Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dudjom Rinpoche

21 Tháng Tư 201200:00(Xem: 33050)
Dudjom Rinpoche

DUDJOM RINPOCHE

dudjomrinpoche-1 

Kyabje Dudjom Rinpoche (1904 – 1987) – một trong các yogi, học giảđạo sư thiền định lỗi lạc của Tây Tạng. Ngài được công nhậnhóa thân của Đức Dudjom Lingpa (1835 – 1904), các hóa thân đời trước gồm có các đạo sư, yogi và học giả vĩ đại nhất như ngài Shariputra [Xá Lợi Phất], Saraha và Khye’u Chung Lotsawa. Được coi là Đại diện của Đức Liên Hoa Sinh, ngài là tác giả lớn và một người phát lộ “kho báu” (terma) được chôn giấu bởi ngài Liên Hoa Sinh. Là một tác giả lớn và một học giả cẩn thận, ngài Dudjom Rinpoche viết hơn 40 bản, trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm đồ sộ Những nguyên tắc và Lịch sử của truyền thống Nyingma.

Trong hơn 10 năm cuối đời, ngài giành rất nhiều thời gian để giảng dạy ở phương Tây, nơi ngài giúp đỡ thiết lập truyền thống Cổ Mật, thành lập các trung tâm lớn ở Pháp và Mỹ.

Đức Pháp vương Dudjom Rinpoche, Jigdral Yeshe Dorje, là một trong các bậc yogi, học giảđạo sư thiền định xuất chúng nhất của thời hiện đại, người đã đem đến sự kính phục cho những người đã gặp, mà còn là lòng sùng mộ và yêu mến sâu sắc. Sau cuộc bỏ chạy của những người Tây Tạng đến vùng lưu vong, chính Đức Dudjom Rinpoche là đạo sư đầu tiên phù hợp với chức vị Lãnh Đạo Tối Cao truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, truyền thống “cổ nhất” được đưa đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8 bởi Đức Đạo sư Liên Hoa Sinh.

Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh. Ngài được nhận rahóa thân của Đức Dudjom Lingpa (1835 – 1904), một vị terton nổi tiếng – người phát lộ những kho báu terma, đặc biệt là những terma liên quan đến thực hành Vajrakilaya. Đức Dudjom Lingpa đã có ý định viếng thăm miền Nam Tây Tạng để phát lộ vùng đất Pemako linh thiêng, nhưng bởi ngài không thể làm như vậy, ngài đã tiên đoán rằng người kế nhiệm sẽ sinh ra ở đó và phát lộ vùng đất.

Thời trẻ, Đức Dudjom Rinpoche đã học với các đạo sư vĩ đại nhất của thời đó. Ngài bắt đầu việc nghiên cứu với Khenpo Aten ở Pemako, trước khi tham gia vào một số học viện tu sĩ lớn ở miền trung Tây Tạng – như là Mindrolling, Dorje Drak và Tarje Tingpoling – và miền Đông Tây Tạng – như Kathok và Dzogchen. Nhưng chính Mindrolling là nơi ngài quay trở về để hoàn thiện kiến thức của ngài về truyền thống Nyingma. Nổi tiếng nhất trong các đạo sư của ngài là Đức Phungong Tulku Gyurme Ngedon Wangpo, Jedrung Trinle Jampa Jungne, Gyurme Phendei Ozer và Minling Dordzin Namdrol Gyatso.

Vùng hoạt động chính của Dudjom Rinpoche là miền trung Tây Tạng, nơi ngài duy trì truyền thống Mindrolling, và đặc biệt là ở Pema Choling và các trụ xứ khác của ngài ở Kongpo và Puwo ở miền Nam Tây Tạng. Ngài trở nên nổi tiếng khắp Tây Tạng với sự chứng ngộ tâm linh sâu sắc, cũng như trí tuệ vô song.

Rất đặc biệt khi nhận được trao truyền của toàn bộ các giáo lý đang tồn tại của truyền thống Nyingma rộng lớn, Dudjom Rinpoche đặc biệt nổi tiếng là một terton vĩ đại, với các terma được giảng dạy và thực hành rộng rãi hiện nay, và là đại diện tiêu biểu của Dzogchen, giáo lý tối thượng của Phật giáo Tây Tạng. Trên tất cả, ngài được coi là hiện thân của Đạo sư Liên Hoa Sinh và các đại diện của ngài trong thời điểm này. Một đạo sư của các đạo sư, ngài được công nhận bởi các đạo sư Tây Tạng xuất chúng trong thời đại của ngài là sở hữu sức mạnh và sự gia trì lớn lao nhất trong việc liên hệ với bản tánh của tâm, và các ngài thường giới thiệu đệ tử đến Rinpoche khi chuẩn bị cho sự trao truyền “tâm trực tiếp.” Trên thực tế, Dudjom Rinpoche là bậc đạo sư gốc của rất nhiều các vị thầy xuất chúng nhất hiện nay.

 dudjomrinpoche-2-content

Ngài còn rất nổi tiếng là một tác giảhọc giả cẩn thận. Các trước tác của ngài nổi tiếngkiến thức rộng lớn mà chúng hiển bày với mọi truyền thống khác nhau của việc nghiên cứu Phật giáo, bao gồm cả thơ, lịch sử, dược, chiêm tinh và triết học. Một tác giả của các bài thơ đầy cảm xúc với vẻ đẹp hấp dẫn, ngài có trí tuệ đặc biệt trong việc diễn tả ý nghĩa và sự chứng ngộ Dzogchen với sự minh triết tuyệt vời như pha lê.

Trong số các tác phẩm được đọc nhiều nhất, có cuốn Truyền thống Nyingma của Phật giáo Tây Tạng, Những nguyên tắc cơ bản và Lịch sử, được ngài biên soạn ngay sau khi đến Ấn Độ tỵ nạn và đã được dịch sang tiếng Anh. Lịch sử đồ sộ của truyền thống Cổ Mật là tác phẩm lớn, lần đầu tiên giới thiệu một lượng tài liệu lớn về sự phát triển của Phật giáoTây Tạng và sẽ là một tác phẩm đáng tin cậy về chủ đề này.

Với lời thỉnh mời của Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài Dudjom Rinpoche cũng viết một cuốn về lịch sử Tây Tạng. Một công trình quan trọng khác là bản chỉnh sửa của rất nhiều các bản văn cũ và mới, bao gồm Giáo lý Kinh điển của truyền thống Nyingma (Nyingma Kama), một sự đầu tư lớn mà ngài bắt đầu ở tuổi 74. Thư viện riêng của ngài chứa đựng một bộ sưu tập lớn nhất các bản thảo và sách quý giá bên ngoài Tây Tạng.

Sau khi rời khỏi Tây Tạng, đầu tiên ngài định cư ở Kalimpong, Ấn Độ, và sau đó là Kathmandu, Nepal. Đã có thời điểm dường như có sự đe dọa về việc biến mất nền văn hóa, ngài đã đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi văn hóa Tây Tạng trong cộng đồng lưu vong, thông qua cả giáo lý và các trước tác. Ngài đã thành lập các cộng đồng hành giả quan trọng ở Ấn Độ và Nepal, như là Zangdok Palri ở Kalimoing, Dudal Rapten Ling ở Orissa và các tu viện ở Tsopema và Boudhanath. Ngài khuyến khích mạnh mẽ sự nghiên cứu truyền thống Nyingma ở Học viện Tây Tạng nghiên cứu cao cấp ở Sarnath, và tiếp tục giảng dạy theo truyền thống terma của riêng ngài, cũng như ban rất nhiều các quán đảnh và trao truyền quan trọng, bao gồm Nyingma Kama, Nyingma Tantra [Mật điển Nyingma] và Kho tàng Terma quý báu (Rinchen Terdzo).

Khi Dudjom Rinpoche 8 tuổi, ngài bắt đầu học cuốn Bodhicharyavatara [Nhập Bồ-đề hành luận] của ngài Shantideva với vị thầy của ngài, Đức Orgyen Chogyur Gyatso, một đệ tử của Đức Patrul Rinpoche. Khi các ngài hoàn thành chương đầu tiên, vị thầy cho ngài một vỏ ốc và bảo ngài thổi nó về bốn phương. Âm thanh đến phương Đông và Bắc khá ngắn, phương Nam dài và Tây thì còn dài hơn. Điều này ám chỉ đến nơi các hoạt động của ngài sẽ hiệu quả nhất sau đó. Kham, một tỉnh ở miền Đông Tây Tạng, là nơi sinh ra của đức Dudjom Lingpa, người đã hoạt động tích cực ở vùng đó. Ở miền Nam, trong khắp vùng Hi Mã Lạp Sơn ở Bhutan, Sikkim, Nepal, Ladakh, ngài Dudjom Rinpoche có hàng ngàn đệ tử; vào một dịp khi ngài ban các giáo lý ở Kathmandu, với ý định chỉ giành cho vài Lama, từ 25 đến 30 ngàn các đệ tử đã đến từ khắp Ấn Độ và vùng Hi Mã Lạp Sơn.

Trong mười năm cuối cùng, dù sức khỏe giảm dần theo thời gian, ngài vẫn giành nhiều thời gian cho việc giảng dạy ở phương Tây, nơi ngài đã thành công trong việc thiết lập truyền thống Nyingma với sự thích thú đang phát triển của những người ở đây. Ngài thành lập rất nhiều trung tập chính bao gồm, Dorje Nyingpo và Orgyen Samye Choling ở Pháp, Yeshe Nyingpo, Urgyen Cho Dzong và nhiều trung tâm khác ở Mỹ. Trong giai đoạn lịch sử này, ngài đã không ngừng ban các giáo lýquán đảnh, dưới sự chỉ dạy của ngài, rất nhiều học trò phương Tây đã bắt đầu nhập thất lâu dài. Dudjom Rinpoche đã đến châu Á, và ở Hồng Kông, ngài cũng có rất nhiều đệ tử, với một trung tâm phát triển nơi ngài đến thăm ba lần.

Vào các năm 1972, 1976 và 1979, ngài đến thăm Luân Đôn theo lời thình mời của Sogyal Rinpoche, người đã đi cùng ngài trong các chuyến viếng thăm châu Âu như là người thông dịch và thị giả. Năm 1979, ngài giành tháng Năm ở trung tâm Dzogchen Orgyen Choling ở miền Tây Bắc Luân Đôn, sau này trở thành Rigpa. Ngài ban các buổi Pháp thoại cộng đồng, các quán đảnhgiáo lýtrung tâm Luân Đôn và các chỉ dẫn Dzogchen đặc biệt cho các nhóm nhỏ. Chính trong thời điểm này, một bộ phim độc đáo dài 16 phút được làm về ngài khi giảng dạy thực hành thiền định.

Các năm sau đó, Đức Dudjom Rinpoche xây dựng một số trung tâm nhập thất mùa hè ở Urgyen Samye Cholong ở Pháp. Cuối cùng, “Kẻ lang thang, Dudjom”, như rất nhiều lần ngài dùng để nói về mình, đã định cư ở vùng Dordogne, Pháp và ở đây vào tháng Tám, 1984, ngài ban các giáo lý cộng đồng rộng lớn cuối cùng.

Không nghi ngờ gì, Đức Dudjom Rinpoche là một đạo sư hoàn toàn chứng ngộ, tuy nhiên, mỗi ngày ngài vẫn dạy trước lúc bình minh để thực hành; mỗi buổi sáng ngài cầu nguyện cho tất thảy những ai đã quy y với ngài và buổi tối ngài cầu nguyện cho những người đã khuất. Ngài không ngừng cầu nguyện cho tất cả những người đã gặp ngài, nghe ngài nói và có liên hệ với ngài hay thậm chí là nghĩ về ngài có thể thoát khỏi khổ đau. Ngài luôn làm cho mình có thể được tiếp cận bởi mọi người từ mọi giai cấp, và bất kỳ ai may mắn gặp ngài chắc chắn sẽ cảm động vì sự ấm áp, giản đơn và khướu hài hước của ngài, cũng như họ đều kính phục bởi sự hiện diện, trí tuệ sâu sắc và việc nghiên cứu rộng lớn của ngài.

 

Việt dịch: Hạnh Phúc – Nhóm Thuận Duyên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25641)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37864)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19580)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18661)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20092)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9496)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14366)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35560)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10651)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19696)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23196)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13357)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10743)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20210)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10597)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9955)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14870)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17650)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17593)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31157)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25744)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13976)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17501)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10971)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12287)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10464)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12265)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11755)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9611)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12350)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9952)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9755)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12028)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14412)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9898)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10966)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14081)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15202)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13035)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23074)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23983)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12565)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15421)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17772)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15046)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16546)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16088)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17634)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11584)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17822)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10776)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11320)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12075)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11035)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36402)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8957)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9672)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34705)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10238)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10467)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12196)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13629)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14650)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9144)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24801)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11631)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10310)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15935)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15564)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14514)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12997)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12441)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14573)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18349)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9565)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18511)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18580)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19011)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18829)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11827)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13335)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47977)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11062)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13545)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13031)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11057)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12548)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11046)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31765)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11659)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant