Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

[01 - 10]

10 Tháng Năm 201200:00(Xem: 5693)
[01 - 10]
SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH
(The Snow Lion’s turquoise mane, Surya Das)
Nguyễn Tường Bách dịch


1. Người quay bánh xe 

Tại Tây Tạng, ‘mani’ hay bánh xe cầu nguyện là một loại bánh xe với vô số mật chúvăn tự bí ẩn, thường được quay xung quanh một trục, cùng chiều kim đồng hồ. Nhiều ‘mani’ nhỏ như đầu ngón tay út, có thứ to như cả một căn phòng. Từ xưa, người Tây Tạng thường đặt bánh xe này trong dòng nước chảy để bánh xe được quay mãi với thời gian, để công đức của lời cầu nguyện lan tràn trong xứ sở. Tương truyền rằng, ai quay bánh xe hay treo cờ cầu nguyện trong gió, người đó sẽ thực hiện được ước nguyện của mình. 

Tỉnh Kham tại Tây Tạng cũng được ví như miền Tây hoang dã của nước Mỹ ngày xưa. Dân miền Kham vốn là dân kị mã và chuyên nuôi ngựa. Chỉ cách đây khoảng trăm năm, Kham gồm có nhiều tiểu quốc biệt lập có quân đội riêng. Ở đây người dân phải thi hành nghĩa vụ quân sự, không có thanh niên nào được miễn. 

Ngày xưa, ở miền Đông tỉnh Kham có một ông lão, người ta gọi tên ông là ‘lão quay bánh xe’, vì tay ông suốt ngày quay bánh xe cầu nguyện. Bánh xe này mang mật chú đại bi, Án Ma Ni Bat Mê Hồng, và do ông lão tự đẽo lấy.Bà lão vợ ông đã chết từ lâu, sau một cuộc đời đáng quý trọng và đã tái sinh trong một cảnh trời. Từ ngày đó, ông lão sống trong một lều đá với đứa con trai duy nhất mà ông hết lòng thương yêu. Đứa con này có một con ngựa tuyệt vời, và nó yêu con vật này hơn mọi thứ trên đời. Một ngày kia, con ngựa bỗng biến đâu mất, không còn gặm cỏ trên thảo nguyên, tìm đâu cũng không thấy. Nhiều người tốt bụng cũng đi tìm ngựa giúp ông, cuối cùng không tìm ra, họ bắt đầu than van cho số phận hẩm hiu của ông. Còn ông lão lại bình thường như không. Tay ông quay bánh xe và niệm chú ‘Án Ma Ni Bat Mê Hồng’, như người Tây Tạng hay thầm đọc mật chú đại bi này của chư Phật thương xót loài hữu tình. Ông nói với người hàng xóm thường than thở thay ông: ‘Bạn thân mến, than thở làm gì... Bạn biết không, cái đến, cái đi đối với tôi, tôi đều thầm cảm tạ cả. Cứ đợi đi ta sẽ thấy’.

Chỉ vài ngày sau, con ngựa bỗng quay trở về như một phép lạ. Và cùng với nó có hai con ngựa hoang đẹp tuyệt. Ông lão và đứa con trai bắt đầu sắm sửa đai cương cho ngựa. Hàng xóm mừng rỡ đến vỗ vai chia vui. Ông lão lại quay bánh xe và nói: ‘tôi hết lòng cảm tạ sự may mắn này, nhưng ai biết đâu, đợi đấy. Ta sẽ thấy’.

Vài tuần sau, đứa con trai cưỡi ngựa hoang bị té gẫy chân. Hàng xóm mang đứa con về, than khóc cho sự rủi ro này, đứa con không làm việc được nữa. Ông lão ngồi im lặng thì thầm trước giường con, nhưng không hề than thở. ‘Cảm tạ đức Quan Thế Âm, dù sao con tôi cũng còn ở bên tôi. Hãy đợi xem’.

Không đầy một tuần trăng sau, lính tráng nhà vua đi lùng sục bắt thanh niên nhập ngũ để chiến đấu chống quốc vương láng giềng. Chỉ đứa con nằm liệt giường kia mới khỏi bị kêu đi. Hàng xóm vui mừng cho ông, vì ông là người duy nhất còn có con trai bên mình. Ông lão mỉm cười, đặt bàn tay nhăn nheo lên đốt chân gãy của đứa con, đưa mắt nhìn ba con ngựa đang gặm cỏ ngoài đồng. Ông lão hát bài kệ tặng con:

“Cuộc đời mãi quay nhanh,
Lên xuống như bánh xe nước. 
Thân này đã hiện hữu bao lần, quay tròn vô tận,
Thân này đã lấy hàng ngàn dạng hình khác nhau
Mỗi loại dạng hình lại hủy hoại, lại hình thành
Như đất sét ướt thành hình trên bánh xe người thợ gốm
Cái thấp sẽ lên cao, cái cao lại xuống thấp,
Rồi một ngày, cứ đợi đi,
Cái tối tăm sẽ sáng tỏ; người lắm của
Sẽ mất gia sản; mọi hình thái sẽ thay đổi,
Trong trò nhảy múa vô tận của hai mặt nhị nguyên.
Con ơi nếu con là một đứa trẻ đặc biệt,
Người ta sẽ khám phá ra con thuộc một dòng tái sinh
Và cho con vào tu viện với các Lạt-ma.
Nếu con khôn ngoan và ăn nói trôi chảy
Người ta sẽ cho con làm việc văn phòng
Và cột mình sau cái bàn viết.
Mỗi con ngựa tặng con một đống việc phải làm,
Mỗi giàu sang chấm dứt bằng sự tranh chấp,
Ai biết được, ngày mai nghiệp nào sẽ ào tới.
Ngày hôm nay gieo gì, một kiếp nào nó sẽ chín,
Và sẽ gặt trọn vẹn, đó là điều chắc chắn.
Vì thế hãy tốt với mọi điều – vô tâm không phán đoán,
Không tham cầu điều ác xấu.
Tất cả, thêm hay bớt, được hay thua,
Đều chỉ là ảo ảnh.
Đừng hy vọng, cũng đừng sợ hãi, con ơi,
Đừng mong cầu, và vì thế cũng chẳng thất vọng.
Chấp nhận tất cả, nó đến hay nó đi,
Và sống thuận theo lưới trời lồng lộng.
Hãy thật giản dị, chẳng lo âu
Và sống thuận tính đang ở trong con,
Và yên nghỉ trong niềm vui của tự tính.
Con có thể bắn bầu trời bằng bao nhiêu mũi tên,
Bao nhiêu cũng được con à
Nhưng chúng sẽ rơi trở lại xuống đất tất cả. 

 

2. Lời cuối cùng của Milarepa 

Jetsun Milarepa(1) là một vị Tăng phiêu bồng nổi tiếng nhất Tây Tạng, đồng thời là một du ca. Ngài sống cách đây khoảng chín trăm năm trong một hang đá ở Hi-mã-lạp sơn và đặt những bài ca kệ một cách bất ngờ, không suy nghĩ, người đời sau viết lại thành sách và ngày nay, trong thế kỷ 20, sách này đã được in ra nhiều thứ tiếng, để lại cho chúng ta.

Tương truyền rằng, Milarepa là người đạt giác ngộ hoàn toàn chỉ trong một đời làm người, và bằng cách tu tập thiền định trong một cuộc sống độc cư hàng chục năm trời. Trong thời gian tu tập ngài sống bằng một loại rau mọc hoang, ví vậy da ngài mang màu xanh. Vì lẽ đó mà học trò ngài, bên cạnh những cái tên tôn quý tặng ngài, còn gọi là ‘tu sĩ màu xanh’. Đạo sư của Milarepa có tên là Marpa (2), một nhà tiên tri nổi tiếng, đã từng thiền định mười bảy năm tại Ấn Độ và là người mang giáo pháp ‘Đại Pháp Ấn‘ từ Ấn Độ qua Tây Tạng. Một trong những học trò giỏi nhất của Milarepa là Gampopa(3) mà câu chuyện sau đây kể về ông. 

Gampopa là một y sĩ và đã là một Lạt-ma thông thái. Một ngày kia, ông bỗng thấy linh ảnh của một vị Tăng sĩ màu xanh, tóc tai rối bù. Trong ảnh đó, vị Tăng sĩ nhìn ông cười, mắt sáng long lanh và nhổ nước bọt vào mặt ông. Không bao lâu sau đó, Gampopa bắt đầu du phương, đó là một điều mà các vị Lạt-ma thỉnh thoảng vẫn làm. Trên đường đi, ông bị lạc vào một vùng hẻo lánh của Hi-mã-lạp sơn và quả nhiên gặp một người có da màu xanh, trông rất ốm yếu. Gampopa đi từ từ đến vị Tăng sĩ ở trần, chắp tay chào hỏi, đó là người đầu tiên ông gặp sau mấy ngày đi lạc. Milarepa nhếch mép cười khi thấy Gampopa ngần ngừ bước vào. Không nói gì cả, Milarepa đưa cho Gampopa một cái sọ người đựng đầy tràn một loại bia và yêu cầu Gampopa uống hết, theo cách của Mật giáo bày tỏ phép tâm truyền tâm giữa thầy và trò. Gampopa từ chối không uống, ông không thể uống rượu vì giới luật không cho phép. Milarepa cười lớn, giống như trong linh ảnh đã hiện, và nói ngay rằng, theo học một vị Phật đang hiện tiền tốt hơn bám giữ vào một giới luật. Ngay tại chỗ, Gampopa uống cạn một hơi. Sau đó Gampopa nhìn vào mắt Milarepa và nhận ra rằng, linh ảnh đã biến thành sự thật: vị Tăng sĩ giác ngộ này xem như đã nhổ vào mặt ông và đã trao truyền năng lực cho kẻ thông thái nhưng chưa thực sự thức tỉnh đó. Cũng trong phút đó, Mirarepa biết đã tìm ra truyền nhân của mình.

Sau đó, Gampopa ở lại với thầy mình nhiều năm, tu tập thiền định và nghe giảng pháp. Một ngày kia, Milarepa cho hay Gampopa đã chín, đã tới lúc rời thầy ra đi. Tới ngày từ giã thầy và xa thầy mãi mãi, Gampopa quì dưới chân Milarepa, để cho vị đạo sư để hai chân lên đầu mình và nhận một luồng chân khí, nhờ đó Gampopa đạt được tâm thức Đại viên cảnh trí của Phật. Sau buổi lễ này, Gampopa xin thầy cho một lời nhắn nhủ cuối cùng. Milarepa nhún vai và nói: “Ngồi thiền thì ngươi còn phải ngồi nhiều và thường xuyên, còn học thì tuyệt đối không còn gì để học nữa”. Sau đó, Milarepa không nói gì nữa. Gampopa xuống núi, vừa đi qua khởi một con suối thì nghe phía sau Milarepa kêu réo: “Ta còn một lời dạy cuối cùng”, tiếng kêu lẫn trong tiếng suối reo. “Và lời này thật sự là bí mậtthâm sâu, riêng giành chỉ dạy cho những bậc xuất sắc nhất trong giới thượng căn”.

Gampopa yên lặng nín thở, tim đập thình thình. Milarepa quay lưng lại, vén váy lên và cho Gampopa thấy mông đít đã đóng thành sẹo sau nhiều năm ngồi trên đá. “Lời dạy cuối cùng của ta đây hãy nhớ”, Milarepa kêu to. 

 

3. Qua sông

Dakini’ là những năng lực giác ngộ nữ tính, có thể hiện hình với những hình dạng bất kỳ và được người Tây Tạng tôn là ‘nữ thần nhảy múa’, vì các vị đó đại diện cho sự ‘nhảy múa’ của một nữ tính cơ bản, đó là thể tánh mà tự đó mọi hiện tượng mang tính không gian và thời gian xuất phát và sau cái chết lại qui hoàn. Vajra Yogini, ‘Nữ thần Kim cương’ được xem là chúa của tất cả Nữ thần

Một ngày kia, hai vị Tăng trên bước đường du phương đến bên một dòng suối nước chảy xiết, bên bờ có một bà cụ, mang bệnh hủi chờ ai đến giúp. Bà lão rên xiết, giơ hai bàn tay cùi hủi cầu khẩn hai vị Tăng giúp qua được bên kia suối. Vị Tăng đầu tiên quay mặt đi, tỏ vẻ kinh tởm mùi tanh hôi của thứ bệnh truyền nhiễm này. Vị đó vén váy và lội qua bên kia dòng. Qua rồi, vị đó đứng lại và đưa mắt tìm lại người bạn đồng hành.Vị Tăng thứ hai thấy thương xót bà lão và cuối cùng cõng bà lão trên vai. Ngay giữa dòng, vị Tăng hầu như không chịu nổi sức nặng và sắp bị nước cuốn đi. Vị thứ nhất vừa muốn nói ‘Đó, anh thấy chưa!’ thì một bài học xảy ra. Bà lão ngồi trên vai bỗng chốc biến thành Nữ thần Kim Cương của trí huệhiện ra trong vẻ đẹp rực rỡ, trên đầu vị Tăng thứ hai, người đang cõng bà lão qua suối. Từ trên không trung, Nữ thần thò tay trắng muốt đến vị Tăng đang chìm, kéo lên, đi vào thế giới của năng lực giác ngộ.

Vị Tăng thứ nhất đành tiếp tục cuộc hành trình một mình và sẽ còn suy nghĩ rất lâu về Trí huệ của lòng từ bi và về tính chất giả tạo của hiện tượng sắc thể. 

 

4. Chiếc răng chó mầu nhiệm 

Ngày xưa có một bà lão sống với đứa con trai. Đứa con làm nghề buôn bán, phải đi Ấn ĐộTây Tạng thường xuyên. Ngày kia, đứa con trai sắp phải lên đường đi Ấn Độ thì bà mẹ bảo: ‘Giác Thành’ (Bodh Gaya) tại Ấn Độ là nơi đức Phật Thích-ca thành đạo, vì thế mẹ nhờ con mang về một ít xương tro hay bùa chú, pháp khí gì đó. Mẹ sẽ thờ và xem như sự hiện diện của chính đức Phật trong nhà mình. Năm này qua năm khác, bà mẹ nhắc nhở đứa con, nhưng lần nào đứa con cũng về lại Tây Tạng mà không thực hiện được lời mẹ dặn.

Một ngày nọ, đứa con lại lên đường đi Ấn Độ và bà mẹ nói: ‘Nếu lần này con không mang gì cho mẹ từ Giác Thành (4) về để mẹ thờ, thì mẹ sẽ tự tử chết thôi’. Đứa con lấy làm sợ lòng quyết tâm của mẹ, hứa lần này sẽ không quên.

Sau vài tháng làm việc, người con lên đường trở về nhà, bỗng nhớ rằng mình đã không ghé ngang Giác Thành để tìm xương tro cho mẹ. ‘Làm sao bây giờ ?’, anh ta tự hỏi ‘Mẹ ta sẽ tự tử thật đấy nếu không mang gì về cho bà’. Anh ta nhìn quanh thì thấy một con chó chết đã khô. Người con vội vàng nhổ một cái răng chó, quấn lại cẩn thận trong một chiếc khăn lụa.Về đền nhà, đứa con ra vẻ vui mừng bảo mẹ ‘Đây chính là một chiếc răng của Phật Cồ-đàm, bậc Chánh đẳng Chánh giác. Kể từ giờ phút đó, bà hết lòng thờ phụng chiếc răng và cũng không bao lâu sau đó, bà tìm được sự an lạc nội tâm,điều mà suốt đời bà ra công tìm kiếm. Cũng không bao lâu sau thì bạn bè và hàng xóm cũng nhận thấy rằng có một thứ ánh sáng ngũ sắc bao xung quanh chiếc răng, và những tia sáng huyền ảo chiếu trên đó. Mỗi ngày có nhiều người đến lạy bàn thờ của bà lão và xin được tiếp một chút năng lực của chiếc răng mầu nhiệm. Tới ngày bà lão chết, ánh sáng ngũ sắc cũng bọc quanh thân bà và miệng bà mỉm cười làm cho đứa con trai đang than khóc hiểu rằng, bà đang trở về tự tính, từ đó mọi vật được sinh thành.

Kể từ ngày đó người ta biết rằng, một chiếc răng chó cũng trở thành mầu nhiệm, nhưng với điều kiện đó là sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp nhậnlòng từ bi của một vị Phật kết hợp với nhau.

 

5. Bức tượng biết nói

Kongpo là một tỉnh ở miền Nam Tây Tạng mà dân vùng đó có tiếng là đầy tín tâm và không mấy người có trình độ hiểu biết. Trong số các tu viện Tây Tạng thì ‘Jokhang’ tại Lhasa là linh thiêng hơn cả. Trong viện có một tượng Phật rất xưa, trình bày Phật Cồ-đàm hồi còn niên thiếu và được mang tên là Jowo Rinpoche (Đức hạnh cao quý). Tượng Phật này được mang từ Trung Quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và là phẩm vật của một công chúa kết duyên với vua Tây Tạng thời đó. Ben, một thanh niên vùng quê Kongpo, suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tu viện Jokhang, của tượng Phật linh thiêng nhất Tây Tạng. Một ngày kia, Ben được lên đường đi Lhasa để tận mắt chiêm bái thánh địa này.

Sau một chuyến đi khổ nhọc, cuối cùng Ben đến kinh đô Lhasa, đi như người mất hồn trong các con đường của ‘thành phố chư thiên’ này… nhìn thấy điện Potala (5), Ben thật là xúc động, đó là nơi mà đức Quán Thế Âm (6) đang hiện tiền dưới dạng của vị Đạt-lai Lạt-ma (7). Đáng xem thay, dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện Potala! Thật tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị nguyên thủ quốc gia, với bao nhiêu chạm trổ và các bảo tháp đầy tính nghệ thuật. Cũng không được bỏ qua các tu viện đáng trọng nhất như Sêra và Drepung, nơi đào tạo Tăng sĩ. Ben tự nhủ thầm: ‘may mắn thay cho ta, đời ta còn có thể thấy được những nơi này’.

Sau đó Ben vào tu viện Jokhan, và kìa, tượng Jowo Rinpoche trong thế ngồi liên hoa, to như người thực, toả ra một cảm giác tôn quý thầm lặng mà vĩ đại. Ben quỳ lạy trước bức tượng ba lần, nhưng lần nào hầu như cũng mắc kẹt với đôi ủng cũ kĩ, rồi chiếc mũ đầy bụi của Ben lại rơi xuống đất. Ben cởi ủng, cầm mũ, đặt lên lòng bức tượng đang mỉm cười yên lặng và nói: ‘Hỡi Jowo Ripoche, hãy coi chừng giùm các thứ này để cho con yên tâm chiêm bái tiếp’. Ben đi chân không vòng quanh bức tượng vàng, vui thích ngắm hàng chục ánh đèn dầu trên bục tượng và đủ các loại bánh trái để bên cạnh. Ben cám ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng từ bi toả sáng của Jowo Rinpoche, Ben mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn và ăn ngon lành. Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa lớn tiếng sẽ đón Phật bất cứ lúc nào tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo, Ben hứa sẽ mổ con heo mập mạp nhất, cho đủ thứ gia vị để chiêu đãi Phật. Ben đâu biết rằng đạo Phật chủ trương không giết hại loài vật và hoàn toàn tin rằng lời mời của mình sẽ được Phật nhận lời. Ngay lúc đó thì cửa mở toang, vị sư già giữ đền bước vào. Vị sư đứng sững người nhìn đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ rách nát trên lòng đức Phật và nhìn thấy bột bánh đang dính vào râu của Ben. Vị sư giận giữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng Phật, bỗng một tiếng nói huyền bí cất lên: ‘Dừng tay, các thứ này của đứa học trò yêu quý ở xứ Kongpo của ta!’

Vị sư run bắn người, đi lui mười bước. Ông nằm dài xuống đất và xin tượng tha thứ sơ xuất của mình. Sau đó ông rút lui, để Ben ở lại một mình trong phòng, để cho chàng thanh niên này tiếp tục nói chuyện theo cách riêng của anh ta với vị ‘Đức hạnh cao quý’.

Sau đó Ben về lại với gia đình tại Kongpo, nhưng tin đồn bức tượng nói chuyện với chàng đã về trước, nếu có ai hỏi gì về tin đồn đó, Ben chỉ nói lơ: “Ôi, thời buổi này chẳng biết tin nào đúng tin nào sai’. Người ta đồn rằng, bức tượng quả nhiên đã nhận lời mời của chàng Ben thật thà và hiện ra trước mắt chàng trong một dòng suối gần nhà. Ben thò tay vào nước vớt tượng đi được một vài bước, nhưng cuối cùng vì tượng nặng quá nên Ben để Phật rơi xuống đất. Tượng chìm xuống đất cả thước và mọi người đều có thể chiêm ngưỡng bức tượng đó.

Đến ngày hôm nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi quanh hố đất với dấu tích của Jowo đang mỉm cười và lạy tượng bằng cách cúi đầu sát đất. Tu viện Jokhang ở kinh đô Lhasa có thể rất xa nhưng người biết chuyện tin rằng vị ‘Đức hạnh cao quý’ thì ở rất gần họ. 

 

6. Giải thoát mọi loài

Một vị Lạt-ma già nọ kiếm được một tảng đá bằng phẳng bên cạnh một cái hồ để chuyên tâm thiền định. Mỗi ngày ông đều ngồi đó. Đó là một cái hồ đầy ếch nhái chuyên ăn côn trùng. Nhưng cứ mỗi lần bắt đầu ngồi thế liên hoa để đạt tâm thức sâu kín của tự tính thì lại một lần ông thấy một côn trùng giãy giụa trong nước, dường như cần đến ông giúp đỡ. Lần nào cũng thế, vị sư già lại phải xuất thiền, lại cử động cái xương cốt đã già, lại giải cứu thứ côn trùng tí hon này, sau đó mới lại nhập định.

Lần lần các vị tu tập thiền định và Lạt-ma khác bắt đầu chú ý đến ông, một người không bao giờ ngồi yên và hầu như dùng thời gian thiền định để giải cứu côn trùng. Tuy người Tây Tạng nào cũng biết cần cứu vớt loài vật, nhưng có vài vị Tăng khuyên ông nên kiếm một chỗ khác thiền định chứ đừng ngồi bên hồ nữa. Họ nói: ‘Nên chăng đi kiếm một nơi khác mà ngồi để thiền định, không ai quấy rầy?’ Có người nói: ‘Nên chăng trước hết cần thoát khỏi mọi ảo giác? Sau đó, khi đã giác ngộ ta có thể giúp mọi loài hữu tình, chứ không thể giúp như thế’. Một Lạt-ma trẻ tuổi khác lại nói: ‘Nên chăng khi thiền định cần nhắm mắt lại để chuyên tâm quán tưởng vào cái chủ yếu nhất, tính vô thường của chính bản thân tâm thức mình’. Sau khi nghe mọi lời góp ý, vị Lạt-ma già cúi đầu cảm ơn các Tăng sĩ và nói: ‘Các bạn có lý, hỡi các vị nam nữ. Nhưng một kẻ già yếu và thấp kém như tôi, đã nguyện theo lòng từ bi của đức Quán Thế Âm, thực hiện hạnh nguyên đó trong đời này và mọi đời sau, lại có thể ngồi yên và đọc mật chú đại bi trong lúc loài hữu tình bất hạnh đang chết đuối trước mắt mình?’

Không ai trả lời cả. 

 

7. Kẻ phiêu bồng giác ngộ

Patrul Rinpoche(8) được xem là bậc thầy hiệu quả nhất của phái Đại Thành (Dzogchen) trong thế kỷ 18. Đại Thành (9) có nghĩa ‘Tri kiến trực tiếp về tự tính thanh tịnh’. Vì vậy Đại Thành không phải chỉ là một tông phái hay một phép tu, không chỉ là một dòng tái sinh, không phải chỉ là trạng thái đạt đạo. Đại Thành chính là tinh yếu của giáo pháp đức Phật. Vì lẽ đó mà Patrul Rinpoche được xem không phải chỉ là một vị đạo sư, thi sĩ hay nhà tiên tri, ngài cũng là một vị Phật hoàn toàn. Thực ra, người ta xem ngài là một trong những tái sinh của đức Quán Âm mà người Tây Tạng gọi là ‘Chenrezig’: lòng đại bi

Có lần trong một chuyến du hành Patrul Rinpoche gặp một nhóm Lạt-ma, các vị đó trên đường tham dự buổi lễ tại miền Đông Tây Tạng. Các vị Lạt-ma không nhận ra Patrul, thấy ngài trong bộ quần áo nhàu nát, với thái độ kiêm tốn, cho rằng đây cũng chỉ là một kẻ tầm đạo. Vì thế họ vui lòng cho Patrul tham gia trong nhóm, bắt nấu trà, nhóm củi và phục vụ các vị lớn tuổi trong đoàn. Đoàn vừa đến vùng Kham thì có tin gần đó có một vị Lạt-ma cao cấp sẽ chỉ dẫn và khai thị cho đoàn. Nhóm Lạt-ma vội vàng lên đương để tham dự buổi lễ. Tất cả Lạt-ma và cư sĩ được đưa vào ngồi theo thứ tự chính thức, người được ngồi trên ghế trọng vọng, kẻ phải đứng ở xa. Các vị Tăng mang nón mũ, áo quần, huy hiệu hết sức rực rỡ. Vị Tăng thống ngồi trên một bệ cao. Sau khi tiếng còi, tù và, chiêng trống dứt hẳn và phần nghi lễ đã qua thì mọi người hiện diện lần lượt đi qua trước vị đó để nhận phép lành và gửi nơi chân vị Tăng thống một tấm khăn trắng.

Trước hết vị Tăng thống đưa tay rờ đầu các người đi ngang. Về sau khi thấy đoàn người quá nhiều đi không muốn hết, ngài chỉ còn rờ đầu bằng một sợi lông công. Hàng giờ trôi qua, cuối cùng người còn lại là một kẻ quần áo lôi thôi, vốn đi nấu trà cho một nhóm Tăng sĩ không mấy quan trọng.Vị Tăng thống bỗng mở mắt thật lớn nhìn con người có dáng vẻ phiêu bạt đang quỳ dưới chân mình. Nguời đó không ai khác hơn hính là một vị Phật đang hiện tiền, vị đạoĐại Thành (dzogchen) Patrul Rinpoche độc nhất vô nhị và người đó lại đang xin phép lành của mình.

Vị Tăng thống nhảy ào từ trên cao xuống, nằm mọp dưới chân kẻ áo quần rách rưới. Đám đông hoảng hốt kêu lên sợ hãi, vị Tăng thống ngồi dậy, dúi vào tay Patrul Rinpoche sợi lông công rồi lại quỳ xuống. Patrul khoát tay từ chối, sau đó đưa tay nâng vị Tăng thống lên, không để cho vị này cứ quỳ lạy mình mãi.

 

8. Tu tập hạnh nhẫn nhục

Cách đây khoảng một thế kỷ, vào thời đại sư phái Đại Thành là Patrul Rinpoche chuyên độc hành mọi nơi, với một chiếc áo lông cừu cũ nát, không mấy người hay biết. Trên bước đường rong ruỗi, ngài có nghe nói đến một vị ẩn cư cả chục năm nay trong một hang động tối yăm, chuyên tâm thiền định và đã đạt được thần thông đáng kể. Patrul lên đường tìm gặp vị tu sĩ này và xem mình có thể giúp được gì cho người này không. Patrul đột ngột đi thẳng vào hang động đó, ngồi bên cạnh và cười thân thiện.Người tu sĩ nọ hỏi: ‘Ngươi là ai, từ đâu đến và đi về đâu trong cái xứ trơ trụi này?’ Patrul đáp: ‘Tôi đến từ sau lưng tôi và đi về phía trước”. Kẻ độc cư hỏi: ‘Thế ngươi sinh ở đâu?’

‘Ở trên trái đất’.

Tu sĩ bắt đầu mất kiên nhẫn: ‘Hãy nói tên ngươi ta nghe’. “Vô tích sự” –Patrul đáp. Sau khi trả lời, Patrul hỏi tại sao tu sĩ lại ẩn cư trong chốn thâm sơn cùng cốc này. Kẻ ẩn cư này hầu như chỉ đợi câu hỏi đó, trả lời một cách hãnh diện: ‘Ta ngồi đây đã hai mươi năm để thiền quántu tập hạnh nhẫn nhục’.

‘Đáng khâm phục’, người khách trả lời và lè lưỡi tỏ vẻ nể trọng. Sau đó Patrul kề môi nơi tai người tu sĩ: ‘Nhưng hai kẻ già đời như chúng ta đều biết thừa rằng chẳng bao giờ đạt được cái đó, phải không nào?’ Người tu sĩ nhảy dựng ra khỏi thế ngồi liên hoa: ‘Ngươi muốn gì mà quấy rầy ta một cách thô bỉ thế? Ngươi là ai mà lại dám không kính nể ta?’

Patrul trả lời: ‘Vâng, chúng ta là gì, là ai, bạn và tôi, và… hạnh nhẫn nhục của bạn đâu rồi?’

 

9. “Con chó thân mến”

Thời còn trẻ, Patrul Rinpoche là học trò của nhiều đại sư nổi tiếng vào thế kỷ 19. Vị thượng tọa Gyaway Nyugu vừa chỉ dạy cho Patrul về Phật tính ẩn náu bên trong thì Patrul gặp đại sư Doe Khyentse (10). Đây là một vị sư có tính tình kỳ cục và lần đó đã chận cửa không cho Patrul vào thăm một người bạn. ‘Ê, hộ pháp vĩ đại kia, ngươi biết ta là ai không?,’ Doe Khyentse châm chọc.Patrul đã nghe danh ông sư kỳ quái này rồi. Ông đã từng xách súng qua làng qua xóm, hăm doạ nhiều người, làm người ta giật mình sợ hãi, với mục đíchđánh thức giấc ngủ tâm linh triền miên của con người. “Ngươi hãy tới gần đây, nếu ngươi có gan!”, Doe Khyentse hăm. Patrul tới gần ông sư đáng sợ đó. Doe chụp tóc thắt bím của Patrul, quật ngã sóng soài.

“Hơi thở của Doe Khyentse có mùi bia. Ông ta đang say, ta không chấp”, Patrul nghĩ thầm. Nhưng Doe Khyentse là người đọc được ý nghĩ của người khác. “Ngươi là kẻ dùng trí, kẻ học rộng biết nhiều, là kẻ ưa thích phân biệt”, ông hét. ‘Bộ ngươi không biết rằng tất cả đều thanh tịnh, tất cả đều hoàn hảo ư, con chó thân mến!’. Ông giơ ngón tay út lên, đối với người Tây Tạng, đó là cử chỉ khinh bỉ nhất, nhổ vào mặt Patrul rồi đi mất.

Ngay lúc đó học trò Patrul bỗng đạt một bước giác ngộ. Trong một tia chớp của tuệ giác, Patrul nhận ra rằng, tâm thức phân biệt của mình vốn không hề rời tâm giác ngộ rực sáng của Phật, vô thủy vô chung là một với thể tánh đó, từ thể tánh đó mà phát ra thiên hình vạn trạng sự vật. Một niềm an lạc vô biên tràn ngập trong lòng Patrul. Patrul ngồi yên trong bụi cát, nơi mà Doe đã ném huỵch ông xuống đất, để cho mặt trời chiếu rực trên đầu và không cần để ý người qua kẻ lại.

Ngày sau, khi Patrul được tôn thành Rinpoche (cao quý), ngài vẫn thường nhằc lại phương tiện giáo hóa của thầy mình và nói: ‘Nhờ tính bất ngờ vô songlòng từ bi của đức Khyentse mà một trong những danh hiệu của ta là “con chó thân mến”. Với lòng sở cầu và tâm vô phân biệt, ta đi khắp xứ sở. Tự do như con chó ghẻ lở, chẳng còn ai muốn dạy dỗ”.

 

10. Ba người trên cây

Tu viện Katok được phương trượng tên là Dampa Deshek thành lập trong thế kỷ 12. Thời đó Dampa Deshek được xem là một vị đại sư nổi tiếng, nhiều người xa gần đều đến khi nghe tin đại sư giảng phápcử hành nghi lễ Mật tông. Trong các dịp đó, đại sư Deshek thường ngồi trên bực của một bao lơn, các vị Lạt-ma cao cấp đứng hai bên tả hữu. Sân tu viện thường đầy chật người nghe, có kẻ phải leo lên nóc nhà, không bao giờ có dư một chỗ đứng.

Lần nọ, khi Dampa Deshek đã bắt đầu cử hành nghi lễ thì có ba vị Tăng khất thực xin vào nghe giảng nhưng không được trật tự viên cho vào vì không có một chỗ nào còn trống, dù là một góc nhỏ xa chính điện nhất. Ba vị đó là những người đi bộ từ vùng núi non hẻo lánh Gayrong đến, áo quần xốc xếch, mình đầy bụi bặm và mệt mỏi. Cả ba đành đi vòng quanh tu viện, cuối cùng họ tìm được một cây cao, từ trên cây nhìn xuống có thể thấy đại sư Deshek, nhưng xa quá nên không nghe được tiếng nào. Cả ba tìm dây trèo lên cây, ngồi vắt vẻo trên cành để nhìn vào chính điện. Nông dân gần đó thấy ba người hình dạng tả tơi, nhướng cổ ngồi trên cây, họ bảo nhau: ‘Xem kìa, ba con kên kên trên cây kìa, không biết đi từ đâu xa đến mà không được gì cả.’

Nhưng người nông dân đó đã lầm. Trong khi cử hành nghi lễ, Dampa Deshek có một cảm giác không thể nhầm lẫn rằng có ba người đang theo dõi hình ảnh của mình một cách chăm chú. Ngài liền tập trung năng lực mình lên ba người đó, đám đông không hề hay biết. Và ba vị Tăng khất thực trên cây bỗng hiểu rõ ràng ý nghĩa từng cử chỉ ấn quyết của đại sư mà không cần nghe một tiếng nào. Cuối nghi lễ thì huệ nhãn của ba vị Tăng được mở, tức là ba vị đã đạt thêm một quả vị nhất định. Vui mừng trước thành quả đó, Dampa Deshek đọc bài kệ:

“Emaho! Dạng hình sắc thể của các loài

Thật thiên hình vạn trạng và chỉ là ảo ảnh.

Hôm nay, ba con chim lạc bước đến đây

Và trong số những người đạt đạo ngồi quanh,

Họ đã đạt chính giác…

Ngoài đó bên kia vách tường của tu viện,

Ngồi trên đỉnh ngọn cây,

Cổ vươn dài

Emaho!”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19400)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18520)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16014)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29845)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25447)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21592)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17798)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20799)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26300)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33288)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52107)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22852)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23387)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39611)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21776)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22346)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6820)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22698)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69764)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43957)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23035)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 34998)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44047)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42868)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44387)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24885)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24337)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39175)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39202)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17238)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18010)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19238)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35629)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24191)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19569)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20379)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18274)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18946)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18909)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17452)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19285)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30800)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19170)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20491)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19528)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19742)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29765)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17814)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19372)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19860)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58745)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24386)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23485)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39729)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26688)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40738)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22836)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22898)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21572)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18597)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22566)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21058)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19179)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20913)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20309)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30519)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20171)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17438)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16563)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16832)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14933)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14812)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22825)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16017)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16181)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15233)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26047)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17170)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15768)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19753)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17656)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14663)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14722)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19109)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15095)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33020)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17460)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19104)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21775)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22962)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16602)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16453)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16472)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22956)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26345)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12716)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29476)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27673)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25873)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18437)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant