Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền ngữ qua thi ca

12 Tháng Tư 201200:00(Xem: 15569)
Thiền ngữ qua thi ca
THIỀN NGỮ QUA THI CA 
Như Hùng

thiennguquathica-nhuhungThi nhân, được ví như con chim lạ từ phương xa, bay đến trần gian để ngửa cổ hát chơi, đem lời thơ biến thành điệu nhạc, đưa con người về từng bến đổ, trãi cảm xúc của mình lên từng giai điệu cung bậc, gieo rắc vào lòng người những âm hưởng khác nhau, dẫn chúng ta đến thế giới muôn màu hương sắc. Ở đó có núi sông với mây trời lãng đãng, gió mát trăng thanh soi bóng trên từng nổi thương nhớ, có gió mưa đọng lại nơi mí mắt bờ môi, hoa thơm cỏ lạ điểm tô lối đi nẽo về, có khúc hoan ca rộn ràng vang vọng theo nhịp bước, có ngang trái phủ đầy lên từng tâm cảnh. Tất cả như một bản hoà tấu vô tận lên cung bậc tử sinh, từ khởi đầu đến chung cuộc, từ nhị nguyên đến thường hằng tự tánh. Cuối cùng từ đâu đến rồi sẽ phải trở về nơi chốn ấy, đi trong bình minh nắng ấm với hoa thơm ngập lối, hay đi trong mưa chiều rả rích với nhớ thương trĩu nặng? Đều tùy thuộc vào từng tâm thức, từng bước đi chung cuộc của mỗi chúng ta. Từ trong tận cùng tâm thức, sự rung động mãnh liệt bật dậy quyện với đôi tay phù phép, thế là lời thơ chắp cánh tung bay, thi nhân đưa ta đến thế giới sắc màu của thiên đường hy vọng, hoặc dẫn ta đến với đơn côi lạnh lẽo. Thông thường bài thơ dễ đi vào lòng người, là bài thơ đong đầy cảm xúc buồn vui, chợt đến chợt đi, nhớ thương dâng trào, ướt át tràn ngập. Một dạng tâm thức khá phức tạp phổ biến trong mỗi chúng ta, thi nhân trãi lòng, lên tiếng dùm cho đối tượng, nên ta dễ dàng cảm thông đón nhận. Vì đó là cái bản năng tâm lý thường tình đang sống và thở ở trong ta.

Cuộc đời giống như một bài thơ, với đầy đủ âm vang giai điệu, vui buồn lẫn lộn, hạnh phúc khổ đau, thi nhau tung hoành ngang dọc, kéo ta mãi miết trôi lăn trong mịt mùng sinh tử. Thật ra ở một chừng mực nào đó, cuộc đời vốn mặc nhiên đến đi như vậy, nhưng do chúng ta vọng động khuấy nhiểu, khiến cho rối mù lên, không nhận ra được đâu là nguồn cội của từng vấn đề, nên cứ mãi miết lang thang lạc bước. Nếu ta biết sống trong sự vận hành tự nhiên của muôn vật, nhận ra được lẽ biến dịch của vô thường sanh diệt, với cái tâm nhẹ nhàng, không mảy may lo sợ, những gì đến cứ thế mà đến, những gì đi cứ thế mà đi, thì cuộc đời đong đầy hoa thơm cỏ lạ, một bài thơ hay cùng tuyệt trong kiếp nhân sinh. Sự có mặt của thi ca, mang đến cho ta những khoảnh khắc ý nghĩa, hạnh phúc chắp cánh lớn thêm, hay nổi đau lại càng nâng cấp. Điều quan trọng, làm sao ta mở ra được lẽ diệu huyền, đưa tâm thức của mình thâm nhập vào từng biến động, truy tìm nguyên nghĩa những gì ta đang sống và nhận lãnh.

Thiền gần với thi ca ở điểm nương vào hình ảnh để bật dậy cảm xúc, mà không đi qua trình tự suy luận của ý thức, bởi lẽ khi sử dụng đến suy luận, tức khắc ta bị đẩy qua lối mòn thông tục, trở thành nô lệ, một thứ sản phẩm mang tính chi phối cùa ý thức năng động. Đứng về khía cạnh giác ngộ thì không thể tồn tại tâm thức chỉ đơn thuần chất đầy cảm xúc, nó phải được chuyển hoá nâng cấp bằng một thứ năng lượng cao tột để châm ngòi cho giác ngộ. Khi nào tâm thức chưa hoán chuyển để được tinh tường sáng tỏ, ta vẫn là kẻ ngủ say trên lối mòn giẩy chết của tâm ý, cứ thế lặn hụp phiêu bồng với bao mộng tưởng. Thơ thiền nhằm thăng hoa tư tưởng, mở tung thực thể chôn dấu tận cùng ở bên trong, vựt dậy bản năng tuyệt vời đang khuất lấp, những mầm sống linh hiện tươi đẹp, không còn bóng dáng của não phiền ngày đêm gặm nhấm.

Thiền ngữ, công án qua thi ca được tìm thấy nơi những thiền sư có khuynh hướng về thi kệ, bằng một thứ siêu ngôn, mật ngôn, chứng ngôn của những bậc xuất trần, chuyển giao sự giác ngộ ở bên trong phơi bày ra bên ngoài. Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi. Một sự thẩm định tột cùng, giữa con người tâm cảnh, đối tượng cảm quan, liên tục gây chấn động, khiến ta ray rức bí lối, bổng nhiên trong sát na vi diệu nào đó ta choàng mình thức tỉnh. Thông thường ta chỉ dừng lại ở cảm xúc, tìm cách trú ngụ trong ngôn từ tư tưởng, dùng ngôn ngữ để biện minh lý giải, nên ta thường mắc kẹt trong danh xưng, chết đuối trong khái niệm. Khi căn và trần đụng nhau, phát sinh ra thức, sự đáp trả của tính hiệu. Nhưng đàng sau cái khoảnh khắc đó, cái vùng khuất lấp chất đầy huyền cơ, rất ít khi ta bén mãng đến để khám phá chiêm nghiệm, vì thế sự nhận thức và tri cảm của mình chỉ dừng lại ở đó, ta sống và thở trong sự đong đưa biến hoá, mịt mùng không thật. Giống như khi ta đi du lịch, với sự sắp xếp chuẩn bị của người dẫn đường, ta chỉ thấy và nghe những điều người hướng dẫn du lịch nhắm đến. Trừ khi ta tự trang bị cho mình hành trang cùng nội lực, khám phá những điều kỳ diệu ở bên trong, bằng chính sự thâm nhập quyết lòng. Chặng đường để tìm thấy cái vùng khuất lấp, chất đầy bản lãnh tuyệt luân ấy, chắc hẳn không thể có được, một khi ta chỉ biết đeo cứng bám dính vào đối tượng, tâm thức, đắm mình trong sự ru ngũ, không chịu buông xả để được thong dong, không tự mình cởi trói, không đi qua chặng đường đào bới mãnh liệt ở nội tâm. Khi nào ta còn đứng ở bên ngoài nhìn ngắm vào bên trong, chỉ dọ dẫm không chịu xúc tác, mọi thứ sẽ trở nên vô nghĩa. Đừng biến mình thành kẻ bàng quan thưởng ngoạn, ngắm dòng cảm xúc của kẻ khác ào ạt tuôn chảy, mà không thẩm định, tra vấn tìm lại chính mình, tìm phương vượt thoát. Nếu ta không tìm cách phóng mình vào đó để lặn hụp, với tất cả năng lực trong sự trỗi dậy bắt nhịp, thì muôn kiếp ta vẫn loay hoay trên bến bờ sinh tử.

Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, vị thiền sư đầu tiên xử dụng đến hình ảnh thi ca làm thiền ngữ công án, đó là thiền sư Thiền Lão (? - 1037) ở chùa Trùng Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du, ngài đã từng giảng dạy ở núi Từ Sơn. Một hôm vua Lý Thái Tông vào núi thăm ngài và đây cuộc đối thoại:

Vua hỏi:

Ngài ở đây từ bao lâu rồi?

Thiền Lão trả lời:

"Sống trong giờ hiện tại

 Ai hay năm tháng xưa?"

 (Đản tri kim nhật nguyệt

 Hà thức cựu xuân thu ).

Vua hỏi tiếp:

Ngài làm gì hằng ngày ở đây?

Thiền Lão đáp:

" Trúc biết hoa vàng đâu ngoại cảnh

Trăng soi mây bạc hiện toàn chân."

(Túy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân).

Vua nói: Như vậy ý chỉ là gì, xin ngài cho biết?

Thiền Lão đáp: Nói nhiều lời sợ sau này bất lợi. (Từ đa, vô hậu ích)

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1 trang 175

Cuộc đối thoại giữa Thiền Lão với vua Lý Thái Tông, ở đó ngôn ngữ không còn là ngôn ngữ, một sự vắng bặt của ngôn từ, ý thức như ngưng đọng lại, đâu đó chỉ có lặng yên phong tỏa, phổ cập trên từng tương tác. Hiện tại, bây giờ bùng lên thôi thúc, trực nhận ngay vào điểm không cùng để giác ngộ thức dậy. Ý niệm về thời gian do con người tạo lập, dùng thời gian để đo lường mọi thứ, ru ngủ mọi việc, khỏa lấp mọi vấn đề, sử dụng nó như một định hướng, nhưng thật ra nó liên tục tàn phá không một lời thương tiếc, bởi lẽ bản chất của nó vốn không thật, bất định. Nó vốn như vậy, nhưng tâm thức của ta không chịu để yên, luôn tìm cách quấn vào níu lại. Càng bám vào chừng nào thì càng bị nó đào thải hất hủi chừng đó, càng hy vọng bao nhiêu thì nó càng hững hờ rủ bỏ ra đi bấy nhiêu. Quá khứ ra đi thì không bao giờ trở lại, tương lai thì mịt mùng chưa biết lúc nào đến, chỉ có giây phút hiện tại nầy là đáng nói, đáng được chiêm nghiệm. Trên chặng đường sanh tử lôi kéo, ẩn chứa không biết bao biến động, từ ngút ngàn nổi trôi đến sự hủy hoại khủng khiếp của vô thường, đưa ta đến muôn ngàn lối đi đầy chông gai sóng gió, đẩy ta đến bến bờ vực thẳm, khiến ta chết dần mòn trong tứ bề cô quạnh. Cả hai dạng tâm thức, sống với quá khứ và tương lai, hy vọngthất vọng, hạnh phúc và khổ đau, cứ nhập nhằng lẫn lộn, thì không thể tìm thấy được sự an lạc đúng nghĩa. Đứng về khía cạnh để có được sự giác ngộ, thì càng không thể chờ đợi một dịp may, một cơ hội không do chính mình nổ lực mang lại, mọi sự toan tính nào đó của tâm thức, vốn không có chổ đứng trong giác ngộ. Nếu không tìm cách đập tan, phá vỡ sự trụ bám, thì ta vẫn mãi ngược xuôi đong đếm thời gian, lang thang lạc lối trên vạn nẻo luân hồi.

Vị thiền sư thi sỹ tài ba, biện tài vô ngại, thâm đắc "ngôn ngữ tam muội" đó là thiền sư Viên Chiếu ( 998 - 1090 ) đời thứ bảy dòng thiền Vô Ngôn Thông. Trong tác phẩm Tham Đồ Hiển Quyết, ghi lại từ sách Thiền Uyển Tập Anh, thiền sư đã để laị nhiều thiền ngữ, công án bằng thi ca rất tuyệt vời. Dưới đây vài câu vấn đáp, cũng đủ để cho ta tham cứu cả một đời.

Hỏi: Phật và Thánh khác nhau chỗ nào?

Ðáp:

 Cúc trùng dương dưới dậu

Oanh thục khí đầu cành

(Ly hạ trùng dương cúc

Chi đầu thục khí oanh)

Hỏi: Kẻ học nhân chưa hiểu xin thầy dạy lại

Ðáp:

 Ngày quạ vàng chiếu sáng

Ðêm thỏ ngọc sáng soi

(Trú tắc kim vô chiếu

Dạ lai ngọc thố minh)

 Hỏi: Ðã nhận được yếu chỉ

Nhưng huyền cơ ra sao?

Ðáp:

 Nước đã đầy bình vạc, chân vô ý

Vấp ngã một lần hối được sao?

(Bất thận hủy bàn kinh mãn xứ

Nhất tao sa điệt hối hà chi?)

Muốn dìm cho sóng chết

Ai hay thân tự trầm

(Mạc quán giang ba nịch

Thân lai khước tự trầm)

Hỏi: Bồ Ðề Ðạt Ma ở núi Thiếu Thất hành đạo đạt đến chỗ huyền diệu sâu thẳm: từ xưa đến nay ai là kẻ thừa kế xứng đáng nhất?

Ðáp:

Trời tối sáng soi nhờ nhật nguyệt

Ðất hiểm phân ranh có núi sông

(U minh càn tượng nhân ô, thố

Khuất khúc khôn duy vị nhạc, hoài)

Hỏi: Thế nào là con đường đưa đến căn nguyên của đại đạo?

Ðáp:

 Cỏ mạnh đứng bờ cao gió dữ

Nước nhà thời loạn biết trung lương

Hỏi: Tất cả mọi chúng sinh từ đâu tới và sẽ đi về đâu.

Ðáp:

Rùa mù xuyên vách đá

Rùa què leo núi cao

(Manh quy xuyên thạch bích

Bì miết thướng cao sơn)

Hỏi: Người ta nói: khóm trúc xanh xanh kia là chân như. Vậy công dụng của chân như là gì?

Ðáp:

Ðưa người xa ngàn dặm

Cười tặng một bình trà.

(Tặng quân thiên lý viễn

Tiểu bá nhất bình trà)

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 1 trang 176- 178

Công án đầu tiên là mẫu đối thoại giữa Bồ Đề Đạt Ma với vua Lương Võ Đế. "Quách nhiên vô thánh " (Rỗng tuếch không có thánh gì hết) trở thành một công án độc đáo trong lịch sử thiền tông, cho đến bây giờ vẫn liên tục gây chấn động trong thiền môn, đẩy tâm thức của ta bay bổng lên tận mây ngàn, không trụ bám vào đâu được, không có nơi chốn nào dung chứa, đầu óc căng ra như quả bom sắp nổ tung, không có thánh phàm giai bậc. Nó hất tung đẩy lùi sự vướng bận lầm chấp ngự trị trong ta, quật ngã tâm lý ỷ lại đợi mong, thoát ra ngoài thế giới tỷ lượng, hai cõi tử sinh mê ngộ, chỉ còn lại một thể duy nhất, vượt ra ngoài càn khôn thong dong về nơi vô tận.

Từ trên đỉnh cao ngút ngàn thâm diệu, đổ xuống nhân gian những mật ngôn, liên tục phá vở tâm thức ngăn ngại bế tắc, làm hiển lộ nên chân tính tròn đầy mà ta đã bỏ quên. Nó vốn có mặt ở đó tự bao giờ, từ với cái nhích nhẹ tay bổng hiển lộ tròn đầy, tỏa chiếu trên từng tương tác, linh hiện phủ vây trong từng hơi thở. Thiền kêu gọi đến phút giây sống trọn vẹnhiện tại, một hiện thực không bị chi phối, dẫn đưa, mời gọi nào đến từ bên ngoài, mọi nỗ lực phải được hưng động, phát tiết ngay từ bây giờ, chính trong con ngườitâm thức nầy. Chỉ khi nào ta nhận chân ra được tâm cảnh, biên giới, nhị nguyên, đối tượng, con người, hoà nhập với nhau thành một, kết nối những trỗi dậy ở bên trong quyện với bên ngoài, tạo thành năng lực vô biên, mênh mông lan tỏa trên từng đi lại, một sự thường hằng không gì sánh kịp.

Thiền sư Trí Bảo ( ? - 1190) Trong sách Thiền Uyển Tập Anh ghi lại cuộc đời của sư như sau: Sư họ Nguyễn là cậu của thái úy Tô Hiến Thành đời Lý Anh Tông, xuất gia tu hành ở chùa Thiên Tước, ăn gạo hư, mặc áo rách, ba ngày mới nhóm lửa thổi cơm. Khi ra đường thấy kẻ nghèo hèn thì khoanh tay tránh lối, gặp người tu hành thì quỳ lạy chào. Sư chuyên tu tập thiền định, sau khi thành đạo bèn chống gậy xuống núi, từ đó đi phổ khuyến khắp nơi để lo việc sửa cầu đường, dựng chùa tháp. Có vị khách tăng đến hỏi sư:

- Sinh từ đâu tới? Tử đi về đâu?

Sư còn phân vân nghĩ ngợi, khách tăng nói:

Còn đang nghĩ ngợi

Vạn dặm mây trôi.

( Nghĩ nghi chi gian

Bạch vân vạn lý).

Sư không đáp được, vị khách tăng bèn quát:

Chùa tốt mà không có Phật! Quát xong tăng khách bỏ đi

Từ đó sư vân du tìm thầy học đạo, nghe danh thiền sư Đạo HuệTiên Du bèn đến tham vấn, sư nêu ra câu hỏi mà lúc trước vị khách tăng nọ đã hỏi sư: "Sinh từ đâu tới, tử đi về đâu?"

Thiền sư Đạo Huệ đáp:

- Sinh không từ đâu tới, tử chẳng về đâu.

Sư hỏi:

- Thế chẳng phải rơi thoát vào chỗ trống không ư?

Đạo huệ đáp:

- Chân tính diệu viên, thể tự không tịch, vận dụng tự tại chẳng cùng với sinh tử. Cho nên nói sinh không từ đâu tới, tử chẳng về đâu.

Sư lĩnh ngộ thưa rằng:

"Không nhờ gió cuốn mây trôi hết

Màu xanh sao tỏ một trời thu?"

(Bất nhân phong quyện phù vân tận

Tranh kiến thanh thiên vạn lý thu)

Đạo Huệ nói:

Ngươi thấy cái gì?

Sư đáp:

" Quen biết đầy thiên hạ

Tri âm được mấy người? "

(Tương thức mãn thiên hạ

Tri âm năng kỳ nhân?)

Như một thứ âm ba vô tận, chấn động lòng người, đập vỡ tan hoang những trì trệ ứ đọng, đẩy ta bay bổng ra ngoài càn khôn, trong sự hụt hẫng khiếp đảm cùng cực, trong sát na bí lối đó khiến ta chợt tỉnh. Cái có hòa quyện với không, sanh với tử như một điệp khúc réo rắt gọi mời. Cái đẹp trọn vẹn được hiển lộ là lúc ta đẩy xô tất cả vào tận cùng, cuốn phăng hất trọn, buông xuống những đè nặng, chướng ngại, để cho bản thể diệu viên bừng dậy soi chiếu, không trụ bám vào đâu, dù đó là tử sinh hay niết bàn, mặc nhiên đến đi trong sự an tịnh, không còn bóng dáng của phiền não tử sinh. Khi nào ta còn sử dụng đến sự chỉ lối của ý thức, đưa đường của vô minh, còn chần chờ so đo tính toán, thì vẫn muôn trùng ngăn cách, vạn dặm sơn khê, mịt mờ hoang lộ, ta bị bung ngay xuống vực sâu, khó lòng leo lên được. Năng lực của thiền mở ra con mắt huệ, khiến ta thấu rõ mọi chuyển động, đưa ta từ thế giới triền phược, thong dong đi đến giải thoát, mở ra giá trị đích thực của sự sống. Một khi ta biết tận dụng tất cả năng lực nội tại, quán chiếu vào tận cùng, uống được ngụm nước đầu nguồn, ta sẽ thảnh thơi đi về muôn lối mà không lo sợ hụt hẫng.

Thiền sư Tịnh Không ( 1091 - 1170) Trong sách Thiền Uyển tập Anh ghi về sư như sau: Sư chuyên tu hạnh Đầu Đà, mỗi khi nhập định suốt mấy ngày mới dậy.

Có một thầy tăng hỏi:

Lời dạy của hòa thượng nghĩa thế nào?

Sư đáp:

Ngày ngày gặt lúa về

Quanh năm kho dụn rỗng.

(Nhật nhật khứ hoạch hòa

Thì thì không thương lẫm)

Tăng nói:

Đệ tử chưa hiểu.

Sư nói:

Sáng mãi trời trăng

Mây trôi toả bóng.

(Nhật nguyệt trường minh

Phù vân cái ấm)

Nói đoạn sư đọc bài kệ:

Kẻ trí không ngộ đạo

Ngộ đạo ấy ngu đần

Duỗi chân nằm nghỉ khỏe

Chân ngụy chẳng chi cần.

(Trí nhânngộ đạo

Ngộ đạo tức ngu nhân

Thân cước cao ngọa khách

Hề thức ngụy kiêm chân).

Có người hỏi Phật là gì? Ngài đáp:

"Nhật nguyệt trời cao soi mọi cõi

Ai hay mây khói phủ non sông."

(Nhật nguyệt lệ tam thiên hàm trân sát

Thùy tri vân tụ lạc sơn hà?)

Lại hỏi tiếp: “Làm thế nào mà hiểu?”

Sư đáp:

 "Mục đồng ngủ mãi lưng trâu nọ

 Câu chuyện anh hùng biết được sao? "

 (Mục đồng kỳ quán ngọ ngưu bối

 Sĩ hữu anh hùng khoa đắc y)

Hỏi: Ý tổ và ý Phật giống nhau, khác nhau thế nào?

Sư đáp:

Trèo non vượt biển muôn dặm đều hướng về cửa khuyết.

Tăng nói:

Trí tuệ của Hoà Thượng tật đặc sắc kỳ lạ, sao không cho các đệ tử cùng biết?

Sư đáp:

Ngươi thổi lửa, ta làm gạo, ngươi xin ăn, ta lấy bát. Ai phụ bạc ngươi?

 Trong cõi mênh mang sâu thẳm, ta lầm lủi rong chơi lạc bước nẻo luân hồi, đi từ thế giới hiện thực đến phi thực, rồi từ phi thực trở về với hiện thực. Từng bước đi với nhọc nhằn trĩu nặng, ngang trái phủ vây, hay từng bước đi về an tịnh? Tâm cảnh mà ta đang trực nhận, với bao buồn vui biến động, nhưng cũng là hiện cảnh, thân thể của ta dù réo gọi bởi vô thường sinh lão bệnh tử, thì cũng vẫn là nơi chốn để ta nương vào tu tập, không o bế cũng không tàn nhẫn với chính mình. Cho dù ta phát nguyện trở lại, hay vì nghiệp lực nhân quả khiến ta có mặt, thì ta vẫn phải sống, vẫn phải cưu mang, đem hết tâm lực hoàn thành đạo nghiệp. Quá khứ, tương lai vốn bất định, tâm cảnh biến đổi hư ảo không thật, hy vọng trông chờ ở một nơi chốn khác, tốt hơn đẹp hơn, sáng lạng hơn cảnh sống của ta bây giờ, là điều không tưởng. Mong cầu có được một thân tướng đẹp hơn, tốt hơn, không khổ đau, không chi phối bởi sinh diệt, nếu khôngbáo thân, ứng thân thì đều huyễn tướng. Ngoài chốn này, nơi này, hiện tại này, phút giây này, thì có chỗ nào chốn nào, phút giây nào, để ta thảnh thơi nhẹ bước, trong khi ta chất đầy âu lo, phiền não khổ đau bám theo quấy rối? Ngoài thân thể của tinh cha huyết mẹ, nghiệp lực dẫn dắt, ta chờ đến chừng nào để có được một hình hài khác, tốt hơn đẹp hơn, khi tuổi già sức yếu, vô thường bịnh tật thi nhau chế ngự, luôn phiên thăm viếng? Ta sống ở đây nhưng tâm thức lúc nào cũng chạy nhảy ở tận phương khác, ta nhận lãnh mọi hậu quả do mình tác tạo, nhưng lúc nào cũng ra công chối bỏ. Giây phút thắp sáng hiện hữu tìm lại con người đích thực của mình, liên tục bị ta đánh mất, thế giới mà ta đang sống và cảm nhận, luôn bị ta xô đẩy khước từ. Nhưng rồi sẽ có một ngày ta bỏ lại sau lưng tất cả, không dậy được, không mở mắt ra được, mọi thứ đều trở nên xa lạ, cảm giác trở nên rời rạc, không còn hơi sức để sống để thở, lúc ấy mặc cho số phận nghiệp quả thao túng. Ta ra sức nguyện cầu để được ban bố, ân sủng, nhưng không chịu sớt chia, nhận vào chứ không cho ra, không phát khởi lòng từ bi vô lượng. Ta đòi hỏi cái gì, điều gì, khi tâm cùng cảnh sống của ta vốn như thế, không hề thay đổi?

Thiền sư Chân Không ( 1046 - 1100) Một hôm sư nghe thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa lòng bừng tỉnh ngộ, vua Lý Nhân Tông rất kính mộ sư bèn sai sứ mời sư về Đại nội giảng kinh Pháp Hoa.

Một hôm có vị tăng hỏi:

 Diệu đạo là gì?

 Sư nói:

Giác rồi mới biết.

Người kia nói: 

Học nhân chưa hiểu được xin thầy dạy cho.

Sư nói:

"Ðến được động tiên sâu thẳm ấy

Linh đơn đổi xác mới quay về."

(Nhược đáo tiên gia thâm động nội

Hoàn đan hoán cốt đắc hoài quy)

 Hỏi: Thế nào là linh đơn (hoàn đan)?

Sư đáp:

" Vạn kiếp si mê không hiểu thấu

Sáng nay bừng mở nẻo khai minh. "

(Kiếp tịch ngu mông vô động hiểu

Kim thần nhất ngộ đắc khai minh)

Hỏi: Thế nào là khai minh?

Ðáp:

"Khai minh thấy hết trần gian nọ

Muôn loại sinh linh thảy một nhà."

 (Khai minh chiếu triệt ta bà giới

Nhất thiết chúng sinh cộng nhất gia)

Hỏi:

Người ta nói: “Tuy không biện luận nhưng đâu đâu cũng gặp người”. Người đây là ai?

Sư đáp:

 " Lửa cháy tàn rồi, tan sạch hết

Non xanh, mây trắng vẫn còn bay."

 (Kiếp hào đồng nhiên hào mạt tịnh

Thanh sơn y cựu bạch vân phi. )

Hỏi:

Sau khi chết xác thân tan rã rồi thì sao?

Ðáp:

" Xuân đi xuân đến ngờ xuân hết

Hoa nở hoa tàn cũng lại xuân. "

 (Xuân lai Xuân khứ nghi xuân tận

Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân.)

 Người kia đang suy nghĩ, sư hét một tiếng và nói:

" Bình nguyên sau trận cháy

Cây cỏ càng xanh thơm. "

 (Bình nguyên kinh hỏa hậu

Thực vật các thù phương).

Mọi biến hiện đổi thay, cháy hết tàn hết, tiêu tan hết, cũng là điều tự nhiên của vô thường, nhưng trong bản thể tuyệt cùng của chân như, giác ngộ, thì vẫn còn đó ở đó không hề vơi. Giải đất tâm một khi cày bừa thật kỷ, quét dọn thật sạch, đốt tan phiền não, đoạn diệt vô mình thì giác ngộ bùng lên soi sáng, mọi thứ trở nên tươi tốt rực rỡ. Chỉ có sự thiêu hủy đúng nghĩa mới hiển lộ nên những bí ẩn ngàn đời phong kín, hiên ngang trong từng biến hiện, một sự vươn mình trổi dậy vượt thoát ra ngoài có không, nhập thẳng vào dòng chảy bất tận, không đi qua chặng đường so đo tính toán, ru ngũ. Không có biểu tượng, dẫn chứng nào tồn tại, phải tự mình trãi nghiệm thì mới biết đó là cái gì, hương vị ra sao. Tất cả chỉ là sự kết nối của tương duyên tương hợp, trong sự vô thường biến đổi, còn có vi diệu của chân thường bất biến, nhận thứcquán chiếu được như thế, thì tâm ta sẽ được an lạc, hạnh phúc thật gần có thể với tay kéo xuống, nó có mặt ngay tại nơi đây, con người nầy chứ không đâu khác. Chỉ cần lòng từ bi chan hoà trên muôn lối, trí tuệ dâng trào thắp sáng cõi nhân sinh, thì an lạc hạnh phúc nào không ngự trị ở trong ta? 

Vua Trần Thái Tông, một vị thiền sư cư sỹ lỗi lạc, ngài sáng tác ra bốn mươi ba Công Án, vô cùng độc đáo, chúng ta thử chiêm nghiệm một vài công án dưới đây:

Công án thứ 14

Nêu:

Bách Trượng nói: Thế nào là không thuyết pháp này cho ngươi?

Nam Truyền nói: Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật.

Niệm:

Nghìn thánh tìm người không dấu vết

Toàn thân ẩn cõi Đại hư không.

Tụng:

Nhìn lên công án chẳng thiên lệch,

Đối diện xem xem mới rõ là.

Phật pháp chính ngôi cầu chẳng ở,

Đêm về lại trú rặng lau hoa.

Lê Hữu Nhiệm- Băng Thanh dịch

Thơ Văn Lý Trần, tập 2 Quyển Thượng, trang 140-141

Công án thứ 38

Cử:

Có vị tăng hỏi Thiền Sư Huệ Tư về đại ý Phật Pháp. Tư nói; "Gạo ở Lư Lăng giá bao nhiêu?"

Nìệm:

Bóng trúc quét thềm, bụi trên thềm không lay động

Vầng trăng chiếu nước, mặt nước không vết ghi.

Tụng:

Ngữ khí quả là trang hảo hán

Tuỳ theo căn tính độ quần sinh

Lư Lăng giá gạo bao nhiêu nhỉ?

Rút lại gang tay vạn lý trình.

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch

Thúc ép tâm thức liên tục thẩm thấu một điểm, cho đến khi bùng vỡ, không để cho ngôn ngữ tư tưởng bám theo gây rối, không để chổ cho dựa mong, cơ hội có mặt, không để cho tâm thức tìm cách ru ngũ. Một sự bí lối vô ngôn, dù rằng tự thân của "vô ngôn" đã là "hữu ngôn". Bản chất của ngôn ngữvô thường, nó chỉ có thể diển tả phần nào tư tưởng, nhưng trên lãnh vực xúc tác vào giác ngộ thì hoàn toàn bất lực. Ta không thể dựa vào sự bất định của tâm thức để đổi lấy sự trá hình không thật khác của chính nó. Trong thiền không có định nghĩa, áp đặt, chỉ có trực nhận đối đầu, gay cấn để bùng vỡ, không có chổ cho sự đầu hàng trốn chạy chối bỏ ẩn núp. Ta ra công gắng sức để quật tung, thể nhập vào tận cùng, mới trông thấy trọn vẹn được sự tuyệt vời khuất lấp đâu đó. Phải giải quyết mọi thứ từ đây, phút giây hiện tại nầy, giải phóng mọi thứ từ đây, con người tâm thức này. 

Tuệ Trung Thượng Sĩ (Trần Tung) 1230- 1291 một nhà thiền học thâm uyên, một con người tự tại phóng khoáng, không gò bó trong ngôn từ tư tưởng, không câu nệ trong hình thức, tướng trạng, tự do thong dong đúng nghĩa. Ngài từng theo học với Thiền Sư Tiêu Dao, một vị thiền sư nổi tiếng cuối đời nhà Lý, và là học trò của Thiền Sư Tức Lự. Trong tác phẩm Thượng Sĩ Ngữ Lục, phần Đối Cơ (Tùy theo cơ duyênứng đối) có đoạn.

Hỏi:

Phật Thế Tôn nói: "Suốt bốn mươi chín năm nay, ta chưa hề nói một tiếng nào" Thế thì mười hai phân giáo do đâu mà có?

Sư đáp:

Kiếm vung khỏi hộp mong về lại,

Thuốc báu lìa bình muốn bệnh tiêu.

Lại hỏi:

Thế nào là Phật chính mình?

Sư đáp:

Không nhấp rượu bồ đào

Khó tìm người đập hủ.

Lại hỏi:

Làm thế nào mà biết được?

Sư đáp:

Một đêm cùng ngũ nhà to,

Gặp con sông rộng chung đò cùng sang.

Lại hỏi:

Thế nào là tâm của cổ Phật?

Sư đáp:

Đều bảo khắp thành không quốc sắc,

Hay đâu cửa tía có thuyền quyên.

Lại hỏi:

Người xưa nói "tức tâm tức Phật" mà sao Phật không hiện ra trước mắt?

Sư đáp:

Mổ trai, dầu vẫn khó tìm châu,

Mổ cá, đừng mong dễ kiếm đâu.

Lại hỏi:

"Không thể dùng "trí" mà biết, không thể dùng "thức" mà hiểu". Thế thì nên làm thế nào?

Sư đáp:

Người gổ tìm xuống biển

Ca hát khúc vô sinh.

Gái đá lướt mây xanh,

Thổi điệu buồn tất lật.

Lại hỏi:

Thế nào "vô thức cũng vô trí"?

Sư đáp:

Khổng Nhân chưa trình rõ,

Tài " thức " ngưạ " truy phong "

Tiết Chúc hẳn khó lòng,

Giỏi " trí " gươm " liệt vũ ".

Lại hỏi:

"Thấy sắc liền nghe tâm" ý nghĩa thế nào?

Sư đáp:

Vào nước "cởi trần" nên bỏ khố

Đừng học Hàm - đan quên ngọc đào.

Đỗ Văn Hỷ - Huệ Chi dịch

Thơ Văn Lý Trần tập 2 Quyển Thượng, trang 321,322

Và ở một đoạn khác.

Có người hỏi:

Gia phong của Thượng Sĩ thế nào?

Sư đáp:

Nhàn, kêu vượn đón quả rừng

Lười câu cá suối, xin cùng hạc tranh.

Lại hỏi:

Tổ ý và giáo ý giống nhau hay khác nhau?

Sư đáp:

Sóng, nước tuy hai chẳng cách xa

Hoa dù nở, nụ vẫn là hoa.

Lại hỏi:

Bồ Đềphiền não, giống nhau khác nhau thế nào?

Sư đáp:

Vị muối trong nước biển

Sắc keo giữa màu xanh.

Lại hỏi:

Thế nào là nghiệp sanh tử?

Sư đáp:

Sương thu li lách bờ lau

Tuyết đêm lất phất dưới bầu trời trăng.

Lại hỏi:

Dật Đa không tu tịnh huệ, tại sao vẫn thành Phật như thường?

Sư đáp:

Trên cây đào thắm đúng kỳ

Cúc vàng bên dậu chắc gì đã xuân.

Lại hỏi:

Ngồi thiền tập định thì thế nào?

Sư đáp:

Vua chúa xuống xe chào ếch bướng.

Lại hỏi:

Không ngồi Thiền tập định thì thế nào?

Sư đáp:

Thuyền Phạm Lãi sông hồ thoả thích.

Đỗ Văn Hỷ - Huệ Chi dịch

Thơ Văn Lý Trần tập 2 Quyển Thượng, trang 322- 323

Tư tưởng và phong cách siêu việt của ngài ẩn chứa trong từng ngữ khí, vượt ra ngoài lằn ranh định mức, không bị gò ép uốn nén trong phạm trù tư tưởng, từ trong dòng chảy tuyệt vời của trí tuệ giác ngộ, tự tại lưu xuất không gì đuổi theo sánh kịp. Nó như sấm sét bùng lên mưa tuôn xối xả, khiến ta choáng ngợp hụt hẫng, có lúc nhẹ nhàng bay bổng, có khi dồn dập đẩy ta lên tận trời cao, có dịp chém thẳng vào dòng tư tưởng đang ngập ngừng, toan tính ở trong ta. Trong sự tưởng chừng bất chợt khủng khiếp đó, là cả một sự mênh mông tỏa sáng, một khung trời lặng yên, không gì bén mảng đến chi phối được. Muốn chạm vào, ta phải phá vỡ mọi ngăn cách, xa lìa những đeo cứng ôm chặt, gạt bỏ mọi đi lại, phiền nhiễu. Như nhát kiếm chém phăng vào dòng nước, làm sủi bọt tung toé, nhưng kiếm và nước vẫn không hề hấn, không lưu lại dấu. Tất cả đều bị ngã nhào, cuốn trôi, đổ ập, trước nội lực trí tuệ vô cùng độc đáo của Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Thiền Sư Trúc Lâm Trần Nhân Tông ( 1258- 1308) một vị vua nổi tiếng khoan hoà, nhân ái, một nhà thơ, nhà văn hoá, và cũng là một thiền sư lỗi lạc. Ngài là Sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm, một thiền phái mang đậm dấu ấn của Thiền Việt Nam, đi vào cuộc đời để chuyển hoá khổ đau phiền não trong sự giác ngộ vượt thoát của mình. Chúng ta tìm hiểu vài trích đoạn trong phần "Thầy trò hỏi đáp" dưới đây, để thấy sự giác ngộ tuyệt vời của ngài.

Có vị tăng hỏi:

Thế nào là gia phong của Phật quá khứ?

Ngài đáp:

Rừng vườn vắng vẽ không người quản

Mận trắng đào hồng riêng tự hoa.

Hỏi:

Thế nào là gia phong của Phật hiện tại?

Đáp:

Nước trắng mênh mông chim én lạc

Vườn tiên đào thắm gió xuân say.

Lại hỏi:

Thế nào là gia phong của Phật vị lai?

Đáp:

Đợi triều bên bể trăng gần mọc

Nghe sáo thuyền câu khách nhớ nhà.

Lại hỏi:

Thế nào là gia phong của Hoà Thượng?

Đáp:

Áo rách ôm mây, ban mai húp cháo

Bình xưa dốc nguyệt, trời khuya nấu trà.

Băng Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 Quyển Thượng trang 496

Gia phong, là tác phong, cung cách, bản chất riêng biệt đặc thù, tự thân tâm toát ra nội lực cùng sức sống diệu kỳ, khiến ta hết lòng quy ngưỡng, hết lòng vươn tới. Tự mình nỗ lực khai phá để cho bản thể giác ngộ trong ta bừng dậy soi sáng, một khuôn mặt đích thực "bản lai diện mục", một khuôn mặt không bị biến dạng méo mó, không bị thời gian bào mòn đào thải, một khuôn mặt như thật, từ vô thủy đến tận vô chung mãi còn vô tận.

Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên. Tất cả trên đường trở về của tịch lặng, không có sự đơn độc hụt hẩng nào trong đến đi, chỉ có đẩy xô chối bỏ, phủ quyết của chính ta trong mọi vấn đề. Nâng lên hay buông xuống, thả ra hay nắm vào, mở ra hay đóng lại, bây giờ hay bao giờ, đều do chính ta quyết định. Như một câu nói bất hủ vượt ra ngoài càn khôn của Thiền Sư Chân Nguyên: "Vì anh đưa một nét. Đầu núi ánh dương hồng".
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19423)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18528)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16051)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29867)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25458)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21606)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17808)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20821)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26325)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33325)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52143)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22871)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23406)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39641)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21789)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22377)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6835)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22725)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69801)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44004)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23062)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35031)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44089)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42909)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44413)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24907)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24354)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39203)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39229)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17252)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18038)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19259)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35670)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24214)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19586)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20399)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18300)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18997)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18936)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17472)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19316)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30828)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19187)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20522)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19551)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19764)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29817)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17831)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19397)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19876)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58766)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24403)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23512)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39754)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26713)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40758)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22859)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22914)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21587)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18613)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22589)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21078)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19209)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20929)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20325)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30550)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20176)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17461)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16593)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16846)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14953)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14832)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22863)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16038)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16201)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15248)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26100)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17190)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15787)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19768)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17668)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14676)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14730)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19122)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15116)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33047)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17487)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19126)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21815)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23002)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16619)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16465)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16510)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22985)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26382)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12744)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29509)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27709)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25907)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18461)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant