bản chất thật sự của cuộc sống và cuối cùng đi đến chỗ
đoạn tận được khổ đau và phiền não. Rõ ràng cốt lõi của đạo Phật hay cốt lõi của
Thiền là tu tập bằng trí tuệ, chứ không bằng cách đui tu mù luyện. Nếu mục đích
tu thiền của chúng ta nhằm đạt được thần thôg hay xuất hồn, vân vân, là chúng
ta không phải tu theo Phật. Tu thiền trong Phật giáo chúng ta phải thấy được
cái thật tánh và phải sống với nó. Vì vậy, Phật tử chơn thuần nên luôn nhớ rằng
thiền chỉ là một phương tiện, một trong những phuơng tiện hay nhất để đạt được
trí huệ trong đạo Phật. Hơn nữa, nhờ đạt được trí tuệ mà người ta có thể thấy
được đúng sai và có thể tránh được ham mê cực độ những dục lạc giác quan hoặc
hành hạ thân xác đến độ thái quá.
5.
Meditation and Contemplation in Buddhism
Zen
is the Japanese pronunciation of the Chinese word “Ch’an” which in turn is the
Chinese pronunciation of the Sanskrit technical term Dhyana, meaning
meditation. The distinctive chracteristic of the Buddha’s practice at the time
of his enlightenment was his inner search. For this reason, many people believe
that they meditate to become a Buddha. Yes, they’re right. The final goal of
any Buddhist is becoming a Buddha; however, meditation itself will not turn any
beings to a Buddha.Zen is the method of meditation and contemplation, the
method of keeping the mind calm and quiet, the method of self-realization to
discover that the Buddha-nature is nothing other than the true nature. However,
the contemplative traditions of Buddhism are not simple like that. What distinguishes
Buddhism from the contemplative traditions of other religions is the fact that,
for Buddhism, meditation by itself is not enough. We might say that, for
Buddhism, meditation is like sharpening a knife. We sharpen a knife for a
purpose, let’s say, in order to cut something easily. Similarly, by means of
meditation, we sharpen the mind for a definite purpose, in the case of
cultivation in Buddhism, the purpose is wisdom. The wisdom that’s able us to
eliminate ignorance and to cut off sufferings and afflictions. Before the
moment of ‘Enlightenment’, the Buddha practiced the inward way for forty-nine
days until suddenly He experienced enlightenment and became the Buddha. By
turning inward upon Himself, he discovered His true nature, or Buddha-nature.
This is the ultimate aim of Zen. Zen in Buddhism differs from meditation in
other religions. Most other religions place a supreme God above man and then
ask that man should pray to God and worship Him, implying that reality is to be
sought externally. While Zen in Buddhism holds that reality is to be gotten
hold of, not externally, but inwardly. Zen practice means trying to have a mind
unmoved while living in this continuously moving world. Zen practice means
trying to be like the water, not like waves or bubbles. The water is unmoved,
uncreated and unconditioned while the waves rise and fall, and the bubbles form
and pop endlessly. Zen practitioners should always remember that our mind is
like an endless stream of thoughts, Zen practice means to try to watch the mind
continously, and be like water, which equally flows all things thrown into that
stream. According to Buddhism, every living being has within himself the
Buddha-nature, and to become a Buddha is simply to turn inward to discover this
Buddha-nature. This Buddha-nature is always present within, and eternally
shining. It is like the sun and the moon. The sun and the moon continually
shine and give forth light, but when the clouds cover them, we cannot see the
sunlight or the moonlight. The goal of any Zen practitioner is to eliminate the
clouds, for when the clouds fly away, we can see the light again. In the same
way, human beings always have within ourselves the Buddha-nature, but when our
desires, attachments and afflictions cover it up, it does not appear. In
Buddhism, meditation functions the job of a torch which gives light to a dark
mind. Suppose we are in a dark room with a torch in hand. If the light of the
torch is too dim, or if the flame of the torch is disturbed by drafts of air,
or if the hand holding the torch is unsteady, it’s impossible to see anything
clearly. Similarly, if we don’t meditate correctly, we can’t never obtain the
wisdom that can penetrate the darkness of ignorance and see into the real
nature of existence, and eventually cut off all sufferings and afflictions. It
is obvious that the essentials of Buddhism or Zen focus on the practice with
wisdom, not on ignorance. If our purpose to practice Zen is to gain
supernatural powers, i.e., to release our soul from our body, and so forth, we
are not practicing Zen Buddhism. To cultivate Zen in Buddhism, we have to
realize our true nature and live in it. Therefore, sincere Buddhists should
always remember that meditation is only a means, one of the best means to
obtain wisdom in Buddhism. Furthermore, owing to obtaining the wisdom, one can
see right from wrong and be able to avoid the extremes of indulgence in
pleasures of senses and tormenting the body.
6.
Hành Giả Tu Thiền Trong Đạo Phật Là Ai?
Người
tu thiền là ai? Con người ấy cố gắng tu tập nhằm đạt được giác ngộ từng phần
hay giác ngộ hoàn toàn. Người tu thiền phải nên biết thân này là hư giả, vọng
tưởng là hư giả không thật. Một khi nhận chân ra được cái ngã hư giả là biết được
lý vô ngã mà Đức Phật đã dạy trong kinh điển. Đức Phật giác ngộ từ tu tập thiền
định; chư tổ cũng theo bước chân Phật mà đạt thánh giác ngộ. Như vậy, chúng ta
có con đường nào khác để đi nếu chúng ta muốn thành đạt giác ngộ hay sao? Phật tử thuần thành nên luôn nhớ rằng tinh thần
chân chính của thiền định là dùng trí tuệ để thấy được lẽ thật là thân và tâm
không thật. Khi mà chúng ta thấy được cái lẽ thật ấy rồi thì chúng ta mới có thể
buông bỏ lòng tham chấp và sân hận để tâm chúng ta được thanh tịnh và tỉnh thức,
từ đó chúng ta mới thấy được cái chân thật của chính mình, đó là giải thoát bằng
trí tuệ. Đức Phật chỉ là người cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn mà thôi, còn
thì hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta áp dụng hay không áp dụng những kỹ thuật nầy
trong cuộc sống hằng ngày của chính mình. Như vậy người tu thiền là người đang
tu tập thiền quán trong từng phút giây của cuộc đời mình. Có lẽ người ấy đã đạt
được từng phần hay toàn phần giác ngộ. Khi tu tập Thiền, hành giả nhận biết rằng
thân này không thật, rằng cái gọi là tâm đó vô thường, rằng ao ước vọng tưởng
không thật, rằng chư pháp không có cái gọi là ‘ngã’. Chư tổ trong Phật giáo thường
nói, “Kinh điển là miệng Phật, còn Thiền là tâm Phật. Miệng Phật và tâm Phật
không phải là hai thứ khác nhau.” Những gì đức Phật nói ra là từ tâm của Ngài;
vì vậy mà Thiền và kinh điển không phải là hai thứ khác nhau. Nhiều người vẫn
còn hiểu lầm rằng Thiền là một tông phái ngoại giáo chứ không phải Phật giáo
vì tông phái này không truyền bằng những
lời dạy trong kinh điển, mà là tâm truyền tâm. Tông phái này không dựa vào kinh
điển. Tuy nhiên, sau khi hiểu thấu đáo, chúng ta sẽ thấy rằng Thiền và kinh điển
không có gì khác cả. Đức Phật đã đạt đến giác ngộ để thành Phật từ tu tập thiền
quán; các vị thầy sau nầy cũng theo chân Ngài mà đạt được giác ngộ. Như vậy chúng
ta tu thiền là tu tập con đường giác ngộ của đức Phật, chứ không là con đường
nào khác. Tinh thần chân chính của Thiền Phật giáo là dùng trí tuệ để thấy được
chân lý; để thấy thân này và tâm này không thật. Khi chúng ta thấy được chân lý
ấy rồi thì chúng ta buông bỏ tham sân để tâm chúng ta trở nên tỉnh lặng. Ngoài
ra, khi tu tập thiền quán, chúng ta còn thấy được cái chân thật trong chính
chúng ta, đó chính là giải thoát bằng trí tuệ. Đức Phật chỉ có thể là cung cấp
cho chúng ta những hướng dẫn về tu tập thiền quán. Còn thì hoàn toàn tùy thuộc
vào chúng ta có áp dụng những kỹ thuật thiền định này vào cuộc sống hằng ngày của
mình hay không mà thôi.
6.
Who Is A Zen Practitioner in Buddhism?
Who
is a Zen practitioner? He is the one who tries to practice to attain partial or
complete enlightenment. When learning Zen, the practitioner can realize that
this body is not real, that wishful thinking is also not real. Once realizing
this falsity is understanding the Buddha’s teaching of no self. The Buddha became
enlightened from practicing Zen; other masters also followed his step and
attained their enlightenment as well. Then, do we have any other paths to
follow if we want to become enlightenment? Devout Buddhists should always
remember that the true spirit of Zen Buddhism is to use wisdom to see the
truth; the body and mind are not real. When we are able to see the truth, we
can then forsake greed and anger; our mind then will be calm and mindful, and
we shall see the truth within ourselves; that is emancipation through wisdom.
The Buddha can only provide us with guidelines of Zen. It is up to us to apply
these techniques in our daily life. Therefore, a Zen practitioner is the one
who is practicing Buddhist meditation in
each moment of his life. Perhaps he has attained partial or complete
enlightenment. When cultivating Zen, the practitioner can realize that this
body is not real, that the so-called mind is impermanent, that wishful thinking
is also not real, that all things are without a so-called ‘self’. Buddhist Zen
Patriarchs always say, “The Sutra is the Buddha’s mouth, and Zen is the
Buddha’s heart. The Buddha’s mouth and heart are not two, not different.” The
Buddha’s words come from his mind; thus how can Zen and sutra be two different
things? Many people still misinterpret the special concepts of Zen, saying that
Zen is an outside sect, not Buddhism because its instruction or teaching from
outsiders, its special transmission outside of the teaching, its transmission
is from mind to mind. This intuitive school which does not rely on texts or
writings. However, after thorough understanding , we will see that Zen and
sutra are not different at all. The Buddha became enlightened from practicing
Zen; other masters also followed his step and attained their enlightenment as
well. Then, we practice meditation means we only follow the Buddha’s path to
enlightenment, not any other paths. The true spirit of Zen Buddhism is to use
wisdom to see the truth; the body and mind are not real. When we are able to
see the truth, we can then forsake greed and anger; our mind then will be calm,
and we shall see the truth within ourselves; that is emancipation through
wisdom. Besides, when practicing Zen, we also see the truth within ourselves;
that is emancipation through wisdom. The Buddha can only provide us with
guidelines of Zen. It is completely up to us to apply these techniques in our
daily life.
7.
Phát Triển Toàn Thể Con Người
Danh
từ “hành thiền” không thể nào tương đương được với từ “bhavana” mà nguyên nghĩa
là mở mang và trau dồi, mà là mở mang và trau dồi tâm. Đó là nỗ lực nhằm xây dựng
một cái tâm vắng lặng và an trụ để có thể thấy được rõ ràng bản chất thật sự của
tất cả các pháp hữu vi và cuối cùng chứng nghiệm được niết bàn. Pháp hành thiền
không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay người Trung Hoa, hay chỉ cho thời Đức
Phật còn tại thế, mà là cho tất cả mọi người, bất kể họ từ đâu đến, bất kể họ
theo tôn giáo nào hay thuộc chủng tộc nào. Thiền tập không phải là pháp môn mới
có hôm qua hay hôm nay. Từ vô thỉ, người ta đã hành thiền bằng nhiều phương
cách khác nhau. Sau khi chứng ngộ, một lần Đức Phật đã khẳng định: “Chưa hề bao
giờ và sẽ không bao giờ có sự phát triển tâm linh hay thanh lọc bợn nhơ nơi
tinh thần nào mà không nhờ hành thiền. Hành thiền là phương cách mà Ta đã chứng
ngộ và đạt được Chánh đẳng Chánh giác.” Tất cả các tôn giáo đều có dạy về một
loại thiền, nhằm rèn luyện tâm trí để phát triển nội tâm. Có thể là im lặng
nguyện cầu, tụng niệm kinh thánh cá nhân hay tập thể, hay tập trung vào một đề
mục, một nhân vật hay một ý niệm thiêng liêng nào đó. Và người ta tin rằng những
cách thực tập tâm linh ấy, đôi khi có thể đưa đến kết quả là nhìn thấy thánh
linh hay các đấng thiêng liêng, để có thể nói chuyện với các ngài, hay nghe được
tiếng nói của các ngài, hay một vài chuyện huyền bí có thể xảy ra. Chúng ta
không thể cả quyết một cách chắc chắn những điều đó là những hiện tượng thực có
hay chỉ là ảo tưởng, là trí tưởng tượng, là ảo giác, hay chỉ là một cái gì chỉ
hiển hiện trong tâm hay trong tiềm thức. Nhưng Phật tử thuần thành nên luôn nhớ
rằng, theo giáo thuyết nhà Phật, tâm là một năng lực có thể gây nên tất cả những
hiện tượng trên. Các kinh điển Phật giáo có ghi rằng do chứng đạt thiền định
qua sự phát triển các giác quan, con người có thể đắc thần thông. Nhưng một điều
cực kỳ quan trọng phải nhớ là thiền trong Phật giáo không phải là trạng thái tự
thôi miên hay hôn mê. Nó là trạng thái tâm thanh tịnh, trong đó các dụng vọng
và khát vọng đều được khắc phục, từ đó tâm trở nên an trụ và tỉnh thức. Hành thiền
chắc chắn không phải là sự lưu đày tự nguyện để tách rời khỏi cuộc sống, cũng
không phải là thực tập cái gì đó cho kiếp sau. Hành thiền phải được áp dụng vào
công việc của cuộc sống hằng ngày, và kết quả phải đạt được bây giờ và ở đây.
Thiền không phải tách rời với công việc hằng ngày, mà nó là một phần của đời sống.
Chúng ta vẫn tham gia các hoạt động thường nhật, nhưng giữ cho mình thoát được
cảnh hối hả rộn rịp của thành phố và những phiền toái bực bội của thế gian, việc
này nói dễ khó làm, nhưng nếu cố gắng thiền tập chúng ta có thể làm được. Bất cứ
sự thiền tập nào cũng đều giúp chúng ta rất nhiều trong việc đối phó với các diễn
biến trong cuộc sống một cách trầm tĩnh. Và chính sự trầm tĩnh này sẽ giúp
chúng ta vượt qua những khổ đau và phiền não trong đời. Theo Phật giáo, hành
thiền là một lối sống. Đó là lối sống trọn vẹn chứ không phải là sinh hoạt rời
rạc. Pháp hành thiền là nhằm phát triển toàn thể con người chúng ta. Chúng ta
hãy cố gắng đạt được sự toàn hảo ấy ở đây và ngay trong kiếp này, chứ không phải
đợi đến một thời hoàng kim nào đó trong tương lai. Chúng ta sẽ thành gì nếu
chúng ta vẫn tham gia những sinh hoạt thường nhật mà không vướng mắc, không mắc
kẹt, không rắc rối với những trở ngại của thế tục. Chúng ta có phải là những
chân tử của Đức Như Lai hay không. Vâng, chúng ta đích thực là những chân tử của
Đức Như Lai. Phật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng pháp hành thiền được dạy
trong Phật giáo không nhằm gặp gỡ tâm linh với một đấng tối thượng nào, cũng
không nhằm đạt đến những chứng nghiệm huyền bí, mà chỉ nhằm thành tựu vắng lặng
và trí tuệ, và chỉ với một mục đích duy nhất là đạt được sự giải thoát không
lay chuyển của tâm mình. Điều này chỉ thực hiện được khi chúng ta tận diệt mọi
nhơ bợn tinh thần mà thôi. Trong quá khứ, nhiều người tin rằng pháp hành thiền
chỉ riêng dành cho chư Tăng Ni mà thôi, sự việc đã thay đổi, ngày nay hầu như mọi
người đều thích thú lưu tâm đến thiền tập. Nếu hiểu rằng thiền là một kỷ luật
tinh thần, hay một phương pháp trau dồi tâm trí thì mọi người nên hành thiền, bất
kể là nam hay nữ, già hay trẻ, Tăng hay tục. Pháp hành thiền là một hiện tượng
đặc thù của kiếp con người, do đó phải được đề cập theo quan điểm của con người,
với những cảm giác và kiến thức của con người. Bản chất những khó khăn của con
người và phương cách giải quyết những khó khăn ấy chủ yếu thuộc về tâm lý. Pháp
thiền và huyền bí không tồn tại cùng một lúc. Đó là hai việc hoàn toàn khác biệt
nhau. Trong khi huyền bí đưa chúng ta lìa khỏi thực tại, thì pháp thiền hành
mang chúng ta trở về với thực tại, vì qua phép hành thiền chân chánh chúng ta
có thể thấy được những ảo vọng và ảo tượng của chính mình không bị chúng lừa dối
nữa. Điều này mang đến cho chúng ta một sự chuyển hóa toàn diện về con người của
mình. Điều này là tháo gỡ những gì ta đã học ở thế tục. Chúng ta lại phải dứt bỏ
nhiều điều mà trước kia chúng ta đã học và đã thích thú giữ chặt một khi chúng
ta nhận ra rằng chúng chỉ là những trở ngại mà thôi.
7.
Developing Man As A Whole
The
word “meditation” really is no equivalent for the Buddhist term “bhavana” which
literally means “development” or “culture,” that is development of the mind,
culture of the mind. It is the effort to build up a calm, concentrated mind
that sees clearly the true nature of all phenomenal things and finally realizes
Nirvana, the ideal state of mental health. Meditation is not only for Indian or
Chinese people, or for the Buddha’s time, but for all mankind at all times,
regardless of their origin, religion, or ethnic races. Meditation is not a
practice of today or yesterday. From beginningless time, people have been
practicing meditation in different ways. After experiencing enlightenment, the
Buddha once confirmed: “There never was, and never will be, any mental
development or mental purity without meditation. Meditation was the means by
which I gained supreme enlightenment.” All religions teach some kind of
meditation or mental training for man’s inner development. It may take the form
of silent prayer, reading individually or collectively from some “holy scriptures”
or concentrating on some sacred object, person or idea. And it is believed that
these mental exercises, at times, result in seeing visions of saints or holy men, engaging in conversation with
them, or hearing voices, or some mysterious occurences. Whether they are
illusions, imaginations, hallucinations, mere projections of the subconscious
mind or real phenomena, one cannot say with certainty. But devout Buddhists
should always remember that according to Buddhist doctrines, mind is an
invisible force capable of producing all these phenomena. Buddhist books tell
us that through meditative absorption (jhana or dhyana), through the
development of mental faculties, man is capable of gaining psychic powers. But
it is extremely important to bear in mind that the Buddhist meditation is not a
state of auto-hypnosis, or coma. It is a state of mental purity where
disturbing passions and impulses are subdued and calmed down so that the mind
becomes unified and collected and enters into a state of clear consciousness
and mindfulness. Meditation, certainly, is not a voluntary exile from life; or
something practiced for the hereafter. Meditation should be applied to the
daily affairs of life, and its results obtained here and now. It is not
separated from the work-a-day life. It is aprt and parcel of our life. We still
participate in all daily activities, but remain free from the rush of city
life, from nagging preoccupation with the world, this is easy to say but not
easy to do; however, if we consistently practice meditation, we can do it. Any
meditation we do is of immense help in enabling us to face all this with calm.
And the calmness itself will in turn help us overcome all sufferings and
afflictions. According to Buddhism,
meditation is a way of living. It is a total way of living and not a partial
activity. It aims at developing man as a whole. Let’s strive for perfection here and in this very life, not in
some golden age yet to come. What will we become when we are still
participating in daily activities, but free from all worldly attachments,
bonds, hindrances, and other problems.
Are we a real son of the Buddha? Yes, we are. Devout Buddhists should always remember that meditation taught in
Buddhism is neither for gaining union with any supreme being, nor for bringing
about any mystical experiences, nor is it for any self-hypnosis. It is for
gaining tranquility of mind (samatha) and insight (vipassana), for the sole
purpose of attaining unshakable deliverance of the mind. This can only be
obtained through the total extinction of all mental defilements. Many believe
that meditation is only for monks and nuns in the past, things have changed and
now there is a growing interest in medtation in almost everyone. If by
meditation is meant mental discipline or mind culture, all should cultivate
meditation irrespective of gender, age, clergy or lay. Meditation is
distinctively a human phenomenon, and therefore, should be dealt with from a
human point of view, with human feelings and human understanding. Human problems
and their solutions are basically psychological in nature. True meditation and
mysticism do not co-exist. They are two different things. While mysticism takes
us away from reality, meditation brings us to reality; for through real
meditation we can see our own illusions and hallucinations face to face without
pretence. This brings about a total transformation in our personality. It is
more of an unlearning than a worldly learning. We have to give up many things
that we have learned and hugged in great glee once we realize that they are
hindrances and obsessions.
8.
Những Dòng Thiền Truyền Thừa
Ý
tưởng về dòng truyền thừa chủ yếu đặt vào Tăng đoàn: sự ưu thế của mối quan hệ
thầy-trò hỗ trợ cho sự thiếu vắng quyền lực trung ương bằng cách chuyển đổi
gánh nặng này qua quyền hạnh ở mức độ cá nhân. Dòng truyền thừa nói đến sự truyền
thừa không gián đoạn từ thời Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Những vị thầy này là nền
tảng thật sự của truyền thống giáo pháp và thực hành Phật giáo. Sự truyền thừa
này cũng bảo đảm thông điệp nguyên thủy của Đức Phật được lưu truyền không bị
bóp méo. Khi nói đến dòng truyền thừa người ta thường nghĩ đến dòng Thiền bắt đầu
từ sự truyền Tâm Ấn từ Đức Phật đến Tổ Ma Ha Ca Diếp. Việc thay thế vị Tổ trước
làm Tổ đời sau trong Phật giáo, thường là được Tổ trước chính thức thừa nhận
như người kế thừa, đặc biệt là Thiền Tông. Sau khi Đức Phật nhập diệt, ngài Ma
Ha Ca Diếp là vị Tổ Thiền Phật Giáo đầu tiên tại Ấn Độ. Theo truyền thống Thiền
Tông được truyền sang từ Ấn Độ sang Trung Quốc, để trở thành Tổ, vị nầy phải nhận
y bát từ vị Tổ trước. Trong khoảng hơn 1.000 năm, có 28 vị Tổ ở Ấn Độ, mỗi vị
có trách nhiêm tu tập và duy trì Chánh pháp của Phật. Cuối cùng, vị Tổ thứ 28
sang Trung Quốc và trở thành vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trung Hoa. Tổng cộng Thiền
Tông có 33 vị Tổ. Sau Lục Tổ Huệ Năng thì sự truyền thừa nầy chấm dứt. Vì thế Lục
Tổ không truyền y bát cho những vị kế thừa nữa.
8.
Handed-Down Traditions
The
idea of the lineage is central to the Sangha: the dominance of the master-pupil
relationship compensates for the absence of a central power by shifting the
burden of authority to the personal level. Lineage refers to the unbroken
chains of transmission stretching back to the Sakyamuni Buddha. These masters
are the real foundation of the living tradition of Buddhist teaching and
practice. This also ensures the Buddha’s original message is preserved
undistorted and in its essentials. When talking about “Lineage” people always
think about the Zen Lineage which began with the transmission of the Mind Seal
from the Buddha to the First Patriarch Mahakasyapa. To take over the Patriarch
position by having the former Patriarch formally recognize the person as the
successor, especially the Zen tradition. After the Buddha entered Maha-Nirvana,
the first Patriarch of Buddhism was one of the Buddha great disciples, Maha
Kasyapa. According to this Zen tradition, in order to become a Patriarch, the
highest virtuous Buddhist Master must receive the Buddha’s 'patra bowl,' the
bowl which the Buddha used to receive food offering, and ‘robe’ from the
Patriarch before him. Thus, for over 1,000 years, there were twenty-eight
Indian Patriarchs, each having the responsibility to practice and to uphold the
proper Dharma of Buddha. Eventually the twenty-eighth Patriarch named
Bodhidharma came to China and also became the first of Six Patriarchs of Zen
Buddhism in China. Overall, there were 33 official Patriarchs in Zen Buddhism.
After the Sixth Patriarch, Hui-Neng, this tradition of formally passing on
Patriarchy was discontinued. Thus Hui Neng did not pass down the Buddha’s patra
bowl and robe to his highest and most deserving disciples.
9.
Thiền Vô Ngã Tướng
Vô
ngã là một trong tám đặc tánh của giác ngộ trong Thiền. Có lẽ khía cạnh đáng
chú ý nhất của kinh nghiệm Thiền là ở chỗ nó không có dấu vết nhân ngã. Trong sự
chứng ngộ của Phật giáo, không hề có chút dính dáng với những quan hệ và xúc cảm
cá nhân bằng những từ ngữ thông diễn dựa trên một hệ thống hữu hạn của tư tưởng;
thực tình, chẳng liên quan gì với chính kinh nghiệm. Dù ở đâu đi nữa, thì sự chứng
ngộ hoàn toàn mang tính cách vô ngã, hay đúng hơn, trí năng tối thượng. Không
những sự chứng ngộ chỉ là một biến cố bình thường, nhạt nhẽo, mà cái cơ duyên
kích phát như cũng vô vị và thiếu hẳn cảm giác siêu nhiên. Sự chứng ngộ được
kinh nghiệm ngay trong mọi biến cố bình sinh. Nó không xuất hiện như một hiện
tượng phi thường mà người ta thấy ghi chép trong các tác phẩm thần bí của Thiên
Chúa giáo. Khi sự bùng vỡ của tâm trí bạn đã đến lúc chín mùi, người ta nắm tay
bạn, vỗ vai bạn, mang cho một chén trà, gây một chú ý tầm thường nhất, hay đọc
một đoạn kinh, một bài thơ, bạn chứng ngộ tức khắc. Ở đây chẳng có tiếng gọi của
Thánh linh, chẳng có sự sung mãn của Thánh sủng, chẳng có ánh sáng vinh danh
nào hết. Và ở đây chẳng chút sắc màu lộng lẫy; tất cả đều xám xịt, không một
chút ấn tượng, không một chút quyến rũ.
Trong
thiền tập, trước tiên bạn hãy rũ bỏ ngã tướng. Nếu có ngã tướng thì sẽ sinh ra
đủ thứ chướng ngại, và bạn không thể đạt được một loại trí huệ nào cả. Một khi
có ngã tướng thì tự mình sanh ra tâm ích kỷ, rồi sau đó sanh ra tâm tự lợi, tâm
tìm cầu, tâm tham lam. Khi cầu không được, mà tham cũng không xong, thì lại
sanh ra tâm tranh đấu, quyết tranh hơn tranh thua cùng người khác để quyết định
mạnh yếu. Tham thiền tức là quét sạch hết những bụi vọng tưởng. Khi mình không
còn vọng tưởng, ấy chính là nghĩa của câu “thời thời thường phất thức,” vì hành
giả tu thiền không muốn cho tâm mình bám đầy bụi. Đây chính là Pháp môn “Quét sạch
tất cả mọi pháp, xa rời tất cả tướng” hay Thiền Vô Ngã Tướng.
9.
Zen Without Mark of the Self
Impersonal
Tone is one of the eight chief characteristics of ‘satori.’ In Zen. Perhaps the
most remarkable aspect of the Zen experience is that it has no personal note in
it as is observable in Christian mystic experiences. There is no reference
whatever in Buddhist satori to such personal feelings. We may say that all the
terms are interpretations based on a definite system of thought and really have
nothing to do with the experience itself. In anywhere satori has remained
thoroughly impersonal, or rather highly intellectual. Not only satori itself is
such a prosaic and non-glorious event, but the occasion that inspires it also
seems to be unromantic and altogether lacking in super-sensuality. Satori is
experienced in connection with any ordinary occurrence in one’s daily life. It
does not appear to be an extraordinary phenomenon as is recorded in Christian
books of mysticism. Sometimes takes hold of you, or slaps you, or brings you a
cup of tea, or makes some most commonplace remark, or recites some passage from
a sutra or from a book of poetry, and when your mind is ripe for its outburst,
you come at once to satori. There is no
voice of the Holy Ghost, no plentitude of Divine Grace, no glorification of any
sort. Here is nothing painted in high colors, all is grey and extremely
unobstrusive and unattractive.
In
practices of meditation, first of all, you cannot have the mark of self. If you have the mark of self, all
kinds of obstacles will arise, and you will obtain no wisdom at all. Once there
is a mark of self, selfish thoughts arise, followed by thoughts of seeking and
greed. if you do not obtain what you seek and crave, contentious thoughts
arise, and you will struggle with others to see who is stronger. The practice
meditation means to diligently wipe the mirror of the mind or to clean it. Only
when we are free of all random thoughts are we “diligently wiping it clean at
all times.” We want to wipe it clean so it will not get dusty. This is the
Dharma-door of “Sweeping away all dharmas, and separating from all marks.”
10.
Kiểm Soát và Tịnh Tâm
Bạn
nên kiểm soát thân tâm mọi lúc, chứ không chỉ lúc ngồi thiền. Lúc nào thân tâm
chúng ta cũng phải thanh tịnh và tỉnh thức. Thiền là chấm dứt vọng niệm; tuy
nhiên, nếu bạn không có khả năng chấm dứt vọng niệm thì bạn nên cố gắng tập
trung tâm của bạn vào một tư tưởng hay một đối tượng quán tưởng mà thôi. Điều
này có nghĩa là bạn nên biết bạn đang nghĩ gì hay đang làm gì trong những giây
phút hiện tại này. Trong thiền không có lòng ham muốn, dù chỉ là ham muốn cái
“định”, vì một khi đã có ham muốn thì sẽ có sự phấn đấu hay sự thôi thúc để
thành đạt, và đây chính là ý niệm về một cái tâm bị điều kiện hóa. Khi bạn có
khả năng quan sát và biết rõ chính bạn, ấy là bạn đang thực tập thiền quán. Khi
bạn biết con đường bạn đi, bạn ăn cái gì và ăn như thế nào, bạn nói cái gì và
nói như thế nào... ấy là bạn đang thực tập thiền quán vậy. Khi tâm bạn chứa đựng
chuyện tào lao, hận thù hay ganh ghét, bạn biết tâm bạn đang dung chứa những thứ
ấy, đó là bạn đang thực tập thiền vậy. Thiền không là cái gì khác với sinh hoạt
hằng ngày của bạn. Nếu mỗi ngày bạn bỏ ra một hay hai tiếng để vào phòng ngồi
thiền rồi sau đó bạn quay ngay về làm một kẻ lường gạt, thì bạn và kẻ suốt ngày
lường gạt có gì khác nhau đâu? Như vậy chân thiền phải là một loại thiền mà bạn
có thể thiền bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt hằng ngày của bạn. Và như vậy
thiền không có bắt đầu lại cũng không có chấm dứt. Theo Thiền sư Độc Thể trong
Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu: “Vừa mới thức dậy vào ban sáng, tôi mong cho mọi người
chóng đạt được trạng thái tỉnh thức lớn, hiểu biết thông suốt mười phương. Khi
múc nước rửa tay, tôi mong cho mọi người có những bàn tay trong sạch để đón nhận
chân lý. Mỗi khi mặc áo, rửa chân, đi cầu, trải chiếu, gánh nước, hay súc miệng...
Tôi đều mong cho ai nấy đều có được thân tâm tỉnh thức và thanh tịnh.” Tuy
nhiên, để thực hiện được tâm tỉnh thức và thân thanh tịnh, chúng ta nên thực
hành tọa thiền mỗi ngày. Khi ngồi thiền nên ngồi thẳng thớm và luôn nghĩ rằng
mìng đang ngồi trên pháp tọa Bồ Đề vậy. Trong lúc tọa thiền, những cảm thọ và ý
tưởng có thể khởi dậy trong ta. Nếu chúng ta không dùng những phương pháp quán
niệm hơi thở hay niệm Phật thì chúng sẽ kéo chúng ta ra khỏi sự tỉnh thức.
Nhưng theo dõi hay đếm hơi thở hay niệm Phật không chỉ là cách nhằm xua đuổi tư
tưởng và cảm thọ tạp nhạp, mà chúng còn là cách nối thân và tâm và là cửa đi
vào trí tuệ. Khi có tạp niệm khởi lên, chúng ta chỉ cần tiếp tục theo dõi, hay
đếm hơi thở, hay niệm Phật, chứ đừng có ý xua đuổi, ghét bỏ hay e sợ những tạp
niệm này. Chúng ta chỉ cần nhận diện là có tạp niệm hay có cảm thọ đau nhức
đang phát hiện nơi ta. Nếu tạp niệm còn tồn tại, ta tiếp tục nhận biết là tạp
niệm tiếp tục tồn tại. Nếu cảm thọ đau nhức khởi lên, chúng ta nhận biết có đau
nhức. Nếu cảm thọ đau nhức tiếp tục tồn tại, thì ta nhận diện nó còn tồn tại.
Điều thiết yếu là đừng để cho bất cứ cảm thọ hay tạp niệm nào khởi lên mà mình
không nhận biết. Như vậy Thiền là sự tỉnh thức về mọi việc xảy ra. Thiền là thức
ăn cho thân tâm, đặc biệt là Thiền tọa. Thân thể cũng nhờ thiền tọa mà nhẹ
nhàng và an lạc hơn. Từ sự quán tâm đi đến thấy tánh sẽ không gian nan vất vả.
Thiền đòi hỏi một hình thức kỷ luật cao tột, không phải là sự gò ép hay sự bắt
chước, mà là sự thường xuyên thấy biết về chính bạn và những gì quanh bạn. Nếu
bạn dùng phương cách gò ép hay bắt chước trong cuộc hành thiền của bạn, bạn chỉ
là người nấu cát mà muốn thành cơm mà thôi vì lúc đó chính sự gò ép hay sự bắt
chước trở thành một gánh nặng khác cho tâm bạn. Nên nhớ rằng một cái tâm hành
thiền là một cái tâm thường xuyên tự biết chính mình, nghĩa là cái tâm tỉnh thức,
sáng suốt và vô ngại. Như vậy những ai mong có được chứng nghiệm sâu hơn, lớn
hơn hay siêu việt hơn, chỉ là những con người không biết tí gì về chân thiền,
vì một cái tâm tỉnh thức, sáng suốt và vô ngại thì tại sao lại cần đến chứng
nghiệm? Phật tử chân thuần nên luôn nhớ rằng nếu bạn khởi tâm hành thiền, bạn sẽ
không bao giờ có được một cuộc thiền chân chính, vì chính cái tâm muốn thiền ấy
nó có khả năng phá nát cuộc thiền thật sự của bạn. Thiền không phải là một cái
gì cách biệt với những sinh hoạt hằng ngày của bạn, mà nó chính là tinh hoa của
những sinh hoạt ấy.
10.
Mind-Control and Purification
Rapture,
the surest way to mind-control and purification. However, you should control
your body and mind at all times, not only when you sit in meditation. Your body
and mind must be pure and mindful at all times. Meditation means the ending of
thought; however, if you are unable to end your thought, you should try to
concentrate your mind just in one thought or one object of contemplation. That
means you should know what you’re thinking or what you’re doing at the present
time. In Zen, there is no desire, even it’s a desire of “mindfulness”, for if
there is a desire, there must be a struggle or an urge for achievement, and
this is the concept of a conditioned mind. When you are able to watch and know
yourself, you are practicing meditation. When you know the way you walk, what
and how you eat, what and how you say, that means you’re practicing meditation.
When you have gossip, hate, jealousy, etc., in your mind, you know that you’re
haboring gossip, hate and jealousy, you’re practicing meditation. Thus,
meditation is not something different from your daily life activities. If you
set aside an hour or so to sit in a room to meditate then come out of it and go
right back to be a cheater, you are nothing different from (or better than) a
full-time cheater. So a real meditation is a kind of meditation in which you
can meditate at any time in your daily life activities. And thus, meditation
has no beginning nor end. According to Zen master Doc The in the Essential
Discipline for Daily Use: “Just awakened, I hope that everybody will attain
great awareness and see in complete clarity. Washing my hands, I hope that
everybody will have pure hands to receive reality. When puting my robe, washing
the dishes, going to the bathroom, folding the mat, carrying buckets of water,
or brushing teeth... I also hope that everyone will have mindfulness and purity
in both the body and mind.” However, in order to achieve mindfulness for the
mind and purity for the body, we should practice sitting meditation everyday.
When sitting in meditation, you should sit upright and always think that you
are sitting on the Bodhi spot. During sitting meditation, various feelings and
thoughts may arise. If we dont’t practice mindfulness of the breath or Buddha
recitation, these feelings and thoughts will soon lure us away from
mindfulness. But following or counting the breath or Buddha recitation aren’t
simply means by which to chase away odd thoughts and feelings. They are also
means to unite body and mind and to open the gate to wisdom. When a feeling or an
odd thought arise, we should continue to follow or to count our breath, or to
recite the Buddha’s name. We should not chase them away, neither hate them, nor
worry about them. We should simply acknowledge their presence. When an odd
thought arises, we should recognize it; if it still exists, we should recognize
that it still exists, continues to exist. When a feeling of pain arises, we
should recognize it; if it continues to exist, we should recognize that it
continues to exist. The essential thing is not to let any feeling or thought
arise without recognizing them in mindfulness. Meditation means mindfulness of
whatever happening. Meditation is nourishment for our body and mind, especially
sitting meditation. Through sitting meditation, our bodies obtain harmony, feel
lighter, and are more at peace. The path from observation of our mind to seeing
into our own nature won’t be too rough. Meditation requires the highest form of
discipline, not a constraint, nor an imitation, but a constant awareness of you
and your surroundings. If you use methods of constraints or imitation in
practicing meditation, you’re only the person who tries to cook sand for food,
for at that very moment effort of constraints and imitation becomes another
wearisome burden for yourself. We should always remember that a mind of
constant awareness is a mind that is awake, intelligent and free. Thus, those
who wish to seek for wider, deeper, and transcendental experience are those who
know nothing about meditation, for why should a mind of constant awareness need
any kind or any form of experience? Devout Buddhists should always remember
that once you set out to meditate, you never have a real meditation, for a mind
desiring meditation will be able to destroy your real meditation. Meditation is
not a separate thing from your daily life activities, it is the essence of your
daily life activities.
Send comment