Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh & chứng thành đạo quả

01 Tháng Năm 201200:00(Xem: 30546)
Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh & chứng thành đạo quả

luocsuducphat-thichquangdaoSáng lập đạo Phậtđức Bổn Thích Ca Mâu Ni, Ngài Đản sanh vào ngày trăng tròn tháng Vesak Ấn Độ, tức là tháng tư theo lịch Tàu. Vào năm 624 trước Tây lịch, ở xứ Trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal, ven sườn núi Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi hùng vĩ cao nhất thế giới. Ngài là thái tử Tất Đạt Đa, tên Ngài có nghĩa là mọi sở nguyện đều thành tựu, Ngài đi tu nên người đời tôn xưng là Mâu Ni, dòng họ Cù Đàm thuộc chi phái Thích Ca. Phụ vương Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da là những người có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân.

Sử liệu ghi chép rằng, đêm Ấn Độ bầu trời trong xanh gió mát, hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ hư không giáng xuống rồi từ đấy hoàng hậu thọ thai thái tử. Sau giấc mộng, Vua và Hoàng hậu phát nguyện trai giới tuyệt dục. Gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa, đoàn tỳ nữ theo hầu Hoàng hậu dạo cảnh Lâm Tỳ Ni vào một buổi minh. Đến gốc cây Vô Ưu thấy trên cành có một đóa hoa nở đẹp, Hoàng hậu đưa tay hái hoa thì chính lúc đó Đản sanh thái tử. Kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh, phẩm Thụy Ứng ghi chép rằng: “Sau khi lọt lòng mẹ, Thái tử đứng dậy nhìn sáu phương và nói: Phương Đông, Ta là bậc thầy dẫn đường tối thượng. Phương Nam, Ta là đám ruộng phước tốt lành. Phương Tây, Ta thị hiện cõi đời này là lần cuối. Phương Bắc, Ta thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong đời này. Phương dưới, Ta ra đời là để hàng phục chúng ma. Phương trên, Ta là nơi nương tựa của trời người. Nhìn sáu phương xong, Ngài đi bảy bước rồi đứng lại, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất rồi cất tiếng dõng dạc: ‘Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn’; Có nghĩa là trên trời dưới trời chỉ có cái ta chân thật là đáng quý. Nói xong, thái tử trở lại như mọi đứa trẻ bình thường”. Trong giờ phút này, trời quang mây tận, có mưa hoa muôn sắc tỏa ngát hương thơm, đại địa chấn động. Trên hư không chư thiên trỗi nhạc đón chào. Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp nên tiên A Tư Đà xem tướng rồi cho biết, nếu thái tử ở đời thì làm một bậc Chuyển luân thánh vương, nếu đi tu sẽ thành bậc Đại giác.

Thái tử sanh được bảy ngày thì Hoàng hậu Ma Da trút xác phàm sanh về cõi trời Đao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho bà di mẫuMa Ha Bà Xa Bà Đề nuôi dưỡng. Lớn lên thái tử được Vua cha cho theo học và thông hiểu các môn học Ngũ minh của thế gian. Vâng lời vua cha, Thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La sau một cuộc chiến thắng so tài văn võ và sinh được một hoàng tử tên La Hầu La. Ngài được Vua cha và triều thần nuông chiều cho hưởng thụ mọi dục lạcthế gian ham muốn như xây cung điện thích hợp bốn mùa cho Thái tử ở, hàng trăm cung phi mỹ nữ hầu hạ xướng hát đàn ca. Tuy sống trong nhung lụa êm ấm, vợ đẹp con thơ, ngai vàng điện ngọc, quyền quý cao sang nhưng Thái tử luôn luôn suy tưởng, không bằng lòng với hạnh phúc giả dối hiện tại. Và sau khi du hành ra bốn cửa thành xem dân chúng sinh hoạt, Ngài chứng kiến và thấm thía những nỗi khổ đau của chúng sanh và cái khổ sanh – già – bệnh – chết. Từ đó, Thái tử quyết chí xuất gia tìm con đường giải thoát. Đêm mồng 8 tháng 2 âm lịch, sau một cuộc ca vui múa hát kéo dài đầy thấm mệt, Thái tử vào phòng nghỉ và thiếp đi một hồi lâu, bỗng Ngài hốt nhiên tỉnh dậy, đêm vắng lặng, mọi người đang chìm trong giấc ngủ say, trên nét mặt các ca nhi vũ nữ, phấn son nhuễ nhoại, mùi hôi xú uế. Kẻ si mê sống trong chốn này như voi bị sa lầy, như thiêu thân đâm đầu vào lửa, bao nhiêu căn lành sẽ rơi rụng hết, Thái tử quán sát hồi lâu, ngài chán ngán ngắm cảnh ô trược hiện nguyên hình. Ngài vào phòng nhìn mặt vợ con lần cuối xong rồi đến chuồng ngựa, bảo người tôi trung là Sa Nặc, thắng ngựa Kiền Trắc vượt hoàng thành ra đi trong đêm mồng 8 tháng 2 âm lịch. Sao mai đã lên, mặt nước sông A Nô Ma rào rào dậy sóng, Thái tử gò mạnh dây cương nhảy xuống ngựa, con đường mòn đến đây dứt nẻo, ngài trao dây cương ngựa cho Sa Nặc, tay cầm kiếm cắt tóc, cỡi bỏ áo hoàng bào, ngài dặn bảo Sa Nặc đem về triều tâu trình vua cha. Từ đây, một cuộc đời mới bắt đầu, một cuộc chuyển mình toàn diện đang lớp lớp xảy ra đưa đến một cuộc thoát xác vĩ đại bi hùng nhất lịch sử con ngườithái tử sẽ thực hiện được 6 năm sau.

 phatsu-20

Đức Thế Tôn thành đạo

Thái tử đến tìm hiểu, học đạo với một vị tiên tên là A La Lam, Thái tử rất hoan hỷ vì A La Lam quả tình là một nhà thông thái, Thái tử chỉ học một thời gian ngắn, Ngài thâu nhiếp hết các yếu pháp của A La Lam mà vẫn chưa thỏa mãn, chưa tìm ra con đường sáng tỏ. Trên bước đường tìm đạo, Thái tử đã gặp nhiều vị đạo sĩ khác nhưng không có vị nào làm cho Thái tử vừa lòng. Sau cùng, Thái tử đến vườn Lộc Uyển tu khổ hạnh với năm ông Kiều Trần Như. Ngài ép xác tu luyện suốt sáu năm trời đến nỗi thân khô sức kiệt nhưng vẫn vô hiệu. Một hôm Thái tử bổng nghĩ rằng, đại sự giải thoát đâu cần bắt buộc nhục thể phải chịu khổ, đói ăn, khát uống là việc dĩ nhiên. Điều cần thiết là không nên để ý đến nhục thể mà nên quên nó đi. Vì nếu không quên nó thì tâm bị ràng buộc, mà tâm bị ràng buộc thì uế chướng không thể tiêu trừ, uế chướng không thể tiêu trừ thì làm sao tâm được thanh tịnh, được giải thoát. Nghĩ thế, Thái tử rời chỗ ngồi, xuống sông Ni Liên Thiền tắm gội sạch sẽ, đến gốc cây Bồ đề, Thái tử lót cỏ non làm chiếu ngồi rồi thọ dụng bát sữa của nàng Tu Xà Đề dâng cúng. Thể lực phục hồi, Ngài ngồi điềm tĩnh phát đại thệ nguyện, “nếu phen này không tìm ra chánh đạo để giải thoát sanh tử, thì thà có thịt nát xương tan, ta cũng không rời khỏi nơi này”. Thái tử thiền định suốt bốn mươi chín ngày đêm, Ngài đã thành Đạo.

Sử liệu ghi chép rằng, trước khi thành đạo, một trận giặc lòng khủng khiếp đã xảy ra, Thái tử bị ma vương quấy phá dữ dội, cả ma trong lẫn ma ngoài. Ma trong là phiền não vọng tưởng, ma ngoài là thân sắc, uy lực. Các loài ma này đã từng khống chế thế gian mà từ ngàn xưa chưa ai khắc phục nổi. Sau khi hàng phục ma vương, Thái tử bỗng thấy lòng mình tuyệt đối vắng lặng, tâm hồn rực sáng, Ngài nhập đại định an trụ trong cảnh giới vô niệm, vô tưởng, một thế giới sáng ngời, trong đó hiện cả một dòng sanh tử lưu chuyển của chính mình. Khi làm cha, khi làm con, khi làm thầy, khi làm tớ, khi khóc, khi cười, lúc ở địa phương này, lúc sanh ở nơi khác, không nhất định, không thường còn. Trong dòng sanh tử ấy, lô nhô lúc nhúc còn có vô số chúng sanh khác khi bạn, khi thù, tất cả đều bị trói buộc bởi quan hệ nhân duyên sanh khởi. Chính quan hệ nhân duyên này mê hoặcgiam hãm chúng sanh cùng năm mãn kiếp trong ái dục lợi danh vô phương giải thoát. Nhìn cảnh oán ân ân oán ấy, Thái tử thấy thương chúng sanh vô hạn, trong cảnh giới bình đẳng ấy, sanh và tử hiện ra không hai, sanh là đầu mối của tử và tử cũng lại là đầu mối của sanh, sanh tử tử sanh tiếp nhau không cùng tận. Mọi phiền não tiêu tan, lòng tràn ngập hoan hỷ, Thái tử thấy xung quanh Ngài không còn gì đáng gọi là không gian hay thời gian nữa, mọi phân biệt đều tan biến. Cảnh giới này không phải là giấc mơ mà là cảnh giới thực bất khả tư nghị, chính lúc đó Ngài hoàn thành con đường Giác ngộ, chứng quả Vô thượng Bồ đề. Ngài đã thành Phật.

Sau khi thành đạo, Phật liền đến hóa độ năm người bạn trước kia đồng tu khổ hạnh với Ngài tại vườn Lộc Uyển. Phật dạy: “Này Kiều Trần Như! Hình mà khổ lắm thì tâm dễ rối loạn, thân mà vui lắm thì ý dễ buông lung. Chạy theo dục lạc hay ép xác khổ hạnh đều chưa phải là lối tu chân chính. Này Kiều Trần Như! Ta đã xa lìa khổ hạnh cũng như đoạn trừ dục lạc, Ta tu theo Trung đạo nên đã chứng quả Vô thượng Bồ đề. Bây giờ ta là một vị Phật, một bậc đã thoát khỏi sanh tử khổ đau. Này Kiều Trần Như! Đây là bốn sự thật mà Ta đã chứng ngộ được mệnh danh là Tứ thánh đế. Thứ nhất Khổ đế, những sự thật về đau khổ mà toàn thế gian đang ngậm chịu. Sanh khổ là cái khổ bị bức bách trong lúc thai nghén, đau đớn trong lúc lọt lòng mẹ và vất vả khổ cực vì mưu sinh. Lão khổ là cái khổ bởi thân thể hao mòn, tinh thần suy thoái. Bệnh khổ là cái khổ bị hành hạ thân xác do bịnh tật. Tử khổ là cái khổ trong giờ phút lâm chung, nghiệp lực giày xéo, thần thức rời khỏi xác thân, sự đau đớn này được ví như con rùa còn sống bị lột xác. Ái biệt ly khổ là cái khổ đang yêu thương nhau mà phải chia lìa. Cầu bất đắc khổ là cái khổ của sự tham cầu mà không được toái ý. Ngũ ấm sí thạnh khổ là những cái khổ do năm ấm biến động, bủa vây và giam hãm con người. Thứ hai Tập đế là các nguyên nhân gây ra đau khổ là do ái động, dục tưởng phát ra dục sự mà tạo nghiệp trầm luân. Thứ ba Diệt đế là dứt ái, đoạn dục không còn mảy may phiền não vi tế vô minh, thân tâm được định tĩnh, an lạc tự tại. Thứ tư Đạo đếthực hành Bát chánh đạo để đạt quả vị Niết bàn. Đó là Chánh tri kiến là thấy biết chơn chánh, Chánh tư duysuy nghĩ chơn chánh, Chánh Ngữlời nói chơn chánh, Chánh nghiệp là hành động chơn chánh, Chánh mạng là mưu sinh chơn chánh, Chánh tinh tấn là siêng năng chơn chánh, Chánh niệmnhiếp tâm chơn chánh, Chánh định là tâm tư định tĩnh. Này Kiều Trần Như! Tứ thánh đếnhư thật, Ta đã chứng nhập, tâm được tự tại, được giải thoát. Trưởng lão Kiều Trần Như nghe xong liền đắc quả A La Hán, bốn bị kia về sau cũng lần lượt đắc quả trở thành đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật. Bấy giờ trong thế gian mới có đủ ba ngôi báu, Phật là Phật bảo, Pháp Tứ đếPháp bảo, năm vị Tỳ kheoTăng bảo. Lần khai đạo đầu tiên này được gọi là Sơ chuyển pháp luân. Sau khi độ nhóm ông Kiều Trần Như xong, đức Phật đem ánh đạo vàng gieo rắc khắp xứ Ấn Độ, suốt bốn mươi lăm năm hoằng hóa, Ngài thẳng tay xóa bỏ mọi giai cấp nên đã quy hướng được mọi thành phần trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ trở về với đạo của Ngài như tôn giả Ưu Ba Lydâm nữ Ma Đăng Già vốn thuộc giai cấp Thủ đà la, về sau tu chứng quả A La Hántrường hợp của rất nhiều vị khác nữa. Ngài đã hàng phục được những tay cự phách của các giáo phái ngoại đạo trở về với chánh đạo và hướng thiện được những con người tàn ác như vua A Xà Thế và anh chàng Vô Não v.v… Ở đâu có ánh đạo vàng đến thì tà giáongoại đạo đều lui xa dần, cũng vì thế mà bên trong cũng có những kẻ hiếu danh ganh ghét như Đề Bà Đạt Đa mưu toan phản nghịch, bên ngoài làm cho các ngoại đạo tìm kế chống phá. Song rốt cuộc, họ phải nhượng bộ trước giáo lý viên dung và nhân cách vô thượng của Ngài. Đạo Bồ đề từ đấy đã ăn sâu gốc rễ và trở thành một tôn giáo chính của các nước lớn nhỏ tại Ấn Độ thời bấy giờ. Đức Phật sau khi tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, đến nay Ngài đã thọ 80 tuổi. sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo định luật vô thườngbiến đổi yếu già. Một hôm ngài gọi ông A Nan, người đệ tử hầu cận Ngài đến và dạy bảo: “A Nan! Hạnh nguyện Ta nay đã viên mãn như lời nguyện xưa. Nay Ta đã có một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử, có đủ bốn chúng đệ tử Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Trong đó nhiều vị có thể thay ta chuyển xe pháp và đạo ta cũng đã lan truyền khắp nơi. A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”. Năm ấy Ngài an cư tại rừng Ta La trong xứ Câu Ly cách thành Ba La Nại 120 dặm. Các đệ tử Ngài đi truyền giáo các nơi nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn đều kéo nhau về, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông. Trong giờ phút cuối cùng, Ngài đã độ cho ông Tu Bạt Đạt La, người đệ tử xuất gia sau cùng và thọ dụng bát cháo nấm của ông Thuần Đà dâng cúng. Các đệ tử của Ngài đã vây quanh đầy đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp ở xa chưa về kịp, Ngài hoan hỷ dặn dò phú chúc lần cuối: Này các đệ tử! Sau khi ta diệt độ, y bát của ta sẽ truyền lại cho ông Ma Ha Ca Diếp, các ngươi phải lấy Giới luật làm thầy, ở đầu kinh điển của Ta nên nêu bốn chữ ‘Như thị ngã văn’. Xá lợi chia ra làm ba phần, một phần cho thiên cung, một phần cho long cung và một phần chia cho tám vị quốc vương lớn ở Ấn Độ. Này các đệ tử! Các ngươi hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, các ngươi hãy lấy pháp của Ta làm đuốc, hãy theo pháp của Ta mà tự giải thoát, đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác ngoài các ngươi. Này các đệ tử! Các ngươi đừng nghe theo dục vọng mà quên lời ta dặn, mọi vật ở đời không có gì quý giá, thân thể rồi sẽ tan rã chỉ có Đạo ta là quý báu, chỉ có Chân lý đạo ta là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn lên để được giải thoát”. Sau khi dặn dò xong, ngài nhập đại định rồi vào Niết bàn. Lúc ấy nhằm ngày 15 tháng 2 âm lịch theo giáo sử Trung Hoa. Nhục thân Ngài được các đệ tử làm lễ trà tỳ tại chùa Thiền Quang ở thành Câu Ly. Tám vị quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tướng dũng đến chia xá lợi.

Đức Phật đã nhập Niết bàn nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn còn chiếu sáng rực trong tâm của mỗi chúng ta. Suốt tám mươi năm trời, Ngài đã hy sinh tất cả cuộc đời để hóa độ và dẫn dắt chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui giải thoát.

Lòng thương của đức Phật thật là vô lượng!

Ân đức của đức Phật thật là vô biên!

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23007)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14035)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12956)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55085)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9142)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14421)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14150)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14188)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13872)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36295)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19868)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18158)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19191)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19117)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20276)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17626)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31515)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15912)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14992)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14665)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46162)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35910)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21026)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21585)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23379)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34363)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19470)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18938)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22915)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20160)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18344)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19827)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19515)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33393)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34465)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54497)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37705)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21125)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17866)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63629)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17372)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49639)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27412)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20267)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23010)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18881)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16313)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17905)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20931)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17349)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14456)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16857)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16363)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15986)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17455)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21970)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15090)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13485)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14354)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15376)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14978)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12687)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13343)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27383)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12494)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13178)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14478)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16210)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12385)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15388)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12859)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12187)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13191)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21636)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11272)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22698)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15060)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14923)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46174)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22423)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14560)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12608)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18888)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14723)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43847)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56954)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13831)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47473)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13644)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14562)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28995)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33288)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38367)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15393)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31217)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12517)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40375)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43405)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46646)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14405)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant