Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Thi kệ Thiền hay phong thái của người đạt Đạo

27 Tháng Chín 201000:00(Xem: 12979)
Thi kệ Thiền hay phong thái của người đạt Đạo

Khi nói đến tông chỉ của Thiền, chúng ta thấy Thiền đã lập cước trên tiến trình tu chứng:

Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhơn tâm
Kiến tánh thành Phật

Được dịch:

Chẳng thành lập văn tự
Truyền dạy ngoài giáo lý
Chỉ thẳng vào tâm người
Để thấy tánh thành Phật

Và cũng do vậy mà Chư vị Tổ đức đã dạy rằng:

"Vận thủy ban sài, tức là gánh nước, bửa củi là Thiền, giữ tâm tĩnh lặng là Thiền."

Vì không lập văn tự, không chủ trương hình tướng bên ngoài, chỉ phá trừ sự câu chấp cố hữu mà con người, chúng sinh đã cưu mang trải qua bao nhiêu cuộc sống, từ đời này qua kiếp nọ, đã không thấy được tự tánh thường hằng vô sinh, tồn tục tận cùng nơi tâm thức. Nơi đây, chúng ta nghe Lục Tổ Huệ Năng, sau khi được Ngũ Tổ HoằngNhẫn giải Kinh Kim Cang đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm." thì Lục Tổ được đại ngộ và thưa với Ngũ Tổ rằng:

Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động
Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp

tự tánh của pháp giới chúng sinh từ xưa đến nay vốn dĩ thanh tịnh, như nhiên, chẳng đến chẳng đi, chẳng còn chẳng mất, nhưng sao ta lại thấy thiên hình vạn trạng, có được, có thua, đắc thất thành bại dưới mọi hình tướng, chúng ta thấy có vậy là do vọng niệm dấy khởi, do tâm sanh diệt mà thành. Giống như người bị hoa mắt, nhìn vào hư không thấy có hoa đốm giữa trời, nhưng thật sự bầu trời không có hoa đốm.

Vạn pháp đều viên dung, đều tự vận hành theo "chính nó" mà danh từ nhà Phật gọi là "như thị" vì "như thị" cho nên:

Chư pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng

Được dịch:

Các pháp từ xưa nay
Tướng thường tự vắng lặng
Xuân về trăm hoa nở
Hoàng oanh hót đầu cành

Bản lai diện mục của các pháp là như vậy, cho nên người tham cứu Thiền học hay thực nghiệm Thiền cần giữ tâm thanh thản, an bình - mà chúng ta thường nghe: "Tâm an tức thị Thiền". Hay: "Đương bình tâm địa, tắc thế giới địa, nhất thiết giai bình." - Tâm của mình được an bình thì cảnh giới bên ngoài tất cả đều được an bình, có nghĩa là tâm bình thì thế giới bình.

tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê, không bình phẩm, không khởi tâm thẩm định, mà phải tự cảm nhận giá trị nhiệm mầu và vĩnh cửu của cái bây giờ và ở đây. Cái đó như là:

Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu

Được dịch:

Sống ngày nay biết ngày nay
Còn xuân thu trước ai hay làm gì

Có nghĩa là sống với phút giây hiện tại là thời điểm linh thiêng, là giờ phút hội ngộ của chính mình, vì lẽ những điều quá khứ là những cái đã qua, mà những kỳ vọng trong tương lai là điều chưa tới, là cái sống thực, sống còn, sống vĩnh cửu của một tâm hồn trong sáng, không đau thương, than vãn một thời vàng son đã qua, hay nuôi một hoài bão huy hoàng trong tương lai sẽ tới, do vậy mà tâm hồn của chư vị Thiền sư:

Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân

Được dịch:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh ngoại
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân

Khi đất tâm được trưởng dưỡng bằng hương vị bạch tịnh của giáo pháp, thì nơi đây ngàn hoa đua nở, điểm xuyết hương giác ngộ trên cành trúc xanh, nơi áng mây trôi mà đâu đâu cũng là chân như, thường tịch.

Trong lẽ sinh diệt, có cái bất sinh diệt, trong sự vận chuyển thường tình, có cái miên viễn, thường trụ. Đó là, giá trị tương dung, tương nhiếp của các pháp hữu tình và chơn đế:

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Được dịch:

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân về trăm hoa tươi
Việc đời qua trước mặt
Tuổi đời chóng tàn phai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai

Vẫn còn một nụ mai vàng đong đưa trên cành mai khẳng khiu, hứng gió xuân, dẫu rằng xuân có đến hay xuân ra đi thì đó chỉ là pháp tương đối của thời gian, qua bốn tiến trình: thành, trụ, hoại, không. Nhưng, qua bốn giai đoạn thành, trụ, hoại, không đó vẫn có cái thường hằng vĩnh cửu đó là: "nụ mai tâm Phật" chẳng nở, chẳng rụng, chẳng tàn, chẳng phai, luôn luôn hiện hữu trên cành mai vô thường, của dòng đời sanh diệt. Để được thấy rõ hơn, sống động hơn, nhiệm mầu hơn, qua 4 câu kệ của Thiền Sư Ngộ Ấn:

Diệu tánh hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn

"Hoa sen mọc trong lò lửa vẫn xinh tươi là một hình ảnh bất tư nghì của Kinh Pháp Hoa. Ngay nơi thân đang bị ngọn lửa vô thường thiêu đốt, vẫn có tri kiến Phật an nhiên tự tại, bất sanh bất diệt. Trên ngọn núi năm uẩn, bị lửa vô thường thiêu đốt, hòn ngọc tri kiến Phật sắc vẫn óng ánh, tươi nhuần."

Đây là giá trị đặc thù siêu việt được triển khai tuyệt đối để đưa con người từ địa vị phàm phu chuyển thành Thánh quả, mà một khi thể đạt Thánh quả thì cũng có nghĩa là trở về cội nguồn, quê hương thường tại.

Thiền Sư Thường Chiếu, đời nhà Trần đã nói lên ý nghĩa ba cõi là nhà:

Đạo vốn không nhan sắc
Mà ngày càng gấm hoa
Trong ba ngàn cõi ấy
Đâu chẳng phải là nhà?

Đó chính là phong thái của người đạt đạo, cảm nhận và ý thức được rằng: khắp pháp giới chúng sinh đâu cũng là nhà của mình, là nơi mình trú ngụ, để trang trải lòng Từ Bi cứu độ chúng sinh. Là giá trị nhuần nhuyễn trong nếp sống đạo. Nơi đây, chúng ta thấy thái độ ung dung trong biển đời sanh tử như bọt hải âu, như cơn gió thoảng, thật là thanh thản, không bâng khuâng, không lo sợ, mà luôn sống bằng giá trị như thật.

Khi tâm sinh chừ, sanh tử sinh
Khi tâm diệt chừ, sanh tử diệt
Sanh tử xưa nay tính vốn không
Thân huyễn hóa này cũng sẽ diệt...
Sanh là vọng sanh, tử vọng tử
Tứ đại vốn không, không chỗ tựa
Đến nhà còn hỏi đường làm chi
Thấy trăng thời khỏi cần tay chỉ
Sợ hãi tử sinh là người mê
Đạt ngộ ung dung là kẻ trí

Quê hương chính là sự thể đạt đạo lý, mà hành tung của Chư vị Thiền sư là chống tích trượng vào đời cứu khổ độ mê, để một ngày nào đó con người không còn làm khách phong trần nữa, như Tổ Trúc Lâm đã nói:

Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật vãn gia hương vạn lý trình

Được dịch:

Lênh đênh làm khách phong trần mãi
Ngày hết, quê xa, vạn dặm đường

Mãi làm người lữ thứ rong ruổi trong đời tử sinh, để rồi đường về quê hương trước mặt còn xa tít mù khơi, khi mà trời đã về chiều, hoàng hôn buông phủ.

Qua đó ta hình dung tấm thân tiều tụy, lang thang của người cùng tử trong Kinh Pháp Hoa. Người cùng tử có viên ngọc trong chéo áo nhưng không biết, cứ mãi rong ruổi tìm cầu vì miếng ăn, cái mặc, chịu cực, chịu khổ, cho đến một ngày kia gặp lại người bạn cũ, chỉ rõ viên ngọc trong chéo áo, khi ấy người cùng tử mới chấm dứt kiếp đời khổ lụy.

Sự tu tậpchứng ngộ đã sẵn có trong mỗi con ngườicuộc đời này, bởi vì Phật pháp bất ly thế gian pháp, tức là Phật pháp không thể xa rời thế gian mà có. Phật pháp cũng tùy thuận theo pháp thế gian để uốn nắn, un đúctrưởng thành một hành giả trên lộ trình giác ngộ, giải thoát. Từ cõi đời nhiều đau thương, tan vỡ, như thân huyễn nhà mộng mà Chư Phật, các vị Bồ Tát đã hiện thân giáo hóa. Như giữa đầm bùn lầy kia, hoa sen thơm ngát, giữa sự sanh tử trầm luânđạo tràng của bậc giác ngộ. Thiền sư Minh Lương, Triều vua Lê Dụ Tông đã nói:

Ngọc xinh ẩn trong đá
Hoa sen dấy tự bùn
Nên biết tìm giác ngộ
Nơi sinh tử trầm luân

Vẫn là thái độ trầm lặng, sâu thẳm tận cùng vô để của tri thức, người hành giả làm sao hiển lộ Phật tánh? Không lý luận ngôn ngữ văn chương, mà tâm thanh tịnh, nhận chân được tri kiến Như Lai, đó là thiết yếu. Qua câu chuyện của người có kinh nghiệm thực tập Thiền định, chúng ta thấy:

"Mưa không ngớt, Thiền đường lạnh và ẩm ướt một cách khó chịu... mặc áo quần dài phủ mắt cá chân, áo dài tay bằng len, hai chiếc áo ấm, áo choàng len, hai đôi bít tất len, nhưng không hết run... Tiếng gầm thét của người Godo còn làm phân tâm hơn là cây kích trượng vung múa, đau nhức ở chân và lưng... Tư tưởng phóng chạy điên cuồng... Thay đổi thế ngồi từ Agura sang Seiza đến Hanka, điều chỉnh 3 cái đệm mông theo mọi cách, có thể nghĩ ra nhưng vẫn không tránh khỏi đau..."

"Vào độc tham lần đầu tiên, Lão Sư Đại Vân vẽ một vòng tròn với một chấm ở giữa: "Cái chấm này là ông và cái vòng tròn này là vũ trụ, thật ra ông bao trùm cả vũ trụ nhưng vì ông tự thấy mình như cái chấm này, một mảnh nhỏ bé biệt lập, nên ông không kinh nghiệm vũ trụ như không thể tách rời với mình... ông phải phá vỡ sự tự nhốt mình, phải quên triết học và mọi thứ khác, phải đặt tâm ở đan điền và chỉ hít thở KHÔNG ... Tâm của vũ trụ là cái hốc bụng của ông!..."

"KHÔNG là thanh kiếm khiến ông có thể cắt đứt mọi tư niệm tận trong vùng cội nguồn tư tưởng và tình cảm... Nhưng KHÔNG không phải chỉ là phương tiện để đạt ngộ mà nó chính là giác ngộ. Tự chứng ngộ không phải là việc tiến từng bước mà là kết quả của một cái nhẩy vọt, trừ phi tâm ông thanh tịnh thì ông không thể thực hiện được cái nhẩy vọt này.

"Thầy muốn nói gì qua chữ thanh tịnh?"

"Trống rỗng, không một tư niệm nào hết..."

"Nhưng tại sao cần phải chiến đấu để giác ngộ, nếu chúng ta vốn có sẵn Phật tánh đã giác ngộ?"

"Ông có thể chỉ cho tôi xem cái tánh đã giác ngộ của ông không?"

"À không, tôi không thể chỉ ra được nhưng trong Kinh bảo chúng ta vốn có tánh ấy phải không?"

"Kinh không phải là kinh nghiệm của ông, đó là kinh nghiệm của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nếu ông nhận ra Phật Tâm của mình, thì ông chính là Phật."

Giá trị tối thắng của người thực tập Thiền định là tạo điều kiện để trí tuệ phát khởi, từ đó chơn tâm được hiển lộ, mà qua tinh thần giáo pháp Tam Vô Lậu Học: Tức là Giới, Định, Huệ. Người hành giả từ Giới sanh Định, và từ Định để phát sanh Trí Huệ. Mà mãnh lực của Trí Huệxô ngã mọi thành trì tham sân chấp ngã để từ đó hành giả thõng tay vào chợ, mà hòa quang đồng trần, như bao nhiêu phong thái của người Đạt Đạo, thản nhiên tự tại trước sự tử sinh, hay bao nhiêu biến cố thăng trầm của cuộc đời như Vạn Hạnh Thiền Sư đời Lý đã nói:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Được dịch:

Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân man mác thu qua rụng rời
Thịnh suy, suy thịnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành

Hãy để tâm thanh thản như dòng nước thiên nhiên. Hãy để tâm bềnh bồng như mây trời vô định. Hãy để tâm thư thả như từng giọt nắng hồng và hãy để tâm thong dong như chưa từng bị trói buộc bởi bất cứ lý do mê ngộ, thánh phàm, chân như, hay vọng niệm. Tâm của người đạt đạo, phong thái phiêu diêu như Thiền Sư Thanh Nguyên Duy Tín đã nói:

"Sãi tôi, ba mươi năm trước, khi chưa học Thiền, thấy núi là núi, thấy nước là nước. Sau nhân theo bậc thiện tri thức, chỉ cho chỗ vào, thấy núi chẳng phải núi, thấy nước chẳng phải là nước. Rồi nay thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh y nhiên, thấy núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước."

Tâm của người đạt đạo: Vô ngữ ! Vô ngôn ! Tiếu kha kha !

San Diego, ngày 14 tháng 08 năm 2004

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15549)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22985)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14023)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12945)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55075)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9127)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14408)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14145)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14174)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13869)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36269)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19853)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18149)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19174)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19097)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20267)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17613)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31504)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15902)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14961)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14655)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46145)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35892)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21015)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21572)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23363)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34345)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19461)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18918)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22907)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20152)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18320)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19816)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19510)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33381)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34442)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54471)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37667)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21108)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17858)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63604)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17352)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49617)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27381)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20247)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22996)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18878)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16310)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17892)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20924)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17335)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14449)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16839)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16356)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15984)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17451)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21952)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15087)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13478)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14349)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15363)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14960)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12674)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13327)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27369)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12485)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13169)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14454)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16195)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12376)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15378)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12850)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12178)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13179)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21609)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11267)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22682)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15040)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14920)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46170)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22410)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14540)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12602)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18884)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14710)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43835)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56929)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13816)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47448)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13640)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14551)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28977)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33271)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38335)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15383)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31192)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12509)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40361)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43385)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46619)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant