Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đức Kyabje Trulshik Rinpoche (1924 – 2011)

15 Tháng Tư 201200:00(Xem: 26344)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche (1924 – 2011)

KYABJE TRULSHIK RINPOCHE (1924 – 2011)

kyabjetrulshikrinpoche

Bậc thầy người với lòng bi mẫn lớn lao mà chúng ta hằng nhớ tưởng và biết ơn, Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, là một trong số những bậc đạo sư cuối cùng hoàn thành nghiêm túc sự nghiên cứu mở rộng, các giáo huấnthực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng trong môi trường văn hóa đặc sắc của Tây Tạng trước thời kỳ Trung Quốc xâm lăng. Là đệ tử thân thiết của các hành giả Phật giáo vĩ đại của thế kỷ, bao gồm đức Dilgo Khyentse Rinpoche và đức Dudjom Rinpoche, ngài là một trong số các bậc thầy mà đức Đạt Lai Lạt Ma hằng kính trọng, ngài nắm giữ một truyền thừa giới luật quan trọng và là người thừa kế của rất nhiều các giáo huấn và sự trao truyền quý giá.

Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù. Kể từ thời của Đức Phật, để làm lợi lạc cho chúng sinh toàn cõi Ấn Độ, Nepal và Tây Tạng, ngài đã liên tục thị hiện một chuỗi dài các hóa thân, bao gồm vị đệ tử của đức Phật, ngài A Nan; vị đạo sư vĩ đại người Ấn Độ Āryadeva; Thönmi Sambhota, một trong số các vị Bộ trưởng của Tùng Tán Cán Bố (Songtsen Gampo), và tác giả của bộ sách đầu tiên về ngữ pháp tiếng Tạng (Ba mươi đoạn và sự ứng dụng của các kí hiệu); đức tu viện trưởng Śāntarakṣita; đại dịch giả Vairochana; ở Nepal, Phamthingpa Vāgīśvarakīrti (Ngawang Trakpa); Rechungpa, vị đệ tử thân cận của Milarepa; thành tựu giả vĩ đại Lékyi Dorje ở xứ Lhodrak; và đức Zhadeu Trulshik Kunga Rinchen. Đây chỉ là một vài trong số các hóa thân đời trước của đức Trulshik Rinpoche, nhiều hơn trong số các hóa thân được đề cập đến trong lời cầu nguyện cho lần tái sinh tiếp theo của ngài – nhưng thực tế là, phạm vi các hành động của một bậc giác ngộ là không thể nghĩ bàn, cho dù là với các vị Đại Bồ Tát, chứ đừng nói gì là những người sơ cơ như chúng ta.

Gia đình phía cha của ngài trong lần hóa thân này, Tenzin Chödar, có thể truy nguyên từ một thành viên của bộ tộc Licchavi ở Ấn Độ, người mà đã được đưa đến Latö ở Tây Tạng trên lưng của vị nữ bảo hộ Palden Lhamo cải trang thành một con gấu. Mẹ của ngài, Jamyang Wangmo, là con gái trong một gia đìnhtổ tiên là đức Önré Dharma Senge, cháu trai của tổ sang lập dòng Drukpa Kagyu, Tsangpa Gyarepa. Gia đình vẫn cư ngụ tại ngôi nhà của đức Onre ở vùng Nakartsé gần Yamdrok Taklung ở vùng hạ Tsang, và ở đó, trong một hang động nơi mà Önré đã thực hành phía bên trên ngôi nhà, đức Trulshik Rinpoche đã ra đời vào ngày mùng 10 của tháng 9 trong năm con Chuột Gỗ (tức ngày 6/11/1924), với nhiều dấu hiệu kỳ lạ.

Lên bốn tuổi, Trulshik Rinpoche đi thăm một vùng được gọi là Dzarong Phu, ở quận Shelkar ở Latö, theo lời đề nghị của Dzatrul Rinpoche, Ngawang Tenzin Norbu, vị đệ tử thân thiết của lần hóa thân trước đó, Trulshik Donga Lingpa, và cũng được biết đến như là Zhadeu Kunzang Thongdröl Dorje. Khi mà ngài ở đó, trí nhớ về các sự kiện trong đời trước bỗng trào dâng trong tâm trí ngài. Ngài kể lại chúng một cách chi tiết – trước sự ngạc nhiên của Dzatrul Rinpoche, người đã chứng kiến tân mắt những sự kiện này. Tin chắc rằng, cậu bé chính là hóa thân của Trulshik Donga Lingpa, Dzatrul Rinpoche công nhận và làm lễ đăng ngôi cho ngài, và kế đó, truyền lại cho ngài mọi giáo pháp của người tiền nhiệm.

Trulshik Rinpoche đã nghiên cứu sâu rộngtu viện Mindrolling, nơi tu học vĩ đại của truyền thống Cựu Dịch. Cũng ở đó, từ bậc thầy Trikhen Chung Rinpoche và Minling Khenchen Khyentse Norbu Rinpoche, ngài nhận trọn vẹn giới Cụ túc từ một dòng truyền thừa giới luật từ đức Lachen Gongpa Rabsel, và ngài trở thành một trong các vị trì giữ dòng truyền thừa đó. Ngài cũng nổi tiếng vì tính kỷ luật của mình.

Ngài đã nhận và nghiên cứu chi tiết rất nhiều kahma, terma và các kiến thức khác, từ hơn 30 vị thầy quan trọng, trong đó có các vị đạo sư của Dòng Nyingma, như đức Minling Dodzin Rinpoche, vị nữ lama nổi tiếng Shuksep Jetsun Rinpoche, đức Dudjom Rinpoche Jikdrel Yeshe Dorje, và đức Dilgo Khyentse Rinpoche; và với các đạo sư của dòng Gelug như đức Lhundrup Tsöndru Rinpoche của tu viện Ganden, đức Phurchok Jamgon Rinpoche, đức Gendun Tashi Rinpoche của tu viện Drepung, và bậc nắm giữ pháp tòa Ganden đức Ling Rinpoche, Đức Đạt Lai Lạt Ma và vị phụ tá đức Serkong Rinpoche; từ đức Sakya Drolma Podrang Rinpoche, Phuntsok Podrang Rinpoche, Ngor Luding Khenchen Jamyang Tenpai Nyingma Rinpoche và đặc biệt từ vị đạo sư bất bộ phái Dzongsar Khyentse Rinpoche Chökyi Lodrö.

Ngài không chỉ nghiên cứu mà còn thực hành tất cả các giáo huấn và trao truyền quan trọng. Ngài hoàn thành rất nhiều đợt nhập thất ba năm cẩn mật, và sử dụng mọi thời gian có thể để thực hànhnghiên cứu. Tựu chung lại, Trulshik Rinpoche đã giành ít nhất là 60 năm trong cuộc đời để nhập thất.

Theo lời khuyên của Dzatrul Rinpoche, ngài tiếp quản nhiệm vụ tu viện trưởng ở tu viện Dzarong Dongak Chöling, gìn giữ, bảo vệ và hoằng dương các giáo pháp. Đặc biệt, mỗi năm ở Tây Tạng (và sau đó là ở tu viện ở Nepal, Thubten Chöling), ngài hướng dẫn cho các đệ tử - tăng, ni và Phật tử trong các khóa nhập thất theo mùa về sự thực hành theo các sắp xếp của Dzatrul Rinpoche về Ba mươi bảy Pháp hành Bồ tát đạo của Gyalse Thogme, các sự thực hành tiên yếu của Jowo Thugje Chenpo và của Kho tàng Phương bắc Zer Nga.

Khi Tây Tạng bị xâm chiếm vào những năm 1950, Trulshik Rinpoche rời khỏi đất nước và xây dựng một tu viện ở miền hẻo lánh Khumbu của Nepal, gần núi Hy Mã Lạp Sơn, nơi mà ngài đã thiết lập vị tríbản như là người đứng đầu của một cộng đồng tăng, ni và Phật tử lớn và phát triển.

Khi Trulshik Rinpoche ở tuổi 38, ngài nhận các quán đảnh, trao truyền qua sự đọc và sự giải thích toàn thể Kahma của dòng Nyingma từ đức Dudjom Rinpoche ở Kalimpong, Đông Bắc Ấn Độ, ngài cũng là người bảo trợ cho các giáo pháp quan trọng đó. Đây là cơ hội đầu tiên ngài được gặp đức Dilgo Khyentse Rinpoche. Chính trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, từ vị đạo sư vĩ đại, ngài nhận được, như là một sự kết nối quan trọng, những chú giải về Bức thư gửi đệ tử của ngài Long Thọ. Khyentse Rinpoche sau đó tham vấn ngài về các kho tàng do chính ngài (Trulshik Rinpoche) phát lộ, như Nyakluk Phurba, và sau đó, trở thành bậc thầy thân thiết của ngài. Trulshik Rinpoche coi Dilgo Khyentse Rinpoche là một vị đạođặc biệt theo đúng nghĩa, và đồng thời với việc nhận các giáo lý, ngài cũng trao truyền cho Dilgo Khyentse Rinpoche một vài trong số các giáo huấn hiếm có mà ngài nắm giữ. Mối quan hệ đạo sưđệ tử mà các ngài phát triển thật là phi thường, giáo pháp được truyền từ người này sang người khác như là những thứ bên trong chiếc bình được rót sang một chiếc bình khác. Trulshik Rinpoche nhận từ Dilgo Khyentse Rinpoche một lượng lớn các giáo pháp, bao gồm Dam-ngak Dzö hoàn thiện, và các bộ pháp quan trọng khác. Trulshik Rinpoche trở thành người nắm giữ các giáo pháp của chính đức Dilgo Khyentse Rinpoche và như là một trong số các đệ tử thân thiếtthành tựu nhất của ngài, người đã đảm nhiệm công việc tìm kiếm hóa thân và tổ chức lễ đăng quang cho vị hóa thân mới.

Trước khi nhập Niết Bàn nhiều năm, Dilgo Khyentse Rinpoche đã trao truyền một bộ các giáo pháp quan trọng của dòng Nyingma cho đức Đạt Lai Lạt Ma, bao gồm các bộ pháp cơ bản về Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga trong Mật thừa. Vinh dự tiếp tục trao truyền các phần còn lại của giáo pháp chính là của đức Trulshik Rinpoche, người sẽ tiếp tục các quán đảnhgiáo pháp cho đức Đạt Lai Lạt ma, bao gồm bộ pháp của Druptap Döjo’i Pumzang, được tích tập bởi Minling Terchen Rinpoche (người đã trao truyền các giáo lý của dòng Nyingma cho đức Đạt Lai Lạt Ma thứ V), và các cuốn sách quan trọng của Longchen Rajampa, như là Ngalso Khorsum, Bảy Kho Báu, và Nyingtik Yabzhi. Đồng thời với những giáo huấn quan trọng từ dòng Nyingma, còn có rất nhiều các giáo huấn của dòng Gelug mà đức Trulshik Rinpoche là bậc nắm giữ duy nhất cũng được truyền cho đức Đạt Lai Lạt Ma.

Trulshik Rinpoche đã dạy rất nhiều vị thầy vĩ đại khác. Ví dụ, ngài là một trong số các đạo sư của Đức Sakya Trizin; ngài truyền bộ pháp Rinchen Terdzo cho đức Pháp vương Gyalwang Drukpa ở tu viện Thubten Chöling; và ngài cũng truyền các tập giáo lý quan trọng cho Dilgo Khyentse Yangsi Rinpoche, Dudjom Yangsi Rinpoche và nhiều bậc trì giữ các dòng truyền thừa khác của Tây Tạngtu viện Shechen ở Nepal, bao gồm Dam-ngak Dzö, kinh điển dòng Nyingma và Nyingtik Yabzhi.

Ngài tiếp tục thúc đẩy sự bảo tồn và hoằng bá giáo lý và sự thực hành Phật pháp, ngài đi đến khắp nơi trên thế giới trong những năm cuối đời, và được các vị Lama của mọi truyền thống coi như là một hình mẫu của sự tham chiếu, sự nghiên cứu rộng lớn, tính trung thực, sự giản dị và trên tất thảy là những kinh nghiệm và sự chứng ngộ sâu sắc của ngài mà không ai có thể sánh nổi trong thời đại hiện nay.

Trulshik Rinpoche đi đến rất nhiều nơi ở châu Á, bao gồm Nhật Bản, Thái Lan và Malayxia, cũng như ngài đã đến Hoa Kỳ. Ngài đi thăm châu Âu rất nhiều lần, ngài đến Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Phần Lan và Hà Lan, và đặc biệt ngài đã từ bi chấp thuận lời mời đến thăm nước Pháp nhiều năm trước và coi sóc tất cả chúng tôi, ban các giáo huấn cho các đệ tử may mắn trong cuộc nhập thất ba năm nghiêm mật, song song với các cuộc nhập thất theo nhóm, và cộng đồng. Ngài đã hoàn thành sự trao truyền của Druptap Küntü cũng như là các quán đảnh từ terma được phát lộ bởi Kangyur Rinpoche, Dilgo Khyentse Rinpoche và Dudjom Rinpoche. Trong một lần, khi mà đang ban quán đảnh trong kho tàng của Kangyur Rinpoche, Trận mưa của sự gia trì (Tsikdun Ladrup), pháp tu mà ngài đã nhận được từ đức Dilgo Khyentse Rinpoche, ngài nhận thấy ngài đã nhận nó trực tiếp từ đức Kangyur Rinpoche – vì khi lần đầu tiên gặp Kangyur Rinpoche và nghe thấy giọng nói của ngài (ở Kalimpong, trong buổi giảng pháp về Kahma dòng Nyingma), ngài nói rằng ngài đã nhận được sự gia trì về thân, khẩu và ý, và tâm của các ngài đã tan hòa.

Bước sang tuổi tám mươi, Trulshik Rinpoche vẫn tiếp tục các hoạt động giác ngộ một cách không mệt mỏi để làm lợi lạc cho giáo Pháp và giúp đỡ tất cả chúng sinh có kết nối với ngài, với một năng lượng và lòng nhiệt thành không hề suy giảm. Trong những năm cuối đời, dù sức khỏe dần dần suy giảm, ngài tiếp tục ban các giáo huấn cho chúng đệ tử ở châu Á, châu Âu, và giành thời giantu viện Thubten Chöling để hướng dẫn một cộng đồng lớn tăng, ni và các hành giả nhập thất ở đó.

Ngài cũng đảm trách việc xây dựng tu viện mới, Dzarong Mindrol Thubten Dongak Choling ở trên Sitapaila, ngoại ô Kathmandu, tự mình tiến hành các buổi lễ quan trọng cùng với quá trình xây dựng, ví dụ như lễ ban phước cho đất hay là việc đặt các bình, hình ảnh, thần chú, linh phù (yantra) vào trong cột trụ và xà của ngôi chùa chính… Ngài thường dạy rằng, việc ngài xây tu viện này là để xua tan chướng ngại cho thế giới nói chung và đặc biệt cho dân chúng quanh vùng Hy Mã Lạp Sơnvì vậy, ngài chọn vị trí đặc biệt này, mà từ đó có thể nhìn thấy ba tháp quan trọng ở thung lũng Kathmandu, Swayambhūnāth, Namo Buddha, và Boudhanāth. Từ trên ngọn đồi mà tu viện có thể bao quát toàn cảnh thung lũng được gắn kết với Phật Vairocana, ngọn đồi gần đó ở Swayambhūnāth gắn liền với đức Vajrasattva, ngọn đồi của tu viện Tergar là đức Ratnasambhava, và ngọn đồi của đức Amitabha ở phía sau, ngọn đồi cao, đầy cây cối của ngài Long Thọ hướng về phía Bắc thì gắn liền với Amogasiddhi.

Cũng ở đó, phía bên trên tu viện, nơi ngài cư ngụ ở Phakmai Gatsal (khu vườn của đức Tara vĩ đại), cuối cùng, vào ngày 2 tháng 9 năm 2011, ngài đã thị tịch một cách an lành ở tuổi 87.

Bất kỳ ai có kết nối với bậc đạo sư vĩ đại này, dù đã gặp ngài hay chưa, sẽ được ngài hướng dẫn cho đến khi đạt giác ngộ. Vì vậy, việc quan trọng là phải cầu nguyện đến ngài, hòa tâm mình với tâm ngài. Các lời cầu nguyện hay thực hành chúng ta làm không phải vì Trulshik Rinpoche, chúng là vì chính chúng ta, cốt để chúng ta có thể tiếp tục nhận được lợi lạc từ các hoạt động giác ngộ của ngài. Trulshik Rinpoche là một đạo sư giác ngộ, ngài đã thị hiện xuống trái đất này để hướng dẫn chúng ta với lòng từ bi cho đến ngày chúng tathể không tách rời với tâm giác ngộ của ngài.

Trulshik Rinpoche luôn luôn nói rằng, các thực hành của ngài là theo đoạn thơ của ngài Santideva:

Hư không còn,

Chúng sinh còn,

Thì ta còn,

Để xua tan những khổ đau của thế giới này.

Chúng ta biết rằng đây là lời phát nguyện của Đức Trulshik Rinpoche, vì thế chúng ta tự tin ngài sẽ nhanh chóng trở lại tiếp tục các hoạt động giác ngộlợi lạc của chúng sinh.

 

Dựa trên bản tiểu sử của đức Trulshik Rinpoche viết bởi cháu ngài, cũng là thị giả chính, Kusho Ngawang Tsephel, bản tiểu sử này được chỉnh sửa lại bởi đức Jigme Khyentse Rinpoche và đức Pema Wangyal Rinpoche vào tháng chín năm 2011. Dịch và chỉnh sửa sang Anh ngữ bởi nhóm Padmakara.

Mọi công đức xin hồi hướng cho tất thảy hữu tình chúng sinh.

Mọi sai sót xin sám hối trước chư Phật cùng chư vị đạo sư.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31569)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10503)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11204)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12710)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10792)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16600)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10789)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22928)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11991)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11470)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10664)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12309)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11183)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9998)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10314)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11896)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10681)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12341)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9788)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11240)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13822)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12607)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9680)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10439)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10533)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10292)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9881)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11034)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11991)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10131)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9529)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9881)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8756)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9486)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14501)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8759)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12532)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10402)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9057)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10541)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9319)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8778)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10492)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9170)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8346)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12004)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9686)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10205)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10217)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19102)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9379)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8962)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9570)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9008)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14727)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10069)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8338)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8931)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8956)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8728)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9346)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14562)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9021)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8746)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9021)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10507)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8621)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9974)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24253)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10151)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11003)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8987)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9453)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9227)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15323)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10317)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9558)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17424)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12142)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19204)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25987)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7953)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14729)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10615)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11338)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9520)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18623)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12337)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11859)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10722)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13320)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9968)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9256)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9363)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15842)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant