Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ý nghĩa giải thoát trong bảy bước hoa sen

24 Tháng Tư 201200:00(Xem: 17586)
Ý nghĩa giải thoát trong bảy bước hoa sen
Ý NGHĨA GIẢI THOÁT
TRONG BẢY BƯỚC HOA SEN


blankLời nói đầu:

Thật chẳng có gì mỉa mai hơn khi giới thiệu một vị thầy đã nhìn rõ cái giả tướng, hư vọng của đời sống và truyền trao cho đời những giáo pháp từ đơn giản, dễ hiểu, lên đến những thâm sâu, uyên áo bằng những lời chỉ dạy có giải đáp rõ ràng, mà lại được giới thiệu, bắt đầu bằng một câu chuyện thần thoại, hoang đường, có đầu mà không có kết: Một hài nhi vừa mới ra đời đã vươn dạy, đi đứng quen thuộc, tuyên bố lời dị thường, rồi sau đó không lẽ lại rùng mình ngã trở lại vào vòng tay nâng đỡ của thường nhân? hay là gì khác (chẳng thấy kể ra)? hay chỉ tan vào hư ảo như lúc nó xuất hiện?

Đức Thích Ca nếu có dịp trở lại ghé thăm thế giới của chúng ta, chắc ngài cũng phải quở: “Đạo của ta là đạo của sự thật, đạo của trí tuệ, thế mà các ông không thấy sự giới thiệu của các ông khởi đầu về ta là hư ảo, là thần thoại như vậy chẳng phải là mâu thuẫn lắm sao?”

Nay với khung cảnh tiến bộ, hiện đại của xã hội, cộng đồng, trình độ của các Phật tử đòi hỏi phải giải thích các giáo pháp của Phật theo chiều hướng có quy luật và duy lý, ta nên xem tất cả các giải thích thần thoại về Đức Phật như là một loại lịch sử bên lề, thích hợp với thời đạicon người còn lo ngại bóng tối và hứng thú với những chuyện dị thường, thì sự trưng dẫn chuyện tích phải cung ứng những giá trị đại loại như vậy để tồn tại, thích hợp và phát triển trong khung cảnh đó. Vậy nay đã đến lúc chúng ta phải có bổn phận tách biệt vị thầy của trí tuệ ra khỏi những chuyện hoang đường, có đầu mà chẳng có kết như xưa đã từng làm, bằng cách giải thích hình cảnh bẩy bước hoa sen một cách hợp lý, hầu mang lại cho nó một giá trị mô phạm thích hợp, và xứng đáng làm biểu tượng đẹp đẽ ngay nơi tiền diện của các chùa. Song song với việc biến nó thành một trình tự theo đúng với quy luật nhân quả: Ai gieo một chủng tử Phật Pháp nơi đất tâm là đã thành một vị tiểu Phật vừa mới ra đời (cũng đồng nghĩa là thành một Phật tử), sau đó tin sâu, theo học một cách chuyên cần, rồi sau cùng cũng sẽ đạt được quả Phật (cái ta giải thoát), biến cái ta vô minh, mờ tối khi xưa trở thành một cái ta quý giá, trên trời dưới đất không có gì quý bằng.

***

Mỗi năm gần đến ngày Phật Đản, trên mạng lại xuất hiện một số bài viết về đề tài này nhằm giới thiệu Đức Phật và nhân đó quảng bá Phật Pháp, tùy cái “thấy” khác nhau của người viết. Tựu trung tất cả đều dựa trên những chuyện tích cũ của Đức Phật là ngài mới sinh ra đã trỗi dậy, đứng và đi trên bảy hoa sen hiện ra trước mặt, dừng ở hoa sen thứ bảy, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và tuyên bố lời dị thường.

Chấp nhậnlướt qua sự giới thiệu thần thoại này với sự dễ dãi, thì ngay sau đó lại đối mặt với nhiều mâu thuẫn hiển nhiên, dẫn đến bế tắc như nêu trên trong “Lời nói đầu” mà ta không cần dông dài liệt kê ra đây.

Với những mục đích trên đây, phật tử Ngẫu Hồ xin được trở lại đề tài, với sự giải thích cẩn trọng hơn về thức thứ bảy và thức thứ tám đã dùng để liên kết bảy bước hoa sen trong dịp kính mừng Phật Đản 2556, nhằm vào tháng tư 2012 dương lịch:

  1. Nhằm đưa Đức Thích Ca ra khỏi sự gán ghép, khiên cưỡng không cần thiết, và chấm dứt vĩnh viễn sự liên kết ngài với khởi đầu bằng một chuyện huyễn hoặc, mơ hồ, vì ngài đã và mãi mãi là một bậc thầy về trí tuệ của nhân loại.
  2. Sự hiểu đúng giá trị, ý nghĩa của câu chuyện bảy bước hoa sen, rồi phổ biến nó đến những Phật tử chưa hiểu là đóng góp một pháp lành vào điều dạy của Đức Thích Ca “Theo ta mà không hiểu ta là hủy báng ta”.
  3. Nhằm đề phòng những sự hiểu biết sai lạc, sẽ dẫn đến biến tấu, hạ thấp giá trị của chánh pháp.
  4. Nhằm tạo thiện cảm, tâm phục cho những người ở ngoài văn hóa Phật giáo, trong ngay lần tiếp xúc đầu tiên với Phật giáo, đồng thời giúp cho mọi người dù ở trong hay ở ngoài văn hóa Phật Giáo khi nhìn thấy hình cảnh của vị tiểu Phật đứng trên hoa sen, thì ai ai cũng thọ hiểu trong sự hoan hỉ.

Biết bao trang sách biện giải, biết bao lý luận tỷ giảo để sau cùng cũng để chỉ ra cái tối hậu giải thoát này, vậy mà nó được gói ghém trọn vẹn trong hình cảnh bảy bước hoa sen mà ta lại đem giải thích nó sai hẳn với giá trị thật của nó, cùng lúc biến Đức Thích Ca thành một nhi thần mới sinh, xuất xuất, nhập nhập, giống như trong một chuyện đồng bóng, nhập hồn, xuất hồn tầm thường thì thật là đau lòng.

Sau đây là phần chi tiết:

Một người bất kể ai, khuynh hướng nào, tuổi tác bao nhiêu, khi được tiếp xúc với Phật Pháp, bỗng dưng bùng vỡ một cái “thấy”, thì ngay đó, mình trở thành một vị tiểu Phật vừa mới sinh ra đời. Hàm nghĩa một chủng tử Phật vừa mới được gieo nơi đất tâm của mình (tức thức thứ tám hay còn gọi là A Lai Da thức, hay còn gọi là ngã thức). Thành một vị tiểu Phật vừa mới ra đời, cũng đồng nghĩa là thành một Phật tử sẽ quyết tâm đi tìm hiểu thêm về giáo pháp.

Theo thiển ý, đây là một giải thích mang tính chiêu dụ rất trang trọng, rất tâm lý. Người nghe được ví mình là một vị tiểu Phật sẽ làm cho họ phấn chấn, hãnh diện, tuy thế, cũng nên giải thích sau đó, là thành một vị tiểu Phật không có nghĩa là đã thành đạt được quả vị Phật ngay. Tiểu Phật được dụ cho một mầm hạt vừa đã được gieo trồng và phải được chăm sóc một cách đúng mức, kỹ lưỡng, thì sau đó, hạt mầm mới nảy lên thành cây (cây Phật) được.

Trở lại, tại sao tôi lại nhấn mạnh đến sự bùng vỡ một cái thấy là vì muốn ám chỉ một cái thấy gây kinh ngạc, một cái thấy chưa bao giờ mình tiếp xúc được từ trước đến giờ, nhờ đó mà sau sẽ đem đến sự chuyển hóa nội tâm, biến cái tâm lang thang, không định hướng trước đây của ta, nay thành một khuynh hướng rõ nét: khuynh hướng Phật tử và ngang đây ta trở thành một Phật tử, có niềm tin sâu vào Phật pháp.

Sự chăm sóc mầm Phật để nên cây là dụ cho công lao tìm học một cách nghiêm túc các pháp Phật, sự lớn lên dần, vững chãi của cây với thời gian dụ cho sự thấm nhập các pháp cao hơn (chiều cao của cây và sự đâm rễ sâu hơn). Cây càng cao, rễ càng sâu, tư duy Phật pháp càng trưởng thành, dần dần hoa sen đầu tiên đã bắt đầu ló dạng.

Đức Thích Ca đã dùng hoa sen để biểu trưng cuộc sống và giáo lý của ngài (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa), vì thế, hoa sen thường được dùng trong các chuyện tích của Phật giáo, ám chỉ đặc biệt của sự không nhiễm ô, vì hoa sen tuy xuất hiệntrưởng thành trong bùn tanh tạp chất, vẫn đứng thẳng lên và tỏa hương thơm tinh khiết.

Bùn tanh tạp chất là dụ cho đời thường, trần gian; hoa sen đứng thẳng lên từ bùn, dụ cho hình ảnh một hành giả Phật tử sống trong đó, mà không bị ảnh hưởng, lôi cuốn, trì kéo bởi những cám dỗ, lậu uẩn, mà vẫn hướng đến giải thoát cao thượng.

Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát. Đây là lời giảng khẳng định của Đức Thích Ca trong kinh Lăng Nghiêm cho ngài A Nan. Các đạo hữu Phật tử có thể tìm thấy trên các website của Phật giáo hay ngay trên Thư Viện Hoa Sen cũng có đầy đủ.

Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý và mạt na thức, đã được thanh sạch, tượng trưng cho bảy hoa sen thơm ngát. Đứng và đi được trên bảy hoa sen, dụ cho sự làm chủ được các thức tình này, tức là giải thoát rốt ráo, trọn vẹn. Việc đứng trên thức thứ bảy mới tuyên bố lời chung kết là được dụ cho sự sạch hết hoàn toàn các lậu uẩn vi tế, tiềm ẩn sâu xa nơi tâm thức, vì thức thứ bẩy nằm sâu hơn ý thức như sự giải thích dưới đây. Khi bẩy thức được giải thoát, thì thức thứ tám là ngã thức (tức là A Lai Da thức) cũng được giải thoát thành hoa sen thứ tám, vô hình, vô tướng. Đây cũng chính là Chân Ngã tôn quý nhất trần gian, được tượng trưng bởi câu:

blankTrên trời, dưới đất, chỉ có ta (ngã) là tôn quý.”

Dịch từ câu:

Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”

Ta (ngã) trong đây, chính là Chân Ngã, chính là Phật Tánh của mỗi hành giả Phật tử sau khi đã “xong việc nhàn ca”.

Tóm lại, khởi đi từ một chủng tử Phật, thành một vị tiểu Phật mới ra đời, công phu kiên cố, để sau cùng đạt được quả Phật, thì cái ta trong lời tuyên bố chung kết nọ mới có ý nghĩa là cái Ta giải thoát (Phật tánh). Đó chính là cái mục tiêu tối hậu của tất cả các hành gỉa tu theo Phật nhắm đến.

Vì là Phật tánh, nên trên trời, dưới đất mới không gì quý bằng. Ý nghĩa này đã thật rõ ràng.

Sau đây, tôi xin được bổ túc một cách tóm tắt về thức thứ bảy và thức thứ tám. Đây là hai thức nằm sâu hơn ý thức, nên hơi khó thấy. Xin được dùng 2 thí dụ làm đơn cử có thể nêu lên được hai thức này:

Thí dụ 1: Anh A đã thay xong quần áo để sẵn sàng đi làm, anh thấy trên bàn có chùm chìa khóa, anh vơ lấy, sau đó, anh đi tìm cái cặp da, ra tới cửa, tính xỏ chân vào giày, nhưng lại nhớ tới chưa lấy chìa khóa, anh hốt hoảng đi tìm, vì do hốt hoảng phóng chiếu chế ngự trên ý thức (thức thứ sáu) nên quên là mình đang cầm chùm chìa khóa trong tay, trong đầu lúc đó chỉ nghĩ phải đi tìm chìa khóa, mắt dáo dác nhìn khắp nơi trong sự căng thẳng và hoảng hốt, sợ trễ giờ đi làm.

Trong trường hợp này, thức thứ sáu nhớ đến chùm chìa khóa mà hoảng hốt đi tìm. Thức thứ bẩy “chạy” đây đó giúp thức thứ sáu đi tìm chùm chìa khóa (thức thứ tám). Bạn nghĩ sao? Khi nào thì anh A tìm thấy chùm chìa khóa? Câu trả lời là, chỉ khi nào anh A ngưng đi tìm, thì nhìn thấy ngay chùm chìa khóa đang trong tay mình.

Vậy khi hỏi thức thứ 8 nằm ở đâu, thì cũng tương tự như ta đang đóng diễn cái hoạt cảnh trên đây, cái ta đang hỏi, nó chính là cái đang là. Chính cái sinh diệt, cái tâm phan duyên, cái tâm chạy theo sống trong trần cảnh, còn được gọi là ngã thức, hay A Lại Da thức, nó chẳng ở trong, nó chẳng ở ngoài. Khi ta sinh ra một niệm ưa thích, thì nó chính là cái ưa thích đó, và ngược lại, khi ta chê bai, thì nó chính là cái chê bai đó. Nó theo ta và xuất hiện cùng tất cả nơi pháp giới mà ta có mặt cho đến ngày chung cuộc của ta tức là khi ta nhắm mắt lìa đời, thì nó trở thành nghiệp thức đưa ta về với duyên mới!

Thí dụ 2: Một người nhận được một cú điện thoại và họ dùng điện thoại di động nói chuyện, đang trong câu chuyện, họ nhớ là cần phải đi chợ, và theo thói quen, khi ra bên ngoài, là phải mang theo điện thoại, nên vừa nói chuyện, vừa đi tìm điện thoại để mang theo, trong trường hợp này, thức thứ sáu vừa để ý tới cuộc nói chuyện, vừa nghĩ tới việc phải tìm điện thoại, thức thứ bảy “đi” khắp nơi trong nhà để giúp thức thứ sáu tìm điện thoại (thức thứ tám).

Chuyện cưỡi trâu đi tìm trâu cũng tương tự chuyện cầm chìa khóa mà đi tìm chìa khóa hoặc chuyện cầm điện thoại mà đi tìm điện thoại. Bạn nghĩ sao? Khi nào thì tìm thấy chìa khóa, điện thoại? Chỉ khi nào chấm dứt sự đi tìm, thì người đó mới nhận ra rằng, chùm chìa khóa, chiếc điện thoại mình đang cần tìm chính là đang ngay trong tay mình.

Thức thứ bảy khi được giải thích đơn lẻ sẽ dễ thấy hơn. Thí dụ như lúc nào các bạn có dịp phải đếm một số lớn lên đến vài trăm, như lúc tập thể dục, dịch cân kinh, vảy tay chẳng hạn. Lúc đếm được tới lúc nào đó, đầu bỗng nghĩ miên man sang một chuyện khác, một lát sau quay lại, vẫn thấy sự đếm số không bị lộn xộn, nghĩa là vẫn theo thứ tự, thì đó là nhờ mạt na thức hoạt động thay cho ý thức. Để ý vài lần, bạn sẽ thấy mạt na thức thể hiện rõ hơn.

Riêng thức thứ 8, khi còn phan duyên, còn sinh diệt thì gọi là ngã thức, nhưng khi đã được sạch rỗng, chấm dứt chạy theo trần cảnh, chấm dứt sinh diệt thì gọi là Chân Ngã, hay Phật Tánh cũng thế.

Tùy lúc, tùy nơi mà gọi nó là gì.

Kết luận

Phật tử Ngẫu Hồ tôi chỉ mong giải thích câu chuyện bảy bước hoa sen bằng Phật pháp, hy vọng nêu lên được một quy luật nhân quả rằng, ai gieo một chủng tử Phật, với một lòng tin sâu, sau đó tìm học và hành Phật pháp, thì sau cùng sẽ được một quả vị Phật, không sai chạy, và sự đính chính rõ rệt là vị tiểu Phật lúc sinh ra đời đi bảy bước không nhất thiết là Đức Thích Ca Mâu Ni. Sở dĩ, tôi phải nhắc đi, nhắc lại hai điều này, vì các chùa thường hay đặt hình cảnh này ở ngay mặt tiền, mà nếu không giải thích khế hợp, hoặc lảng tránh sự giải thích, ý nghĩa câu chuyện khi được hỏi đến, thì có khi biến cuộc tao ngộ đầu tiên thành một buổi trà đàm ngắn ngủi. Vậy, điều cẩn thận này, nếu được đánh giáquá đáng thì xin quý vị Phật tử cho tôi được xin lỗi (3 lần).

Nếu các bạn đồng thuận sự giải thích như trên, thì xin được phổ biến khi thuận duyên.

Ngoài mục đích đơn giản, rõ rệt nêu trên trong bài, tôi không mong đề tài dắt đến sự tranh luận đúng sai của các pháp Phật. Đa tạ.

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.

Phật tử Ngẫu Hồ.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22897)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13953)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12900)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54953)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9060)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14344)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14084)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13811)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19783)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18096)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19101)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19044)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20192)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31381)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15848)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14612)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35795)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20950)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21472)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34165)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19404)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18821)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22832)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19738)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34308)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54358)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37551)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21043)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17797)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49478)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27259)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20169)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18812)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16253)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17796)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20851)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17270)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14388)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16285)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15926)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21858)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15008)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13408)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15305)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14909)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13274)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27315)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13114)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16128)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12326)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12806)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13113)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21508)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11205)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14940)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46044)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22321)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14378)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12519)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43704)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56808)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13566)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28877)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33171)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38251)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15328)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31100)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40211)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43245)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46470)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14317)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant