Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ánh sáng tháng Tư

03 Tháng Năm 201200:00(Xem: 21059)
Ánh sáng tháng Tư

anhsangthangtu-hanhchieu

Tháng Tư đi qua cuộc đời Đức Phậttrở thành lịch sử. Dòng thời gian tỏa sáng, cung thành Ca-tỳ-la-vệ tỏa sáng, trần gian tỏa sáng… Và tháng Tư lừng thơm những vòng hoa Giới Định Tuệ được kết nên từ công phu tu tập của chư Thánh đệ tử, dâng lên cúng dường mười phương Như Lai, gọi là chút báo đáp từ ân.

Tháng Tư vì thế là tháng vô cùng trọng đại của những người con Phật. Nhiều mùa hạ đi qua trong đời Thế Tônchúng Tăng, để lại những dấu ấn khó phai. Đó là công đức giáo hóa của Như Lai, là niềm vui tinh khiết, niềm khinh an lớn nhất của chư Tăng từ sự ứng dụng giáo pháp Phật dạy. Vâng lời Như Lai, tất cả chư Thánh đệ tử ở yên một chỗ trong ba tháng mùa mưa, nỗ lực thiền định, thành tựu Thánh quả, cứu mình cứu người ra khỏi trầm luân sanh tử. Tháng Tư trở thành tháng của ánh sáng giác ngộ, tháng của những mùa hạ ngạt ngào hương sen vươn lên từ đất bùn hôi tanh.

Năm ấy, mùa hạ thứ 9, Đức Phật cùng chư Tăng đi đến Kosambi, an cư tại tinh xá Ghositārāma. Māgandiyā vốn chờ đợi Thế Tôn ở đây từ trước. Bà hận Phật. Bởi vì Thế Tôn đã nói lên một sự thật, tuyệt sắc giai nhân cũng chỉ là đãy da hôi thối. Thứ hậu cho mướn côn đồ mắng chửi Đức Phật khi Ngài vào thành khất thực. Thế Tôn vui vẻ im lặng và bảy ngày sau mọi chuyện đều qua đi. Hùng lực của vô thinh đã khiến cho mọi âm thinh tan biến vào hư không. Diệu lực của từ tâm đã giúp cho những con người cùng khổ nhận ra được đâu là chốn nương về. Bằng tình thương, Thế Tôn đã hóa giải hận thù, đem niềm vui đến cho mọi người, dù người có biết hay không. 

Đức Phật tu tập thành tựu được nhất thiết trí, bỏ hết gánh nặng, bỏ cả lời khen tiếng chê. Phật mà còn bị miệng đời thị phi, huống là chúng ta? Cho nên đừng mong muốn quá phước lượng của mình. Chúng ta muốn nhẹ thì phải bỏ hết gánh nặng. Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái, thành thuyền pháp, đánh trống pháp, dựng cờ pháp. Muốn thành thuyền pháp, đánh trống pháp là phải nhổ tên tà và đoạn dứt khát ái. Bởi vì chính ái dụcnguyên nhân dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử, do đó Phật bảo người xuất gia giữ giới trọng nhất là giới dục. Hàng cư sĩ tại gia có thể thư thả qua lại trong ba đường lành, đừng đi ba đường dữ, còn người xuất gia nhất định phải dứt khát ái.

Chữ “ái” trong nhà Phật gồm luôn cả hai nghĩa thương và ghét. Lục Tổ nói: “Tắng ái bất quan hoài, trường thân lưỡng cước ngọa”, nghĩa là “Thương ghét đừng để lòng, duỗi thẳng hai chân ngủ”. Chúng ta muốn khỏe thì đừng để lòng chuyện thương ghét, được mất, hơn thua. Biết khổ, muốn ra mà chưa ra nổi còn có thể tha thứ, biết khổ mà vẫn không chịu ra mới là kỳ! Cho nên ngài Triệu Châu nói chúng sanh “biết mà cố phạm”. Nghiệp lực chúng ta mạnh quá cho nên không đủ sức thắng. Biết đối đãinguyên nhân dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử nhưng lúc nào chúng ta cũng sống trong đối đãi. Nên nói chúng sanh không ngăn lấp đường tà, không mở đường chánh, còn Đức Phật và các vị Bồ-tát thắng được nghiệp lực, làm chủ thân tâm, tự do tự tại nên lìa các nghiệp ác, thành tựu vô lượng phước đức.

Đức Thế Tôn suốt 49 ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề, đêm cuối cùng là lúc quyết định. Thời gian ấy so với một đời người thật là ngắn. Thế mà Thế Tôn đã hoàn thành đại nguyện viên mãn, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thật ra không phải Đức Phật chỉ tu một đời này, mà đã nhiều đời nên bây giờ mới đạt đạo quả nhanh chóng như vậy. Có thể chúng ta cũng đã tu nhiều đời, tuy nhiên mình tu không nghiêm túc như Đức Phật. Một quãng nào đó bỏ tu đi chơi, quậy phá người ta nên bây giờ bị quậy phá lại. Tuy nhiên sự rong chơi nào cũng chỉ tạm thời thôi, rồi ta cũng trở về nhà, trở về nguyên bản gốc của mình. Gốc của mình là gốc Phật. Cho nên chúng ta hãy tự vui lên, tự quyết định đời mình. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật.

Trong kinh Pháp hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đagiai thoại Long nữ dâng châu thành Phật như thế này: Ngài Xá Lợi Phất không tin Long nữ có khả năng thành Phật, vì Long nữ là rồng cái. Rồng thuộc về súc sanhnữ giới có năm điều chướng: Một chẳng được làm Phạm Thiên vương, hai chẳng được làm Đế Thích, ba chẳng được làm Ma vương, bốn chẳng được làm Chuyển luân Thánh vương, năm chẳng được làm Phật. Thế mà Long nữ lại tuyên bố với Xá Lợi Phất tôi có thể thành Phậtthành Phật rất mau nữa là khác. Khi Long nữ dâng hạt châu lên Đức Phật, Đức Phật nhận hạt châu. Long nữ hỏi Xá Lợi Phất rằng:

- Tôi hiến châu báu, Đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?

Đáp:

- Rất mau.

Long nữ nói:

- Lấy sức thần của các Ngài xem, tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.

Nói xong, Long nữ chuyển nữ thành nam, liền bay qua nước Vô Cấu ở phương Nam, ngồi tòa sen báu thành bậc Đẳng Chánh Giác.

Có khi nào chuyện Long nữ thành Phật không phải chờ bay qua nước Vô Cấu, vì như vậy cũng mất một vòng, chưa thể gọi là “rất mau”. Lúc dâng hạt châu Phật nhận, ngay khi đó đã xong hết rồi. Có thể vì giải nghi cho Tôn giả Xá Lợi Phất trên tướng nam nữ không thể thành Phật, nên buộc lòng Long nữ phải bay qua nước Vô Cấu chuyển thân nam thành Phật. Một vòng như vậy cũng là phương tiện mà thôi. Đi một vòng để thấy được diệu dụng của một chúng sanh khi đã thành tựu Vô thượng Bồ-đề, trong sạch làu làu, không chút bợn nhơ (vô cấu). Bấy giờ muốn hiện nam thì hiện nam, cần hiện nữ thì hiện nữ, chứ việc thành Phật đâu có tướng nam nữ.

Chuyện ấy chẳng lẽ bậc đại trí như Tôn giả Xá Lợi Phất không biết sao? Không phải. Tôn giả thị hiện vấn nạn như thế để răn nhắc những chúng sanh nghiệp chướng còn nhiều phải thận trọng, nhất là trong công phu tu hành. Người nữ nếu không khéo tu thì sẽ bị chính nghiệp chướng của mình làm trở ngại con đường tiến đạo. Công phu chưa tới nơi mà lòng đã tự mãn tự đại là một điều tối kỵ đối với hành giả tu Phật. Kẹt ở nạn này thì khó thành tựu được giác ngộ giải thoát. Vì vậy thánh nhân thường đưa ra những lý do khiến người nữ khó thành Phật, để giúp nữ nhân bỏ đi những tập khí nhỏ nhen chấp chặt của mình, mở rộng tâm lượng trượng phu. Tâm lượng trượng phu không phải là của nam hay nữ, mà là tâm lượng rộng lớn. Nhưng vì người nữ thường hay mang tâm lượng ích kỷ hẹp hòi nên các ngài phá tâm ấy.

Khả năng giác ngộ của chúng sanh bình đẳng, nhưng vì nghiệp lực sai biệt nên kết quả cũng sai biệt. Do đó Phật đưa ra nhiều pháp môn tu tập, tùy căn cơchúng sanh chọn pháp tu thích hợp để đạt được kết quả tốt đẹp nhất. Song dù tu bất cứ pháp môn nào, đạo Phật cũng lấy trí tuệ làm gốc. Bởi vì nó là thứ vũ khí sắc bén nhất. Tuy nhiên kiếm dù bén đến đâu mà không chịu dùng, không bao giờ cầm tới thì có khác gì thanh thép lụt. Gươm trí tuệ cầm rồi cũng không chịu chém thì chặt đứt được cái gì? Học pháp, hiểu pháp mà không ứng dụng pháp vào trong cuộc sống thì học để làm chi? Cho nên bắt buộc người tu phải thường xuyên dùng trí tuệ quán chiếu.

Nhờ trí tuệ mà ta buông tất cả để được an lạc. Trí tuệ chiếu soi tới đâu, bóng tối si mê tan tới đó. Có siêng năng dùng trí tuệ quán chiếu thì phiền não nghiệp chướng mới lui tan. Nếu chúng ta không siêng, tuy học pháp, hiểu Phật, nhưng năng lực công phu không có. Gặp cảnh chạy theo cảnh quên tâm, như vậy hiểu mà không có lợi ích, không thể gọi là người trí tuệ. Phật dạy không buông lung, tức là siêng năng tỉnh giác. Nếu thường tỉnh là rút ngắn thời gian trôi giạt trong sanh tử. Ngay khi không phiền não, tâm bình an như nhiên, thấy được vậy là thấy Phật.

Và như thế những tháng Tư đi qua cuộc đời Phật lịch sử là những tháng Tư đi qua cuộc đời của chúng ta. Ánh sáng tỏa chiếu chan hòa, cả trần gian là tòa Kim cương báu, cung đón vô lượng vô lượng đấng Như Lai cùng nhau xuống trần.

Hạnh Chiếu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31577)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10505)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11207)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12718)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10793)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16613)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10792)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11998)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11474)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10669)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12312)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10315)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11897)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10686)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12351)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9790)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11243)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13823)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9571)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12608)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9681)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10441)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10537)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10297)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9883)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11037)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11992)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10133)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9531)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9883)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8757)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14503)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8763)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12538)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10404)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9058)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10545)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9321)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8778)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10494)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9172)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8347)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12008)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9687)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10218)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19107)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9385)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8963)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9570)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10072)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8339)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8934)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8958)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8728)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9353)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14568)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9023)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8750)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10511)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8626)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24254)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10153)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11007)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8989)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9455)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9229)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15328)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10321)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10223)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19211)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26000)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7961)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14736)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10618)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9524)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18628)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12338)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11862)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13323)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15856)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant