Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

[11 - 20]

10 Tháng Năm 201200:00(Xem: 6127)
[11 - 20]
SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH
(The Snow Lion’s turquoise mane, Surya Das)
Nguyễn Tường Bách dịch


11. Geshé Ben, kẻ cắp

Thời còn trẻ, Geshé Ben là một Tăng sĩ khất thực tại Tây Tạngkiên trì giữ giới luật Đại thừa. Ben sống vào thế kỷ 11 và là một người tu tập nghiêm túc cho đến ngày giác ngộ hoàn toàn.

 Theo truyền thống Tây Tạng, một ngày nọ, Ben được một gia đình mời thọ thực. Trong lúc cả gia đình đang dọn bàn cho chú tiểu tăng đang đói bụng thì Ben lại vào trong bếp. Bỗng nhiên, Ben khám phá ra chính bàn tay mình đang thò vào một bao bố đựng đầy trà thơm ngát. Hoảng sợ, Ben kêu to: 'Ăn trộm, ăn trộm’ và tự đánh vào bàn tay tham lam của mình. Cả gia đình chạy vào bếp: ’Tên ăn trộm đâu?’, người cha gầm lên và cầm sẵn cây gậy để bảo vệ cho gia đình. ‘Đây, đây’, Geshé Ben mặt đỏ hồng hổ thẹn ‘Tôi vừa tự bắt gặp chính mình đang lợi dụng lòng tốt của quý ngài’. Sau đó Geshé Ben nguyện lớn rằng, sẽ tự chặt tay nếu còn tái phạm.

Gia đình tín đồ nọ mỉm cười vui vẻ và khoát tay bỏ qua nhưng họ biết rằng vị đại sư nội tâm của chú tiểu tăng này đã lên tiếng và họ đang chứng kiến một biến cố quan trọng. Họ nghiêng mình kính cẩn trước người khất thực trẻ tuổi này như trước một vị Lạt-ma cao cấp và cám ơn đã nhận được một sự biểu lộ khó quên của Trí huệ cao tột.

 

12. Phẩm vật cúng dường cao quý nhất

Geshé Ben sống nhiều năm trong một hang động núi non ở Hi-mã-lạp sơn. Bao nhiêu thế hệ các vị tu sĩ ngày trước đã từng sống ngay trong hang động đó và ngày nay còn lại một cánh cửa đá, một bàn thờ đá và một nơi nhóm lửa.

Sau một thời gian dài chuyên tâm thiền địnhđộc cư, nhờ phép truyền tâm, Geshé Ben biết rằng một nhóm dân làng sắp mang lại thức ăn và phẩm vật cho mình và hy vọng ông sẽ ban phước lành. Mọi người Tây Tạng đều biết rằng, được một vị Bồ-tát hay tu sĩ đích thực độ trì sẽ mang lại sức mạnh to lớn. Geshé Ben bắt đầu lau chùi hang động sạch sẽ, sửa soạn các đồ đạc và bày biện bàn thờ, cố gắng làm tốt nhất trong điều kiện một nơi hẻo lánh của Hi-mã-lạp sơn. Sau đó, Geshé Ben ngắm nghía một cách hài lòng. Chỉ chốc lát sau, ông bỗng thấy ý nghĩa những gì mình làm, tự nhủ ‘đồ ngốc nghếch’. Sau đó ông ra ngoài cửa động hốt một nắm bụi và rác rưởi, ném lên bàn thờ vừa chùi dọn sạch sẽ. “Ta sống ra sao thì cứ để mọi người thấy như vậy,” Ben nói. “Phẩm vật cúng dường đâu phải để lấy lòng mua chuộc ai, mà để dâng cúng Phật tính đang hiện tiền”. Ben tự nhủ và nói tiếp: “Xong rồi, các bạn có thể đến đây!”

Nhiều năm sau đó có một vị Tăng đắc đaọ từ Ấn Độ qua thăm Tây Tạng và nghe câu chuyện này. Trước mặt các vị Lạt-ma cao cấp và các vị Tulku (dòng tái sinh các Lạt-ma), đạo sư Padampa Sanjay nói: 'Hay, nắm bụi đó là phẩm vật cúng dường cao quý nhất từ xưa đến nay trong cả xứ này”. Geshé Ben đã cúng dường lên bàn thờ trong động cái tự ngã của chính mình. 

13. Geshé Ben và lương tâm

Có lần Geshé Ben được mời thọ thực với các vị Tăng sĩ cao cấp trong phái. Chủ nhà là những tu sĩ giàu có, sống trong các cung điện vùng Penyul, miền Nam Tây Tạng. Trong điện, họ trang hoàng phòng cầu nguyện một cách lộng lẫy và mời các vị Tăng sĩ an tọa: các vị trưởng lão ngồi trên cao, các vị trẻ tuổi ngồi dưới thấp. Theo tuổi tác Geshé Ben ngồi khoảng giữa và đợi thức ăn đem đến.

Theo truyền thống Tây Tạng thì bát ăn và chén uống của các vị Lạt-ma lúc nào cũng phải đầy, vì thức ăn được xem là phẩm vật cúng dường lên tâm giác ngộ, mà các vị Lạt-ma là hiện thân của tâm thức đó. Khi chủ nhà và những người hầu cận vừa dọn sữa cho các vị trưởng lão thì Geshé Ben bắt đầu nóng ruột. Chỉ nhìn qua Ben đã thấy bình sữa xem ra hơi nhỏ và đến phiên mình chắc đã cạn sạch. Vừa nghĩ đến đó, Geshé Ben tự nói to: "Ôi tham lam". Ben xoay mặt không nhìn bát gỗ để trước mặt mình và im lặng trước cái nhìn khó hiểu của các bạn đồng tu. Sau đó, người ta đem thêm sữa vào và sắp sửa cho vào bát của Geshé Ben thì ông chận tay lại nói: "Không cám ơn, ý nghĩ tham lam của tôi đã ăn hết phần của tôi rồi".

Theo phương cách này, người tu hành quan sát nghiêm túc những ý nghĩ và cảm nhận chớm nảy sinh trong lòng mình và biến chúng thành những bước tiến bộ trên con đường đạo. 

 

14. Cách tu hay nhất

Có một vị Tăng cứ đi vòng xung quanh tu viện Peltring mãi vì nghe nói rằng có người nhờ thế mà đạt được thánh kiến. Ngày qua ngày vị Tăng nọ cứ đi hoài như thế đến lúc gặp đại sư Geshé Tempa. Vị đại sư vỗ lưng vị Tăng tội nghiệp và nói: "Thật ra thì đi vòng quanh một thánh địa cũng được đấy, nhưng tốt hơn là nên tu học yếu tính pháp Phật". Nghe xong, vị Tăng gật đầu và bắt đầu đọc Kinh sách nằm lòng và tụng niệm. Không bao lâu sau, Geshé Tenpa trở lại, lại vỗ lưng vị Tăng và nói: "Tụng Kinh đọc sách thì cũng được đấy, nhưng tốt hơn là nên tu học pháp Phật bao trùm rộng khắp’.

Vị Tăng suy nghĩ rất lâu. Cuối cùng vị đó bắt đầu tu tập thiền định. Tất nhiên sau đó Geshé Tenpa lại tìm thấy vị đó ngồi thiền định trong một góc nhà, đang dùng toàn lực để không nghĩ ngợi tới điều gì cả. Vị đại sư nói "A, con đang thiền định, hay thật đó, nhưng tu tập đúng pháp Phật đích thực thì hay hơn nhiều’. Bây giờ thì vị Tăng hoàn toàn mất phương hướng. Không có phép nào mà ông không tu. ‘Nhưng bây giờ con phải làm gì nữa đây, thưa thầy?’

‘Buông bỏ những gì con đang bám giữ’, Geshé Tenpa nói. ‘Lúc đó, con chính là con và cái đơn giản này chính là bước khởi đầu và cũng là mục đích’.

 

15. Đạt-lai Lạt-ma và người chăn trừu 

Cách đây khoảng ba trăm năm, Kelsang Gyatso (11),Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy là người hay rời bảo tháp của mình trong điện Potala và đi vào trong dân chúng để tìm hiểu đời sống và nguyện vọng thực sự của thần dân. Nhờ mặc áo quần bình thường của một kẻ hành hương, kéo mũ thật thấp, vị Đạt-lai Lạt-ma, hiện thân của đức Quán Thế Âm, đã đi một mình mà không ai biết trong các đường phố Lhasa và bắt đầu hành cước về những vùng xa. Ngài đi từ làng này qua làng nọ, sau đó đến hồ nước mặn Yamdrok Tso khoảng miền Trung Tây Tạng và nơi đó ngài gặp một người chăn trừu ít khi gặp tha nhân, mừng rỡ mời ngài ăn tối và cùng ngủ dưới trời khuya, xung quanh là đám trừu cho chút hơi ấm.

Hừng đông, sau bữa ăn sáng bên bếp lửa, Đạt-lai Lạt-ma chào tạm biệt và nói: 'Nếu ngày nào bạn có về thánh địa Lhasa thì cứ hỏi nhà của Kelsang Gyatso, bạn sẽ được tiếp đãi ân cần’. Người chăn trừu hỏi lại: 'Làm sao một người như tôi, không biết đọc biết viết mà có thể tìm ra nhà bạn trong kinh đô đông đúc như thế’. Người lữ hành đáp: 'Tôi tin bạn. Nhưng tên Kelsang Gyatso cũng không đến nỗi vô danh tại Lhasa. Hãy hứa với tôi, bạn sẽ thăm tôi để tôi đền đáp lòng tốt của bạn’. Nhờ lời mời này mà người chăm trừu quả nhiên lên đường viếng Lhasa vài năm sau. Như mọi người hành hương, ông luôn luôn cầu nguyệnnghiêng mình tới đất cúi lạy phương hướng mình sắp đến. Vài tháng sau, ông đến một công trường lớn gần điện Potala. Với giọng địa phương Yamdrok, ông kêu réo mọi người: 'Nào, nhà của Kelsang Gyatso đâu? Ai biết không? Sao? Ông ta trốn đâu rồi? Tôi đến thăm ông ta đây!’

Tiếng ồn ào kêu réo làm hai người bảo vệ của điện chú ý và bắt kẻ làm ồn này đem về cật vấn giam giữ. Thế nhưng, người chăn trừu không hề sợ và nhất định kể lại câu chuyện khó tin đó. 'Kelsang Gyatso đã mời ta mà. Các ngươi điên rồi sao, đám dân thành phố vô dụng’.

Nhiều người biết chuyện này và cuối cùng đến tai Đạt-lai Lạt-ma. Ngay tức khắc, ngài ra lệnh cho người chăn trừu miền Yamdrok đến. Người chăn trừu đang ngồi trong ngục tăm tối thì được đưa ra ngoài. Với hai vị Lạt-ma cao cấp đi theo hai bên và bước lên vô số bậc thang, kẻ chăn trừu nọ xuyên qua bao đường quanh co, qua bao nhiêu phòng cầu nguyện, cuối cùng đi vào phòng tiếp khách của vị nguyên thủ quốc gia. Ở đó, Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy đã ngồi đợi sẵn, trên ghế hoàng triều và chào đón người chăn trừu với niềm vui hội ngộ. Qua bao nhiêu cung điện, người chăn trừu đã không nói được vì kinh ngạc; do vậy cũng không còn hơi sức đâu để hỏi làm sao người hành hương năm xưa lại chóng giàu như thế. Ông cúi đầu ba lần, như mọi người Tây Tạng đều làm trước một vị Lạt-ma và đặt dưới chân Kelsang Gyatso một tấm khăn trắng xem như phẩm vật. Sau đó ông ngồi trên nền đá lạnh trước Đạt-lai Lạt-ma và nhìn ngài thân thiện. Ngài chỉ một ghế bên cạnh, bọc bằng thảm len mời ngồi. Nhưng người chăn trừu khoát tay: 'Không, tôi không ngồi đâu. Ghế đó làm bằng thảm lụa sang trọng, có hình Man-da-la. Ghế đó là chỗ ngồi của ông trời. Tôi không dám ngồi đâu’. Mắt Đạt-lai Lạt-ma ngời lên những ánh sáng từ biquý trọng. Người chăn trừu phấn khởi nói tiếp: 'Và bạn, Kelsang thân mến, bạn ngồi trên một thứ ghế bằng nhung lụa gì khó hiểu. Bạn làm tôi nhớ có những con trừu thích leo lên trên một đỉnh đồi cao rồi không xuống được nữa. Bạn cần tôi giúp bạn xuống đây không?’

Không, Đạt-lai Lạt-ma tự xuống một mình và ngồi bên cạnh người chăn trừu miền Yamdrok. Người này nói tiếp, góp vài ý để sửa đổi trong cung điện to lớn nhưng lạnh như băng này của chủ nhà, 'Nền nhà lạnh quá mức’, ông ta nói, ‘nhưng không sao, khi về lại Yamdrok rồi, tôi sẽ kiếm ít lông trừu gửi lại đây cho bạn đỡ lạnh chân. Tôi sẽ cho một con Yak (trâu) chở lông trừu lại, hứa với bạn đấy’.Đạt-lai Lạt-ma vui vẻ nhận lời và sau đó cho người hầu cận rút lui để một mình truyện trò với người chăn trừu. Cả hai cười vui và kể những chuyện đã xảy ra trong ba năm qua. Lúc đó Đạt-lai Lạt-ma cũng chưa kể thật tung tích của mình. Sau đó ăn uống xong, người chăn trừu đứng dậy nói: 'Bây giờ tôi muốn xuống chợ xem quang cảnh hàng hóa ra sao mà người ta kể tôi nghe rất nhiều. Sau đó tôi sẽ đi chơi và xem thắng cảnh ở Lhasa. Mà, Kelsang ơi, bạn đừng giận tôi nhé, nhưng nhà bạn quá sang và không được thoải mái lắm. Tôi thích ngủ trong một túp lều hay giữa trời sao với đàn trừu hơn’.

‘Trước khi đi’, Đạt-lai Lạt-ma nói, ‘bạn được lựa và lấy một phẩm vật trong số các thứ mà tôi phải trông coi. Bạn bè thì đối xử như thế’. Thay vì đòi đi các phòng của cung điện để tìm một tượng Phật bằng vàng, một tấm tranh lụa xưa hay một cổ vật treo tường thì người chăn trừu đáp: 'Nào vàng, bạc, lụa là, như tôi đâu có cần thiết, phải không?’ Cả hai đều cười và người chăn trừu nói tiếp: 'Bạn biết không, tôi chỉ muốn có một chóp mũ trên đầu như bạn cũng như sợi dây đỏ để buộc lại, y như bạn’.Đạt-lai Lạt-ma hỏi cẩn thận: "Bạn phải gội đầu và xoa dầu mới được đấy”.

“Ôi đâu cần!”

Đạt-lai Lạt-ma cho đem lược đến. Ngài cất mũ của mình và kéo sợi dây đỏ đang mang ra ngoài. Sau đó ngài tự tay chải cái đầu đầy chấy rận của anh chàng này và tết lại thành bím. “Nghi thức đòi tôi phải mang hai cái bím trên đầu”, ngài giải thích, “nhưng không có ai giúp nên tôi chỉ thắt tóc bạn lại thôi, và sẽ gắn thêm tóc tôi vào tóc bạn để chóp mũ này nằm chắc trên đầu”.

“Mang cái chóp mũ này thì dễ cho tôi thôi,” người chăn trừu vui vẻ. “Bạn thật là một anh chàng tốt bụng, Kelsang, nhưng bây giờ tôi phải từ biệt, phải xỏ giày đi đây. Đừng bực mình vì tôi không ở lâu được nhé”. Với chóp mũ trên đầu, anh bạn người Yamdrok vui sướng khi rời khỏi cung điện lạnh lẽo. Ngang đến cửa anh ta còn quay lại kêu to: 'Xem chừng con trâu sẽ đến. Có thể vài tháng nữa thì lúc đó các phòng của bạn đều ấm cả. Cứ tin đi'.

câu chuyện này mà Đạt-lai Lạt-ma thứ bảy vẫn còn nhắc nhở đến người chăn trừu mãi, mà ngài gọi là 'Bạn thân Yamdork-Pa”. Và cũng vì câu truyện này mà ngày nay tất cả ngươi chăn trừu vùng Yamdrok đều mang một bím tóc và một sợi dây cột tóc màu đỏ.

 

16. “Mũi ngựa” ra đi

Tại miền Đông Tây Tạng, không xa một tu viện nọ có một tu sĩ khất thực đã già, biệt danh là "Mũi ngựa”. không ai ưa nổi vị tu sĩ này, từ dáng điệu cho đến thái độ hàng ngày. Ông ta chỉ làm được công việc duy nhất là tìm nơi lông chó và đám ăn xin các thứ như chấy rận nhưng không để giết mà cứu chúng được sống.

Ngày nọ, tu viện cũng xua đuổi ông vì xem ra ông không chịu học tập kinh sách gì cả. Ông đành ngồi trước cửa tu viện, miệng lẩm bẩm cầu kinh và bắt chấy cho chó.Sau đó miền Đông Tây Tạng chịu một nạn dịch khủng khiếp và các bác sĩ cho rằng bệnh này do một loại bọ đen gây ra. Thế nhưng cả bác sĩ lẫn các Lạt-ma cao cấp đều bó tay, không ai chặn đứng được nạn dịch lan tràn.“Mũi ngựa” cũng lâm bệnh nặng và nhiều người thấy rằng ông lâm bệnh sau khi thực hành phép 'Tonglen’ suốt ngày đêm bên đống lửa của mình. Tonglen là một phép tu bằng cách chú tâm cao độ và cầu nguyện để mình được chịu thay cho sự đau khổác nghiệp của người khác, các ác nghiệp đó thể hiện lên thân thể của chính mình. Tonglen là một phép tu bí mật của các vị Bồ-tát, là các vị đã thệ nguyện không màng đến sự giải thoát của bản thân mình trước khi mọi loài hữu tình khác được giác ngộ.

Sau đó người ta đồn rằng “Mũi ngựa” đã hành trì phép tu Tonglen với lòng vị tha tuyệt đối vì ông chỉ vừa lâm bệnh thì loài bọ đã biến mất và bệnh dịch cũng chấm dứt. Người ta cho rằng “Mũi ngựa” đã chịu nhận toàn bộ ác nghiệp của cả vùng và mọi người chuẩn bị cho cái chết của ông bằng một buổi lễ long trọng. Các vị Lạt-ma cao cấp tụng các kinh luận “bardo” và cầu cho tâm thức người chết được tiếp dẫn về cõi Tịnh độ của Phật. Nhờ nhiều dấu hiệu đặc biệt mà các Lạt-ma thấy rằng “Mũi ngựa” đã được Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) tiếp dẫn trong khoảnh khắc lúc chết. Các vị đó cũng nhờ thiên nhãn thấy rằng “Mũi ngựa” đã được thác sinh về cõi Tịnh độ phương Tây-nam và báo thân các vị Phật và Bồ-tát đại bi đã bao bọc chung quanh tâm thức “Mũi ngựa”. Liên Hoa Sinh (12) hỏi ngay thần thức “Mũi ngựa” như sau: “Ngươi đã giúp cho những ai được giác ngộ, kể từ ngày ta gửi ngươi đi Tây Tạng?”

“Mũi ngựa” mở bàn tay ra và chỉ cho đức Phật(Liên Hoa Sinh) hàng ngàn con chấy. Nhìn thấy như thế, các vị đại sư và Bồ-tát bỗng tỏa hào quang rực rỡ như mặt trời từ bi, biến thành ánh sáng thuần túy và đưa “Mũi ngựa” vào cõi Vô lượng quang, là nơi ngài còn lưu trú tới ngày hôm nay.

 

17. Tu sĩ trên cột cờ

Drukpa Kunley (13) là một tu sĩ ngang tàng, từng tu học theo trường phái Drukpa Kagyu. Ông không hề sợ khi bóc trần các trò lừa đảo hay nịnh bợ trong các giới tu học, kể cả trong các trường phái tiếng tăm hay tu viện lâu đời. Lúc sinh tiền, ông đã nổi tiếng là một đại sư Mật tông, đã giúp nhiều người tầm đạo thấy sự thật một cách dễ dàng.

Lần nọ ông đi ngang qua sân một tu viện đang cử hành lễ lạc long trọng. Hàng trăm nhà sư đang ngồi theo phẩm trật trong thế liên hoa, miệng tụng Kinh Kim Cương, là Kinh giảng giải thể tánh cuối cùng của tạng vật. Ngày hôm đó, xem ra ông không có gì để làm nên không ai mời, mà ông cứ vào tu viện, chắc là để mang chút mới lạ vào đời sống buồn tẻ trong đó. Mặc dù Drukpa Kunley có dáng điệu như một tên khùng đi lại ngớ ngẩn nhưng rõ ràng ông phát ra một sức thu hút đặc biệt, khác với các vị tu sĩ khác. Đối với người Tây Tạng thì dấu hiệu đặc biệt của người đắc đạo chính là sự chú tâm sắc sảo và một chút hóm hỉnh kín đáo. Cũng vì thế mà ngày đó người ta đã thừa nhận ông cho đến thế kỷ 20 này vẫn còn xem ông như một vị thánh.

Các vị sư đang rầm rì nghiêm trang tụng Kinh thì Drukpa Kunley đi ra giữa sân và nhanh nhẹn leo lên cột cờ, nhanh như một con sóc mà chung quanh không ai để ý. Lên đến đỉnh cột, ông quạt hai cánh tay như muốn bay và giả kêu tiếng chim. Các vị sư cố giữ tĩnh tâm tụng Kinh tiếp tục, nhưng tiếng ồn ào trên đỉnh cột đã phá vỡ buổi lễ. Các vị sư cố gắng tự chủ, kiên trì tụng Kinh, chống lại ảnh hưởng của ngoại cảnh. “Nhờ sức mạnh của Kinh này mà các yếu tố bất thiện sẽ tự rút”, các vị tụng đọc liên tục. Lời Kinh này xem rahiệu quả vì ông tu sĩ bốc đồng nọ trèo xuống thật, mặt mày nhăn nhó. Các vị sư phấn khởi đọc tiếp: 'Sức mạnh do sự chú tâm sẽ loại bỏ u minh ra khỏi chúng ta'.

Vừa tụng xong câu này, người tu sĩ dở hơi nọ leo thẳng lên cột và kêu to làm ai cũng nghe thấy:

“Con vẹt không thể chú tâm,

Vì, dù nó có tụng Kinh kệ ngàn lần,

Nó cũng không bao giờ hiểu

Ý nghĩa đích thực của Kinh.”

 

18. Đầu bếp giác ngộ 

Ngày xưa có một người đầu bếp tên là Ma-Tschen-La, ông sống trong một trong những tu viện lớn nhất Tây Tạng và mỗi ngày phải nấu nướng cho hàng trăm người ăn. Năm này qua năm khác, lúc nào ông cũng đứng dưới thứ thịt trâu hun khói và cứ quậy mãi cái nồi to tướng, nấu thức ăn và trà bơ bổ dưỡng cho các vị đồng tu.

Ai cũng mến Ma-Tschen-La, chỉ vì muốn được hàng ngày sống trong bếp của ông, trong đó chứa đựng một thứ năng lực kỳ diệu. Sau khi ông chết, tu viện tổ chức một buổi lễ hết sức trọng thể, chỉ dành riêng cho các đại sư, dù rằng mọi người đều biết, đối với Ma-Tschen-La thì vứt xác cho kiến mối hay kên kên ăn thịt thì cũng chẳng hề gì. Trong buổi lễ, xác của Ma-Tschen-La được chất lên một giàn hỏa, các vị sư ngồi xung quanh bắt đầu tụng niệm và châm lửa. Khi ngọn lửa vừa đến đỉnh đầu, người ta thấy xuất hiện một hào quang ngũ sắc. Sau đó xuất hiện vòng thứ hai, thứ ba, rồi không ai đếm nổi bao nhiêu vòng ngũ sắc đã xuất hiện trên xác người đầu bếp. Qua dấu hiệu này, người ta mới nhận ra, người đầu bếp ngày trước là một vị thánh vô danh suốt hàng chục năm. Ngay sau đó người ta kể vô số chuyện về người đầu bếp đắc đạo, đã thực hiện được thánh quả mà kẻ khác chịu bao nhiêu khổ nhọc mà cũng vẫn chưa đạt được. Người ta kể rằng, Ma-Tschen-La, trước khi trở thành đầu bếp, là người đã từ bỏ mọi tham cầu, chỉ cần cái đang có sẵn. Ông đã nhận ra rằng mọi cầu mong đều chỉ vô ích, một ngày kia đã từ bỏ tư tưởng về một cái ta, tự mình trở về thể tánh chân nhưthể nhập trong đó. Người ta kể rằng Ma-Taschen-La không hề bám giữ hay từ chối bất cứ điều gì và vì thế cũng chẳng cử hành bất cứ nghi lễ gì, cũng chẳng học tập kinh điển làm gì. Nói thế nhưng cũng có người phản đối ngay, tiết lộ rằng từng nghe Ma-Tschen-La hay niệm danh hiệu Quán Thế Âm và Bồ-tát Tara.

Dù gì đi nữa người ta vẫn cho rằng ông đầu bếp là người sớm đắc đạo hơn ngài phương trượng; ngày nay chuyện về Ma-Tschen-La vẫn còn được nhắc nhở. Ma-Tschen - từ Tây Tạng có nghĩa là “đầu bếp” và Ma-Tschen-La là người đầu bếp cho tất cả mọi người cần đến.

 

19. Tên trộm hối cải

Patrul Rinpoche là người truyền đạomọi nơi mà ngài đặt chân đến. Có lần ngài đến Zamthang và được một người đàn ông nghèo khổ tặng cho một móng ngựa bằng bạc vì quá cảm kích ngài. Người đó đặt tặng phẩm dưới chân ngài và ép ngài phải nhận. Tặng phẩm bằng bạc này là vật quý giá duy nhất mà người đó sở hữu, nhưng ông ta cũng biết rằng mình dâng cúng món này sẽ tạo được một công đức cao quý ở một cấp khác.

Một tuần sau đó, Patrul lại lên đường đi từ làng này qua làng khác mà trong một vùng ít dân như ở Tây Tạng thì gần như đi từ nhà này qua nhà khác. Lần này Patrul bị một tên trộm theo dõi, y đã thấy Patrul nhận tặng phẩm quý giá nọ. Patrul đi trong hoàng hôn, lòng không chút vướng bận và khômg có mục đích nào khác hơn là kiếm một chỗ ngủ dưới bầu trời sao. Tại một nơi, Patrul kiếm một hang kín gió và nhắm mắt ngủ. Tên trộm đợi một lát, sau đó từ từ bò đến chỗ ngủ, mò mẫm bình nấu trà, rồi túi xách vai và cuối cùng mò đến bộ áo dài bằng lông trừu, trong đó Patrul nằm cuốn tròn vì cái lạnh ban đêm.“Ka-hô”, vị đại sư lầm bầm, “Ngươi mò cái gì trong áo của ta đấy?”

“Cái móng ngựa bằng bạc đâu rồi? Tôi biết, ông giấu trong áo”.

“Trời đất”, Patrul thở dài, “Xem này, ngươi làm cái gì với cuộc đời ngươi thế? Ngươi theo ta suốt cả dặm đường, qua bao nhiêu cảnh vắng vẻ trơ trọi, chỉ vì cái miếng kim loại đó sao. Nghe đây, hãy đi lui hết đường cũ, tìm cho ra chỗ ta đốt lửa, nơi ta giảng pháp và ngủ tối tại Zamthang. Giữa đống tro và mấy viên đá, ngươi sẽ thấy miếng bạc đó. Ta dùng nó để kê bình trà”.

Tên trộm không hề tin những gì ngài nói, nhưng vì y kiếm hoài không ra nên đành trở về chỗ cũ, cuối cùng y tìm thấy ngọn đồi con, nơi Patrul đã nói chuyện với dân làng Zamthang. Tên trộm quả nhiên đào trong tro ra miếng bạc quý, y nhìn ngắm một hồi lâu. Nhưng bây giờ, khi miếng bạc đã vào tay, tên trộm không còn thấy vui sướng nữa. “Ôi”, y than thầm, “rõ ràng ông Patrul này không còn quan tâm đến của cải thế gian nữa và ông đúng là một đạo sư đích thực. Còn ta, nghiệp báo vốn đã xấu xa rồi bây giờ còn gây thêm ác nghiệp ăn trộm đồ của ông nữa, trong tương lai chắc phải chịu trừng phạt khủng khiếp”.

Tên trộm biết hổ thẹn đó đứng dậylên đường đuổi theo Patrul. Ba ngày sau, tìm thấy ngài trong khung cảnh hoang vắng, y chạy theo kêu réo. Patrul gọi lại :”Máu tham của ngươi vẫn còn hay sao? Ta đã chỉ ngươi tìm miếng bạc. Ngươi còn muốn gì nơi ta?”

Tên trộm nước mắt đầm đìa, quì xuống chân ngài: "Tôi, tôi đã thấy miếng bạc, nhưng tôi làm gì vói nó đây? Vì nó mà tôi đánh mất bao nhiêu điều trọng đại khác. Hãy nghe lời sám hối của tôi, ông là một đạo sư đích thực, hãy tha thứ cho tôi.”

Patrul nói: "Không cần thiết. Hãy trở về với nội tâm của ngươi, hãy qui y Phật, đó là tâm thức sâu kín nhất của ngươi; hãy qui y Pháp, đó là nhận thức của chư Phật; hãy qui y Tăng, đó là toàn thể những người cũng muốn học hỏi nhận thức đó”.

Tên trộm nghe lời một cách thành tâm và Patrul nhận y làm đệ tử ngay tại chỗ. Vài năm sau, có kẻ nhắc lại câu chuyện này trong làng Zamthang. Một nhóm người nghe xong nóng tính mang gậy guộc đến nhà tên trộm và lôi y đến gặp lại Patrul đang ở gần đó. “Thả nó ra”, Patrul kêu lên khi thấy các tín đồ hành hung đệ tử của mình, “các ngươi không biết rằng khi đụng đến người khác cũng là đụng đến ta chăng? Cái tự tính trong mỗi người chỉ là một với nhau, dù cho tự tính này mang nhiều dạng hình khác nhau, mỗi lúc mỗi khác, lúc nào cũng mới mẻ. Các ngươi không thấy sao?”

Lời nói của Patrul có một năng lực mạnh mẽ làm ngay lúc đó có nhiều ngươi đạt tuệ giác và đã nhận ra được một phần của chân như vốn không thể nắm bắt. 

 

20. Ba điều ước

Ngày xưa có một nông dân nghèo tên là Dorje, hàng ngày phải vật lộn với miếng đất khô cằn, chịu bao nhiêu khổ nhọc mới có miếng bánh mì. Mỗi ngày Dorje đi làm về thì lại không được lời an ủi nào của vợ mình, vì Pemala vợ ông lúc nào cũng chê bai, không chịu làm kiếp vợ một ông nông dân. Nhiều đêm trước khi đi ngủ, Dorje chỉ mong có điều duy nhất là bà vợ ngày nào đó sẽ câm luôn. Ông cầu nguyện thật sự điều đó, ngoài ra ông không còn biết điều gì cao quý khác.

Một buổi sáng, lúc Dorje còn đang cày thửa ruộng lúa mì thì bỗng nhiên có một bóng người đàn bà từ xa đi tới. Người đó phát ra hào quang như một bà tiên, Dorje lập tức quì xuống xin ban phước. Bà tiên cho Dorje hơn cả một điều ước: "Ngày hôm nay, ba điều ước của ngươi sẽ thành hiện thực”. Bà tiên nói xong liền biến mất ngay trước mặt Dorje. Dorje run rẩy đặt cày xuống và đi thẳng vào nhà. Trời còn sớm nên Dorje biết rằng sẽ bị vợ mắng chửi, nhưng ông phải kể cho vợ mình nghe đã gặp bà tiên và đã được bà ban cho ba điều ước. Trong mọi trường hợp, ông cần có thì giờ để bàn bạc với vợ, và làm sao đạt được điều tốt nhất từ cơ hội vô song này. Dorje vừa tới cửa nhà nằm trên đồi thì Pemala bước ra và bắt đầu trách móc: “Ông muốn cái gì đây, đồ bị gạo? Vợ ông không có gì trong bụng cả mà ông lại đi chơi, đồ mũi khoai tây”.

Đúng là Dorje có cái mũi to đùng nên nghe thế ông không nhịn được giận dữ. Bước vào bếp, ông la lên: "Mũi khoai tây. Ta mong cái mũi ta to như cái bếp này để ngươi biết thế nào là một lỗ mũi to”. Vừa nói xong thì cái mũi của Dorje phồng lên to tướng, to mãi, to mãi và đè bẹp hai vợ chồng khốn khổ vào vách tường.

‘Cứu tôi với, cứu tôi với!’ Pemala la lên một cách tuyệt vọng và Dorje sực nhớ ra, nói “Ta mong rằng, ta không có mũi nữa”. Ngay tức khắc điều đó thành sự thực. Bấy giờ trên khuôn mặt của Dorje chỉ còn một lỗ đen khủng khiếp.Pemala vừa thở vừa nhìn sửng sốt khuôn mặt của chồng. Dorje sờ lên mũi và thò tuột tay vào trong đầu mình. Ông rên rỉ: “Ôi, lẽ ra đừng bao giờ gặp ngươi mà lại hay, bà tiên đáng nguyền rủa!”

Ba lời ước của ông đã thành sự thật. Vợ chồng ông sống bình thường như không hề gặp bà tiên, cũng không nhớ những gì của một ngày đáng nhớ đó.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10103)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10362)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9647)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23545)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11785)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10675)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10022)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28604)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21519)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29327)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11348)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12336)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26227)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 30951)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25264)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22745)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13002)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21856)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12191)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14090)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12375)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11198)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10658)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 37972)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13645)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13419)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12305)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12548)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12016)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10687)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11164)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23318)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33114)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12747)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7352)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12142)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12556)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 11976)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12808)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11902)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10636)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11320)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11604)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10809)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10742)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10330)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10421)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10664)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10587)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11868)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10646)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12691)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10776)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11353)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11056)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11589)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10475)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11200)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12260)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11081)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12446)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11378)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11473)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11254)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11538)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12949)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14127)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10959)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11818)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13110)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11501)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11367)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10889)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11241)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10773)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11003)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10841)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10209)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17050)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10975)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10826)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10369)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10718)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11346)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11034)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10529)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11327)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10309)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10599)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12726)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19198)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19618)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21210)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20250)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19692)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 18965)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20393)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21009)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17867)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21743)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant