Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Sống thiền

24 Tháng Chín 201000:00(Xem: 21033)
Sống thiền


SỐNG THIỀN

“Ta xem sự thiền định như là một cột trụ trên núi cao và niết-bàn là cơn mộng du giữa ban ngày. Ta xem những lời phán quyết về đúng và sai như là sự uốn mình nhảy múa của một con rồng và sự lên xuống của đức tin là dấu vết của bốn mùa để lại.”

Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước. Đến nay, nó đã đi vào học đường, đi vào các sinh hoạt cộng đồng và thậm chí, còn là thời trang văn vẻ cho một số người trí thức nữa.

Đó là điều đáng phấn khởi, đáng khích lệ, nhưng mặt khác, cũng là điều đáng phải e dè vậy. Sự bí truyền khi được phổ truyền thì được xem như một thành công trên mặt số lượng nhưng là một thất bại trên mặt phẩm lượng. Bí truyền ở đây không có nghĩa Thiền chỉ được truyền dạy trong vòng bí mật như kiểu người ta dạy bùa chú hay một môn thuốc gia truyền, cũng không phải Thiền là cái gì bí nhiệm, mang tính thần quyền. Nhưng bởi Thiền vốn là một phương pháp tu tập cao siêu đòi hỏi hành giả phải đủ ý lựctrí lực để đeo đuổi, chứ không phải là một bài toán học, một công thức hay luật tắc để có thể trao truyền và đón nhận một cách dễ dàng qua sự rao giảng giữa công chúng. Thiền là lẽ sốnglẽ sống đó chỉ có giá trị với kẻ nào nắm được nó, tức là sống trong nó, thể nghiệm nó.

Đã có người phê phán rằng Phật giáo đã được phổ cậpđại chúng hóa nhờ vào Mật tôngTịnh Độ tông, nhưng sự đại chúng hóa này lại cũng là “bước đi sa đọa (xuống dốc) của tinh thần Phật giáo”. Ngày nay, có lẽ Thiền tông cũng rập rình đi theo bước chân đó. Sa đọa ở đây không có nghĩa là một thất bại tội lỗi, mà là một sai lầm bất đắc dĩ trong sự cố gắng phơi bày một cách rộng rãi những gì không thể nói được nhưng vì lòng từ bi, phải nói cho quần chúng được hiểu và đi theo. Từ sai lầm này kéo theo sai lầm kia. Nhất là về phía những thiền sinh với nhân số vụt tăng khá nhanh—những thiền sinh của đại chúng mà lối đi của họ dù khoác mặc dáng vẻ thượng lưu kiêu kỳ nào vẫn không thoát khỏi tâm lý sùng thượng, mê tín của thời kỳ tô-tem, bái vật. Người ta sẽ yêu cầu vị thiền sư giảng giải, phân tích chi li về thiền sao cho dễ hiểu hơn; người ta sẽ đòi hỏi một phương pháp thực tập thiền định sao cho mau được kết quả và thuận lợi hơn; và người ta sẽ phê phán, chê bai, công kích các phương pháp tu tập (pháp môn) khác là đi sai truyền thống (thậm chí là mê tín, tà đạo); người ta bám chặt vào để rồi tôn thờ như vật tổ những gì vị thiền sư nói ra (dù là một câu ta thán về sự mê muội cố chấp của tâm lý chúng sanh), không thích ai nói ngược lại với những gì mình tôn thờ. Người ta tôn kính vị thiền sư thay vì đức Phật; tôn kính chữ Thiền thay vì Pháp; tự tôn kính mình thay vì Tăng. Và sai lầm tai hại nhất là người ta tưởng rằng mình đã có thể nắm bắt được thực tại tuyệt đối (bản thể của thiền) qua những lời truyền giảng của vị thiền sư hay qua sự thông minh lý luận của chính mình trong dăm ba cuốn sách thiền đọc được. Đó là những hiện tượng và là tệ trạng có thật đã từng xảy ra trong giới họctu thiền. Chê bai, khinh thường những người tu theo pháp môn khác; tự hào mình là kẻ đi đúng đường, kẻ khác lạc đường; vênh váo cho rằng mình, những người cư sĩ tại gia, có thể sáng mắt vượt trội hơn các tăng sĩ trong chốn thiền môn; ngã mạn đem giáo lý thiền để giảng giải cho tăng sĩ vì thấy những vị này chưa hề hé môi nói gì về Thiền; khuyến khích tăng sĩ tu thiền vì thấy các tăng sĩ này không ngồi thiền ở địa điểm và thời gian mà người khác có thể thấy biết được; lập dị ngồi thiền lim dim ở nơi công cộng v.v... Những hiện tượng trên cứ lâu lâu lại xảy ra như một phong trào khi có một vị thiền sư chân chính xuất hiện. (Mà còn xảy ra nhiều hơn khi có một Thế Tôn hay Phật sống giả hiệu ra đời!) Hiện tượng, phong trào, thường cuốn trôi bao người nhẹ dạ, yếu lòng và nhất là những người nông cạn từ trí tuệ đến ý chí. Cho nên, Thiền hiện nay, như đã nói, trở thành một môn học phổ thông (giống như phương pháp ăn gạo lức hay uống nước lạnh để chữa bệnh) mà trình độ cạn cợt nào cũng có thể hiểu, nói và làm được. Điều này khiến ngay cả vị thiền sư chân chính nhất cũng phải dè dặt trong sự giải thích và giảng dạy Thiền cho môn đồ của mình—bởi vì ông ta không bao giờ muốn định nghĩa Thiền, nhưng môn đệ của ông thì lúc nào cũng muốn có câu định nghĩa để phân biệt, để tăng thêm kiến thức, tăng thêm vốn liếng thiền ngữ mà đi rao truyền cho khắp nhân gian.

THIỀN LÀ GÌ?

Có người đến hỏi vị thiền sư: “Thiền là gì?” Vị thiền sư không đáp thẳng, chỉ rót trà mời khách: “Uống trà đi.”

Thiền là dòng sống lặng lẽ của tự tâmthiền sư là kẻ nắm chắc được dòng sống ấy—thực ra, ngay cả những lời vừa nói, chẳng có lời lẽ dông dài hay đơn giản nào, có thể nói lên được ý nghĩa của thiền nếu không nắm được dòng sống đó.

Thực tại vượt lên trên mọi lý luận. Người ta không thể diễn đạt nó bằng ngôn ngữngôn ngữ chỉ là sản phẩm của tư tưởng, mà tư tưởng chỉ là con đẻ của ý niệm nhị nguyên đối đãi. Ý niệm luôn luôn tạo ra thế ly cách giữa chủ thể (năng) và đối tượng (sở). “Tôi tu thiền” hàm nghĩa rằng có cái “tôi” ở ngoài “thiền” và có “thiền” ở ngoài cái “tôi”. Tôi và Thiền trở thành hai thực thể đối lập, phân ly. Thể của của thiền thì tuyệt đối, bất nhị (không có hai mà là một thể đồng nhất); còn ý niệm thì tương đối, nhị nguyên. Không làm sao có thể định nghĩa hay diễn đạt cái tuyệt đối bằng ngôn ngữ giới hạn của thế giới tương đối. Nhưng, vì phương tiện, vì dẫn đạo, vị thiền sư buộc lòng phải dùng ngôn ngữ để nói với môn đệ của mình. Tuy nhiên, ngôn ngữ đó, dù được buông ra trong miễn cưỡng, vẫn là một cố gắng để nhắm thẳng vào tâm, gạt bỏ mọi lý luận (trực chỉ nhân tâm). Và như vậy, nó không phải là cái có thể lập lại lần thứ hai cho một người khác. Phổ cập hóa thiền đạo là vô tình giam bản thể vô tận (chân đế) vào thế giới hữu hạn (tục đế). Bám chặt vào một lời dạy hay một phương thức đối trị đã được phổ cập là đang đuổi theo cái bóng mờ của Thiền. Giảng giải, phân tích, mổ xẻ thiền đạo là bắt thực tại đứng dừng một chỗ như một xác khô. Cái gì lặng đứng, khô chết và có thể diễn tả được bằng ngôn ngữ thì không phải là thực tại tuyệt đối (Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh—Lão tử Đạo đức kinh).

PHƯƠNG TIỆN PHÁP MÔN

Thực tại tuyệt đối chỉ có thể cảm nhận, trực nhận hay thể nhập chứ không thể đạt đến bằng suy tư và lý luận quanh co. Nó không phải là tiêu đích hướng về bằng những con đường, những pháp môn. Có chăng chỉ là tâm truyền tâm mà thôi (dĩ tâm truyền tâm).

Pháp môn để vươn tới thực tại tuyệt đối—nếu có thể miễn cưỡng mà nói như vậy—không thể là pháp môn chung cho mọi căn cơ, cho mọi trình độ. Nó chỉ xảy ra một lần duy nhất và hữu hiệu cho một môn đệ nào đó và trong trường hợp nào đó mà thôi. Như thế, không thể nói có pháp môn này cao hơn pháp môn kia, có pháp môn kia chân chính hơn pháp môn này. Kinh Phật nói có tám mươi bốn ngàn pháp môn vì lẽ đó. Người ta có thể nói pháp môn là những phương tiện, những cánh cửa để thể nhập vào chân tâm, vào thực tại tuyệt đối. Nhưng kỳ thực, để nằm trong lòng thực tại thì chỉ có pháp-môn-không- pháp-môn (vô môn quan—cánh cửa không cửa) mới đưa vào được mà thôi. Pháp môn không có cao thấp mà chỉ công hiệu hay không công hiệu. Viên thuốc cảm sẽ có hiệu quả cho một người bị cảm nhưng không có giá trị cho người bị đau bụng. Người bị cảm không thể chê trách người đau bụng sao không chịu uống viên thuốc như mình; còn người đau bụng không chịu uống thuốc cảm thì thôi, cũng không thể nói viên thuốc cảm là vô giá trị, bởi vì nó không công hiệu đối với bệnh của mình nhưng sẽ công hiệu đối với bệnh của kẻ khác. Như thế, ngay cả pháp môn mà người ta gọi là Thiền, cũng chỉ là phương tiện pháp môn như bao nhiêu phương tiện khác. Tiêu đích chưa đạt được thì dựa vào đâu để có thể cho rằng pháp môn của mình là đúng, pháp môn của kẻ khác là sai? Và làm sao có thể khẳng định được rằng một phương pháp nào đó không mang tên là Thiền thì không phải là Thiền?

THIỀN TRONG CỬA THIỀN

Ngày nay, trong những người cư sĩ tại gia theo học thiền, đã có người đến hỏi một tu sĩ ở chùa rằng: “Thầy có tu thiền không? Theo tôi, thiền là pháp môn cao nhất và chân chính nhất của Phật giáo. Sao thầy không hành thiền và hướng dẫn Phật tử tu thiền mà cứ tụng kinh niệm Phật mãi vậy?”

Đó là câu hỏi lố bịch, ấu trĩ, y như người ta hỏi vị bác sĩ rằng: “Này ông bác sĩ, ông có chữa bệnh cho bệnh nhân không? Ông có làm công việc chữa bệnh không?” Bác sĩ có công việc của bác sĩ, tăng sĩ có công việc của tăng sĩ. Công việc hàng ngày của tăng sĩ là tu tập (tức là hành thiền) với mục đích giải thoát giác ngộ như Phật, theo phương phápkinh điển của ngài với sự truyền thừa của các vị tổ sư để lại, cũng như qua sự hướng dẫn trực tiếp của một hay nhiều vị minh sư. Và đặc biệt nhất là qua sự nỗ lực chân chính (chánh tinh tấn) của chính mình.

Tại Nhật Bổn và Trung Hoa, Thiền tông là một trong mười tông phái lớn của Phật giáo (Luật tông, Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông, Câu Xá tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Thành Thật tôngThiên Thai tông—Nhật Bổn có thêm hai tông phái khác nữa là Nhật Liên tông hay Pháp Hoa tôngChân tông hay Tịnh Độ Chân tông). Nhưng ở nước ta, với dung hóa tính của dân tộc Việt Nam, Phật giáo không có sự phân chia tông phái rõ nét. Các tự viện và chùa chiền ở Việt Nam đều được gọi chung là Thiền môn (cửa thiền). Đúng như nhận xét của một vài bậc thức giả trước đây về đặc tính sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam: sinh hoạt trong các chùa Việt Nam dung hợp các pháp môn tu tập của các tông phái lớn mà ở nước khác người ta phân chia rõ rệt. Một tu sĩ hay cư sĩ tại gia Việt Nam có thể chuyên tụng đọc và tìm hiểu kinh Pháp Hoa (Pháp Hoa tông), niệm danh hiệu Phật A Di Đà (Tịnh Độ tông), đọc thần chú (Mật tông) và tọa thiền (Thiền tông) mà không thấy trở ngại gì. Trong một khóa lễ tại các chùa Việt Nam, người ta thấy sự tổng hợp của các thiền ngữ, các câu thần chúdanh hiệu Phật. Sự phân chia tông phái để phát triển là nét đặc thù của Phật giáo Nhật Bổn và Trung Hoa, nhưng sự dung hợp các tông phái cũng chính là chỗ độc sáng của Phật giáo Việt Nam vậy. Do đó, các vị tu sĩ Việt Nam được huấn luyện từ nhỏ trong chùa sẽ không bao giờ thắc mắc hay đặt vấn đề là mình tu Thiền hay tu Tịnh độ. Mục đích chính của việc tu tập là để đạt đến giải thoát, còn pháp môn, tông phái, chỉ là phụ thuộc.

Đã có nhiều cuốn sách nói về Thiền học Việt Nam tuy không phải là đầy đủ nhưng tưởng cũng rất rõ nét. Qua đó người ta thấy ngay cả một chú tiểu ở chùa Việt Nam thường được giáo dục trực tiếp từ cuộc sống thường nhật của vị thầy (thân giáo). Mỗi cử chỉ, lời nói, hành động của chú đều được thầy quan sátđiểm hóa khiến cho đời sống của chú từng giờ từng phút không lúc nào là không phù hợp và hòa nhập với lẽ đạo. Với ba ngàn cung cách và tám vạn đức hạnh chi tiết (tam thiên oai nghi, bát vạn tế hạnh) được vị thầy thân cận nhắc nhở, chỉ giáo, tác phong của chú từ giai đoạn nỗ lực tập trung bước sang thành quả thuần thục thanh thoát lúc nào chính chú cũng không hay biết. Khi chú đặt tách nước lên bàn hơi nặng tay, vị thầy có thể im lặng không quở trách gì mà chỉ cần đặt lại tách nước trên bàn một cách cẩn trọng, nhẹ nhàng, không gây tiếng động. Từ tác phong đi, đứng, nằm, ngồi, cho đến quét nhà, tưới rau, nhất nhất mọi việc chú đều có thểû học được từ nơi vị thầy. Chú không biết là chú đang học và thực hành thiền đạo. Vị thầy cũng không bao giờ nói là ông đã và đang dạy thiền cho chú. Nhưng, mọi động tác của vị thầy, không động tác nào mà không nói lên sự tịch lặng của bản thể. Cả thầy lẫn trò có thể suốt đời sống trong thiền mà không cần phải bàn tán, luận giải gì về thiền cả.

Trải qua trên hai mươi năm hoặc trên nữa, sống trong không khí tịch lặng giải thoát của thiền môn, chú tiểu đó đã trở thành một vị thầy, sớm chiều kinh kệ công phu; ngày thì vì lòng từ bi phải sống với người, tiếp xúc, an ủi vỗ về, hướng dẫn bao kẻ đau khổ, có khi phải tụng đám ma cho người chết mất luôn cả ngày; đêm thì một mình tọa thiền, niệm Phật trong phòng riêng, trên giường nằm, chưa một ngày xao lãng. Từ sáng đến tối, các sinh hoạt của vị thầy ấy không có việc làm nào mà không nằm trong oai nghi tế hạnh, không có việc làm nào nằm ngoài tinh thầnsinh hoạt truyền thống của thiền môn. Lúc đó, chúng tacần phải đặt vấn đề với vị thầy ấy là nên tu Thiền hay tu Tịnh Độ chăng? Câu hỏi sẽ làm cho vị thầy ngạc nhiênmỉm cười. Ngạc nhiên là có thể có một đời sống trong cửa thiền mà không có thiền hay sao? Và mỉm cười để trả lời rằng thực ra không cần phải bàn cãi sôi nổi về cái gì tự nhiên như không khí mà ta đang hít thở. Thiền đối với một tu sĩ trong cửa chùa chẳng khác gì không khí đối với con người. Cần gì phải hỏi lôi thôi, thừa thãi, vô ích!

KHÔNG CÓ GÌ ĐỂ CHỨNG ĐẮC
(VÔ ĐẮC, VÔ SỞ ĐẮC)

Trước cuộc sống đầy dẫy bất an, nhiều người đã tìm học thiền và cảm thấy được an ổn như được ngồi nghỉ sau những giờ mệt nhọc. Họ bằng lòng với trạng thái ngơi nghỉ đó và cho rằng đã đạt được Thiền. Với họ, giữ cho tâm đừng giao động lăng xăng là đã chứng nghiệm được thực tại rồi. Họ sẽ kết luận rằng thiền là một cái gì đơn giản thôi: lắng lòng vào từng phút giây sinh hoạt thường nhật với một tâm tư thanh thản, nhẹ nhàng rồi sự an lạc sẽ nở hoa ngay lúc đó. Trong khi kẻ khác bận rộn, lo âu, sợ hãi với những quấy nhiễu thường xuyên của nội tâmngoại giới, thì họ, những người học thiền thời đại, tìm được sự an lạchạnh phúc bằng cái tâm lắng đọng và buông xả. Họ cho sự an lạchạnh phúc đó là tiêu đích tối hậu mà họ đã đạt đến bằng một phương pháp chẳng mấy khó khăn. Thực ra, họ quên rằng vị thiền sư của họ không phải đạt đạo và tìm thấy sự an lạc chỉ bằng những phương pháp căn bản đó. Họ quên rằng vị thiền sư của họ đã trải qua thời gian tu tập khá lâu với một hoàn cảnh thuận lợi trong cửa thiền. Họ quên rằng tâm tư của vị thiền sư của họ từ mấy chục năm về trước cho đến giờ phút này đều hướng về tiêu đích giải thoát giác ngộ chứ không phải chỉ học và hành thiền để làm lắng dịu những bung xung tâm lý như họ. Họ quên rằng khi vị thiền sư giác ngộ buông lời ra, lời nào cũng khế hợp với thiền đạo, nhưng không phải vì vậy mà những lời ấy trở thành thiền ngữ khi được lặp lại bởi một kẻ phàm phu tục tử chưa sống nổi một ngày trọn vẹn trong cửa thiền. Họ quên rằng vị thiền sư giác ngộ nhìn thấy sự mầu nhiệm của vạn hữu là vì ông đang đứng trong lòng thực tại và nhìn bằng con mắt trí tuệ siêu việt, chứ không phải chỉ nhìn bằng con mắt thịt rồi mô phỏng, nhái lại và cuối cùng sẽ tưởng tượng ra sự mầu nhiệm của muôn loài. Đúng ra, những tâm lý khinh an, hạnh phúc mà họ (những thiền sinh hời hợt) có được cũng là một thành công nên khích lệ, nhưng đó không phải là mục đích tối hậu của Thiền. Thiền quả là điều rất đơn giản như một vị thiền sư đã nói “Bình thường tâm thị đạo” (giữ tâm bình thường tức là đạo vậy). Nhưng nó không quá đơn giản đến độ chỉ trong câu nói bình thường ấy. Vị thiền sư đắc đạo không cần phải sắp đặt hay uốn lưỡi trước khi nói vậy mà nói điều gì ra cũng khế hợp với sự tịch tịnh của bản thể. Nhưng kẻ bình phàm chỉ mới tập tành chuyện hít thở trong vài tháng hay đôi ba năm, hay mười năm, hai chục năm, thì dù có lặp đi lặp lại câu nói của thiền sư đến triệu lần cũng không dính nhập gì đến thiền cả; và không phải những hạnh phúc đơn giản kiểu được Phật sống rờ đầu mà có, hay nhắm mắt tưởng tượng mà có, là hạnh phúc vĩnh cửu của kẻ đã thực chứng thiền đạo. Bởi vì, thiền không phải là nghỉ mệt. Thiền không phải là phó thác niềm tiný chí của mình cho bất kỳ đạo sư nào khác (ngay cả bậc vô thượng sư duy nhấtđức Phật). Thiền không phải là thuốc an thần. Thiền không ru ngủ người ta bằng những ảo giác hạnh phúc gặt hái từ nỗ lực trấn an phiền não với một tâm trí trống rỗng. Giữ cho tâm được yên nghỉ để giải tỏa những căng thẳng của tâm lý là điều mà các bác sĩ tâm thần Tây phương đã từng hướng dẫn, chữa trị cho bệnh nhân của họ. Khi vị thiền sư dạy dỗ môn đồ của mình phương pháp trấn an phiền não nói trên, ông biết đó chỉ là phương tiện tạm thời để đối trị cho căn bệnh của những kẻ sơ cơtâm lý đang còn quá vọng động (chưa bắt kịp giai đoạn ông còn làm chú tiểu ở chùa), và ông đang tạm thời đóng vai một bác sĩ tâm thần. Phương pháp không phải chỉ có thế và mục tiêu không phải chỉ có thế. Sự chứng nhập thực tại tuyệt đối khiến ông đeo đuổi sự tìm tòi một phương pháp hữu hiệu để dẫn đạo môn đồ của mình ít ra cũng phải có được một kẻ (chưa dám nghĩ tới con số hai) chứng nhập thực tại ấy như mình chứ không phải chỉ tìm vui và bằng lòng với cái hạnh phúc tạm thời nhỏ nhoi trong một vài giờ thực tập.

Thực ra, thực tại tuyệt đối chỉ có thể đạt được bằng trí tuệ không phân biệt (vô phân biệt trí). Trong đó, không có những ràng buộc hay biến động cần vượt qua, không có cái tâm được kềm chế và yên nghỉ, không có phiền não để giải trừ, không có thực tại nhiệm mầu nào để đạt đến, không có trí tuệ để chứng ngộ. Ta và thế giới là một thực thể bất phân và tất cả đều cùng trong một thể vắng lặng như nhiên, không biên giới, không ly cách. Chỉ có trí tuệ siêu việt ấy mới đưa đến giải thoát và chỉ có trí tuệ ấy mới là sự nghiệp duy nhất của kẻ học thiền (duy tuệ thị nghiệp). Không phải chỉ giữ tâm an nhiên nhẹ nhàng rồi trí tuệ siêu việtgiải thoát tối hậu cùng phát sinh. Kinh điển nói đức Phật phải tu ba a-tăng-kỳ kiếp mới chứng ngộ giải thoát được. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói ba a-tăng-kỳ kiếp đó chính là tham, sân, si chứ chẳng chi khác. Đơn giản quá. Vậy chỉ cần diệt tham, sân, si là thành Phật tức khắc. Nhưng lời Tổ dù nói lại cho thành đơn giản cũng chẳng khác chi lời Phật cả, bởi vì kẻ bình phàm đầy mê chấp muốn dẹp cho tiêu sạch tham, sân, si thì quả là cần ba a-tăng-kỳ kiếp vậy. Đang theo học thiền, các vị tân thiền sinh thời đại đã vượt qua được một a-tăng-kỳ kiếp nào chưa mà có giải thoát an lạcgiác ngộ sớm quá vậy? Phải chăng sự giác ngộan lạc nhất thời, nhỏ nhoi mà ta có được nhờ nghe giảng hoặc thực tập trong vài ngày là tiêu đích mà đức Phật và các vị tổ sư, thiền sư muốn trao đến các thế hệ sau? Kinh điển dạy ta đừng vội vui mừng ôm chặt các thành tựu nhỏ nhoi đó. Nhìn xét lại chính mình, nếu thấy còn một tí tham, sân, si vướng lại là biết ta chưa tiến được đến đâu. Vậy cũng cần vài a-tăng-kỳ kiếp để tu thêm rồi.

Chưa có trí tuệ siêu việt (Bát Nhã trí) thì chưa có giải thoát thực sự. Mà những kẻ đã chứng ngộ, giải thoát thực sự rồi cũng sẽ thấy rằng, thật ra không có gì cần phải thoát ra (bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?—Lục Tổ Huệ Năng) và cũng không có trí tuệ nào để chứng đắc (vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố—Bát Nhã Tâm Kinh). Có giải thoát để đạt được thì đó không phải là giải thoát tối hậu; có trí tuệ để thẩm nhập thì đó không phải là trí tuệ vô biên. Vậy thì thật đáng ngờ cái hạnh phúctrí tuệ mà hàng trăm, hàng ngàn người chỉ nhờ nhái lại lời vị thiền sư nói là đã đạt được! Những cái vô biên vô tận ấy tất cả chúng ta đều có nhưng không phải mọi người đều nắm được hay xài được qua ngôn ngữ văn tự hay chỉ qua một giờ đồng hồ giữ cho thân tâm được nghỉ ngơi.

Con người thường có khuynh hướng vươn tới cái gì siêu tuyệt cho nên dễ bị lôi cuốnbám víu vào những phương pháp, những lý lẽ cao siêu mầu nhiệm. Cho rằng lý tánh tuyệt đối không thể đạt đến cũng sai; cho rằng quá dễ đạt đến cũng sai; mà nói năng luận bàn cũng sai (động ngữ tắc quai—buông lời ra là đã sai lầm rồi). Vì vậy, ở đây chỉ nhắc nhở nhau, chia xẻ với nhau điều mà chúng ta cùng hướng tới. Tất nhiên là phải bước tới, nhanh hay chậm, bằng cách nào, tùy theo căn cơ, trình độhoàn cảnh mỗi người. Nhưng bám víu vào lối đi riêng của mình để công kích, chê bai kẻ khác là điều buồn cười, nông cạn của những kẻ chưa thấm được một giọt giải thoát nào của đại dương tư tưởng nhà Phật. Bằng con mắt giác ngộ, vị thiền sư có thể nhìn thấy khuyết điểm của những phàm tăng, nhưng những kẻ học thiền chúng ta thì không nên dựa vào đó mà công kích, khinh thị để rồi vương nghiệp dữ, chướng ngại cho đường học đạo.

Xin chép tặng bạn lời đức Phật trong kinh Tứ Thập Nhị Chương để kết thúc bài viết này vậy:

“Ta xem sự thiền định như là một cột trụ trên núi cao và niết-bàn là cơn mộng du giữa ban ngày. Ta xem những lời phán quyết về đúng và sai như là sự uốn mình nhảy múa của một con rồng và sự lên xuống của đức tin là dấu vết của bốn mùa để lại.”

Virginia 1990

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15483)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22898)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13953)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12900)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54956)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9062)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14345)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14084)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14122)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13812)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19784)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18096)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19102)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19045)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20193)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31384)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15849)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14613)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35796)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20951)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21473)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34172)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19405)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18822)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22834)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19738)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34309)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54360)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37552)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21045)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17798)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49480)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27262)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20171)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18815)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16253)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17797)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20852)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17272)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14389)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16286)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15926)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21858)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15009)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13409)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15306)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14909)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13276)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27316)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13114)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16131)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12327)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15311)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12806)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13113)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21509)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11205)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14941)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14861)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46044)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22321)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14380)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12521)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43707)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56810)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47344)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13568)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28878)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33172)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15329)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31100)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40214)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43248)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46474)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant