Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh & chứng thành đạo quả

01 Tháng Năm 201200:00(Xem: 30514)
Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh & chứng thành đạo quả

luocsuducphat-thichquangdaoSáng lập đạo Phậtđức Bổn Thích Ca Mâu Ni, Ngài Đản sanh vào ngày trăng tròn tháng Vesak Ấn Độ, tức là tháng tư theo lịch Tàu. Vào năm 624 trước Tây lịch, ở xứ Trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal, ven sườn núi Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi hùng vĩ cao nhất thế giới. Ngài là thái tử Tất Đạt Đa, tên Ngài có nghĩa là mọi sở nguyện đều thành tựu, Ngài đi tu nên người đời tôn xưng là Mâu Ni, dòng họ Cù Đàm thuộc chi phái Thích Ca. Phụ vương Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da là những người có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân.

Sử liệu ghi chép rằng, đêm Ấn Độ bầu trời trong xanh gió mát, hoàng hậu Ma Da nằm mộng thấy voi trắng sáu ngà từ hư không giáng xuống rồi từ đấy hoàng hậu thọ thai thái tử. Sau giấc mộng, Vua và Hoàng hậu phát nguyện trai giới tuyệt dục. Gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa, đoàn tỳ nữ theo hầu Hoàng hậu dạo cảnh Lâm Tỳ Ni vào một buổi minh. Đến gốc cây Vô Ưu thấy trên cành có một đóa hoa nở đẹp, Hoàng hậu đưa tay hái hoa thì chính lúc đó Đản sanh thái tử. Kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh, phẩm Thụy Ứng ghi chép rằng: “Sau khi lọt lòng mẹ, Thái tử đứng dậy nhìn sáu phương và nói: Phương Đông, Ta là bậc thầy dẫn đường tối thượng. Phương Nam, Ta là đám ruộng phước tốt lành. Phương Tây, Ta thị hiện cõi đời này là lần cuối. Phương Bắc, Ta thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trong đời này. Phương dưới, Ta ra đời là để hàng phục chúng ma. Phương trên, Ta là nơi nương tựa của trời người. Nhìn sáu phương xong, Ngài đi bảy bước rồi đứng lại, tay chỉ lên trời, tay chỉ xuống đất rồi cất tiếng dõng dạc: ‘Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn’; Có nghĩa là trên trời dưới trời chỉ có cái ta chân thật là đáng quý. Nói xong, thái tử trở lại như mọi đứa trẻ bình thường”. Trong giờ phút này, trời quang mây tận, có mưa hoa muôn sắc tỏa ngát hương thơm, đại địa chấn động. Trên hư không chư thiên trỗi nhạc đón chào. Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp nên tiên A Tư Đà xem tướng rồi cho biết, nếu thái tử ở đời thì làm một bậc Chuyển luân thánh vương, nếu đi tu sẽ thành bậc Đại giác.

Thái tử sanh được bảy ngày thì Hoàng hậu Ma Da trút xác phàm sanh về cõi trời Đao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho bà di mẫuMa Ha Bà Xa Bà Đề nuôi dưỡng. Lớn lên thái tử được Vua cha cho theo học và thông hiểu các môn học Ngũ minh của thế gian. Vâng lời vua cha, Thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La sau một cuộc chiến thắng so tài văn võ và sinh được một hoàng tử tên La Hầu La. Ngài được Vua cha và triều thần nuông chiều cho hưởng thụ mọi dục lạcthế gian ham muốn như xây cung điện thích hợp bốn mùa cho Thái tử ở, hàng trăm cung phi mỹ nữ hầu hạ xướng hát đàn ca. Tuy sống trong nhung lụa êm ấm, vợ đẹp con thơ, ngai vàng điện ngọc, quyền quý cao sang nhưng Thái tử luôn luôn suy tưởng, không bằng lòng với hạnh phúc giả dối hiện tại. Và sau khi du hành ra bốn cửa thành xem dân chúng sinh hoạt, Ngài chứng kiến và thấm thía những nỗi khổ đau của chúng sanh và cái khổ sanh – già – bệnh – chết. Từ đó, Thái tử quyết chí xuất gia tìm con đường giải thoát. Đêm mồng 8 tháng 2 âm lịch, sau một cuộc ca vui múa hát kéo dài đầy thấm mệt, Thái tử vào phòng nghỉ và thiếp đi một hồi lâu, bỗng Ngài hốt nhiên tỉnh dậy, đêm vắng lặng, mọi người đang chìm trong giấc ngủ say, trên nét mặt các ca nhi vũ nữ, phấn son nhuễ nhoại, mùi hôi xú uế. Kẻ si mê sống trong chốn này như voi bị sa lầy, như thiêu thân đâm đầu vào lửa, bao nhiêu căn lành sẽ rơi rụng hết, Thái tử quán sát hồi lâu, ngài chán ngán ngắm cảnh ô trược hiện nguyên hình. Ngài vào phòng nhìn mặt vợ con lần cuối xong rồi đến chuồng ngựa, bảo người tôi trung là Sa Nặc, thắng ngựa Kiền Trắc vượt hoàng thành ra đi trong đêm mồng 8 tháng 2 âm lịch. Sao mai đã lên, mặt nước sông A Nô Ma rào rào dậy sóng, Thái tử gò mạnh dây cương nhảy xuống ngựa, con đường mòn đến đây dứt nẻo, ngài trao dây cương ngựa cho Sa Nặc, tay cầm kiếm cắt tóc, cỡi bỏ áo hoàng bào, ngài dặn bảo Sa Nặc đem về triều tâu trình vua cha. Từ đây, một cuộc đời mới bắt đầu, một cuộc chuyển mình toàn diện đang lớp lớp xảy ra đưa đến một cuộc thoát xác vĩ đại bi hùng nhất lịch sử con ngườithái tử sẽ thực hiện được 6 năm sau.

 phatsu-20

Đức Thế Tôn thành đạo

Thái tử đến tìm hiểu, học đạo với một vị tiên tên là A La Lam, Thái tử rất hoan hỷ vì A La Lam quả tình là một nhà thông thái, Thái tử chỉ học một thời gian ngắn, Ngài thâu nhiếp hết các yếu pháp của A La Lam mà vẫn chưa thỏa mãn, chưa tìm ra con đường sáng tỏ. Trên bước đường tìm đạo, Thái tử đã gặp nhiều vị đạo sĩ khác nhưng không có vị nào làm cho Thái tử vừa lòng. Sau cùng, Thái tử đến vườn Lộc Uyển tu khổ hạnh với năm ông Kiều Trần Như. Ngài ép xác tu luyện suốt sáu năm trời đến nỗi thân khô sức kiệt nhưng vẫn vô hiệu. Một hôm Thái tử bổng nghĩ rằng, đại sự giải thoát đâu cần bắt buộc nhục thể phải chịu khổ, đói ăn, khát uống là việc dĩ nhiên. Điều cần thiết là không nên để ý đến nhục thể mà nên quên nó đi. Vì nếu không quên nó thì tâm bị ràng buộc, mà tâm bị ràng buộc thì uế chướng không thể tiêu trừ, uế chướng không thể tiêu trừ thì làm sao tâm được thanh tịnh, được giải thoát. Nghĩ thế, Thái tử rời chỗ ngồi, xuống sông Ni Liên Thiền tắm gội sạch sẽ, đến gốc cây Bồ đề, Thái tử lót cỏ non làm chiếu ngồi rồi thọ dụng bát sữa của nàng Tu Xà Đề dâng cúng. Thể lực phục hồi, Ngài ngồi điềm tĩnh phát đại thệ nguyện, “nếu phen này không tìm ra chánh đạo để giải thoát sanh tử, thì thà có thịt nát xương tan, ta cũng không rời khỏi nơi này”. Thái tử thiền định suốt bốn mươi chín ngày đêm, Ngài đã thành Đạo.

Sử liệu ghi chép rằng, trước khi thành đạo, một trận giặc lòng khủng khiếp đã xảy ra, Thái tử bị ma vương quấy phá dữ dội, cả ma trong lẫn ma ngoài. Ma trong là phiền não vọng tưởng, ma ngoài là thân sắc, uy lực. Các loài ma này đã từng khống chế thế gian mà từ ngàn xưa chưa ai khắc phục nổi. Sau khi hàng phục ma vương, Thái tử bỗng thấy lòng mình tuyệt đối vắng lặng, tâm hồn rực sáng, Ngài nhập đại định an trụ trong cảnh giới vô niệm, vô tưởng, một thế giới sáng ngời, trong đó hiện cả một dòng sanh tử lưu chuyển của chính mình. Khi làm cha, khi làm con, khi làm thầy, khi làm tớ, khi khóc, khi cười, lúc ở địa phương này, lúc sanh ở nơi khác, không nhất định, không thường còn. Trong dòng sanh tử ấy, lô nhô lúc nhúc còn có vô số chúng sanh khác khi bạn, khi thù, tất cả đều bị trói buộc bởi quan hệ nhân duyên sanh khởi. Chính quan hệ nhân duyên này mê hoặcgiam hãm chúng sanh cùng năm mãn kiếp trong ái dục lợi danh vô phương giải thoát. Nhìn cảnh oán ân ân oán ấy, Thái tử thấy thương chúng sanh vô hạn, trong cảnh giới bình đẳng ấy, sanh và tử hiện ra không hai, sanh là đầu mối của tử và tử cũng lại là đầu mối của sanh, sanh tử tử sanh tiếp nhau không cùng tận. Mọi phiền não tiêu tan, lòng tràn ngập hoan hỷ, Thái tử thấy xung quanh Ngài không còn gì đáng gọi là không gian hay thời gian nữa, mọi phân biệt đều tan biến. Cảnh giới này không phải là giấc mơ mà là cảnh giới thực bất khả tư nghị, chính lúc đó Ngài hoàn thành con đường Giác ngộ, chứng quả Vô thượng Bồ đề. Ngài đã thành Phật.

Sau khi thành đạo, Phật liền đến hóa độ năm người bạn trước kia đồng tu khổ hạnh với Ngài tại vườn Lộc Uyển. Phật dạy: “Này Kiều Trần Như! Hình mà khổ lắm thì tâm dễ rối loạn, thân mà vui lắm thì ý dễ buông lung. Chạy theo dục lạc hay ép xác khổ hạnh đều chưa phải là lối tu chân chính. Này Kiều Trần Như! Ta đã xa lìa khổ hạnh cũng như đoạn trừ dục lạc, Ta tu theo Trung đạo nên đã chứng quả Vô thượng Bồ đề. Bây giờ ta là một vị Phật, một bậc đã thoát khỏi sanh tử khổ đau. Này Kiều Trần Như! Đây là bốn sự thật mà Ta đã chứng ngộ được mệnh danh là Tứ thánh đế. Thứ nhất Khổ đế, những sự thật về đau khổ mà toàn thế gian đang ngậm chịu. Sanh khổ là cái khổ bị bức bách trong lúc thai nghén, đau đớn trong lúc lọt lòng mẹ và vất vả khổ cực vì mưu sinh. Lão khổ là cái khổ bởi thân thể hao mòn, tinh thần suy thoái. Bệnh khổ là cái khổ bị hành hạ thân xác do bịnh tật. Tử khổ là cái khổ trong giờ phút lâm chung, nghiệp lực giày xéo, thần thức rời khỏi xác thân, sự đau đớn này được ví như con rùa còn sống bị lột xác. Ái biệt ly khổ là cái khổ đang yêu thương nhau mà phải chia lìa. Cầu bất đắc khổ là cái khổ của sự tham cầu mà không được toái ý. Ngũ ấm sí thạnh khổ là những cái khổ do năm ấm biến động, bủa vây và giam hãm con người. Thứ hai Tập đế là các nguyên nhân gây ra đau khổ là do ái động, dục tưởng phát ra dục sự mà tạo nghiệp trầm luân. Thứ ba Diệt đế là dứt ái, đoạn dục không còn mảy may phiền não vi tế vô minh, thân tâm được định tĩnh, an lạc tự tại. Thứ tư Đạo đếthực hành Bát chánh đạo để đạt quả vị Niết bàn. Đó là Chánh tri kiến là thấy biết chơn chánh, Chánh tư duysuy nghĩ chơn chánh, Chánh Ngữlời nói chơn chánh, Chánh nghiệp là hành động chơn chánh, Chánh mạng là mưu sinh chơn chánh, Chánh tinh tấn là siêng năng chơn chánh, Chánh niệmnhiếp tâm chơn chánh, Chánh định là tâm tư định tĩnh. Này Kiều Trần Như! Tứ thánh đếnhư thật, Ta đã chứng nhập, tâm được tự tại, được giải thoát. Trưởng lão Kiều Trần Như nghe xong liền đắc quả A La Hán, bốn bị kia về sau cũng lần lượt đắc quả trở thành đệ tử xuất gia đầu tiên của Phật. Bấy giờ trong thế gian mới có đủ ba ngôi báu, Phật là Phật bảo, Pháp Tứ đếPháp bảo, năm vị Tỳ kheoTăng bảo. Lần khai đạo đầu tiên này được gọi là Sơ chuyển pháp luân. Sau khi độ nhóm ông Kiều Trần Như xong, đức Phật đem ánh đạo vàng gieo rắc khắp xứ Ấn Độ, suốt bốn mươi lăm năm hoằng hóa, Ngài thẳng tay xóa bỏ mọi giai cấp nên đã quy hướng được mọi thành phần trong xã hội Ấn Độ thời bấy giờ trở về với đạo của Ngài như tôn giả Ưu Ba Lydâm nữ Ma Đăng Già vốn thuộc giai cấp Thủ đà la, về sau tu chứng quả A La Hántrường hợp của rất nhiều vị khác nữa. Ngài đã hàng phục được những tay cự phách của các giáo phái ngoại đạo trở về với chánh đạo và hướng thiện được những con người tàn ác như vua A Xà Thế và anh chàng Vô Não v.v… Ở đâu có ánh đạo vàng đến thì tà giáongoại đạo đều lui xa dần, cũng vì thế mà bên trong cũng có những kẻ hiếu danh ganh ghét như Đề Bà Đạt Đa mưu toan phản nghịch, bên ngoài làm cho các ngoại đạo tìm kế chống phá. Song rốt cuộc, họ phải nhượng bộ trước giáo lý viên dung và nhân cách vô thượng của Ngài. Đạo Bồ đề từ đấy đã ăn sâu gốc rễ và trở thành một tôn giáo chính của các nước lớn nhỏ tại Ấn Độ thời bấy giờ. Đức Phật sau khi tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, đến nay Ngài đã thọ 80 tuổi. sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo định luật vô thườngbiến đổi yếu già. Một hôm ngài gọi ông A Nan, người đệ tử hầu cận Ngài đến và dạy bảo: “A Nan! Hạnh nguyện Ta nay đã viên mãn như lời nguyện xưa. Nay Ta đã có một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử, có đủ bốn chúng đệ tử Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Trong đó nhiều vị có thể thay ta chuyển xe pháp và đạo ta cũng đã lan truyền khắp nơi. A Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn”. Năm ấy Ngài an cư tại rừng Ta La trong xứ Câu Ly cách thành Ba La Nại 120 dặm. Các đệ tử Ngài đi truyền giáo các nơi nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn đều kéo nhau về, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông. Trong giờ phút cuối cùng, Ngài đã độ cho ông Tu Bạt Đạt La, người đệ tử xuất gia sau cùng và thọ dụng bát cháo nấm của ông Thuần Đà dâng cúng. Các đệ tử của Ngài đã vây quanh đầy đủ, chỉ trừ ông Ca Diếp ở xa chưa về kịp, Ngài hoan hỷ dặn dò phú chúc lần cuối: Này các đệ tử! Sau khi ta diệt độ, y bát của ta sẽ truyền lại cho ông Ma Ha Ca Diếp, các ngươi phải lấy Giới luật làm thầy, ở đầu kinh điển của Ta nên nêu bốn chữ ‘Như thị ngã văn’. Xá lợi chia ra làm ba phần, một phần cho thiên cung, một phần cho long cung và một phần chia cho tám vị quốc vương lớn ở Ấn Độ. Này các đệ tử! Các ngươi hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, các ngươi hãy lấy pháp của Ta làm đuốc, hãy theo pháp của Ta mà tự giải thoát, đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác ngoài các ngươi. Này các đệ tử! Các ngươi đừng nghe theo dục vọng mà quên lời ta dặn, mọi vật ở đời không có gì quý giá, thân thể rồi sẽ tan rã chỉ có Đạo ta là quý báu, chỉ có Chân lý đạo ta là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn lên để được giải thoát”. Sau khi dặn dò xong, ngài nhập đại định rồi vào Niết bàn. Lúc ấy nhằm ngày 15 tháng 2 âm lịch theo giáo sử Trung Hoa. Nhục thân Ngài được các đệ tử làm lễ trà tỳ tại chùa Thiền Quang ở thành Câu Ly. Tám vị quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tướng dũng đến chia xá lợi.

Đức Phật đã nhập Niết bàn nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn còn chiếu sáng rực trong tâm của mỗi chúng ta. Suốt tám mươi năm trời, Ngài đã hy sinh tất cả cuộc đời để hóa độ và dẫn dắt chúng sanh lên con đường hạnh phúc an vui giải thoát.

Lòng thương của đức Phật thật là vô lượng!

Ân đức của đức Phật thật là vô biên!

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14115)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39636)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15271)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13815)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13876)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37257)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40002)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14594)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14279)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12623)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14791)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19183)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13768)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42566)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13794)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37188)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12634)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11732)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22495)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12462)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12524)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12994)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13050)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17214)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33133)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14785)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11009)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12404)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11926)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11898)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13095)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51165)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12345)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6572)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30356)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13092)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13279)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30622)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19293)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12449)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11797)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14729)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13164)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13144)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30612)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 11992)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11797)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12681)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31824)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29340)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11749)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11694)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10380)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11509)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9591)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9606)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9907)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35343)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10115)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10058)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10006)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9607)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27739)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15436)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9807)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13624)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9809)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9655)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18243)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12017)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9524)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9647)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8660)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8876)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8368)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11425)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31649)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12287)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13269)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8787)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9398)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11883)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9170)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9037)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9606)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29284)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9033)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9054)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33166)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8402)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30538)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31159)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37004)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32186)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9886)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 26991)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8385)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19181)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12974)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9730)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant