Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Nguyên tắc đạo sư

25 Tháng Năm 201200:00(Xem: 19308)
Nguyên tắc đạo sư
NGUYÊN TẮC ĐẠO SƯ
Sogyal Rinpoche
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên


nguyentacdaosu-sogyalrinpocheKhi chúng ta nói về một vị Lama, một đạo sư hay nguyên tắc của Guru, điều quan trọng là nhớ rằng Guru không phải chỉ là một người. Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.

Có lẽ, hình mẫu xúc độngchính xác nhất của bản tánh chân thật của Đạo sư mà tôi từ nghe nói đến từ thầy tôi, ngài Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài nói rằng mặc dù bản tánh của chúng ta là Phật, nhưng nó bị che chướng từ thời vô thủy bởi đám mây ngu dốt và vô minh. Tuy nhiên, bản tánh chân thật này, Phật tánh của chúng ta, không bao giờ đầu hàng sự chuyên chế của ngu dốt; đâu đó nó vẫn đang chống lại sự kiểm soát đó.

Như thế, Phật tánh của chúng ta có một khía cạnh tích cực, chính là “vị thầy bên trong” của ta. Từ thời điểm ta trở nên vô minh, vị thầy này đã làm việc không mệt mỏichúng ta, cố gắng không mệt mỏi để mang chúng ta lại với sự chói ngời và khoáng đạt của bản tánh chân thật. Không một lúc nào mà vị thầy bên trong bỏ rơi hay từ bỏ chúng ta, ngài Jamyang Khyentse nói tiếp. Trong sự từ bi tuyệt đối, người ta với lòng từ bi tuyệt đối của tất thảy chư Phật và các bậc giác ngộ, vị thầy này làm việc không ngừng vị sự phát triển của chúng ta – không chỉ trong đời này mà còn trong tất cả các đời trước kia – sử dụng mọi phương tiện thiện xảo và mọi kiểu hoàn cảnh để giảng dạy và tỉnh thức chúng ta, và chỉ dẫn chúng ta quay trở về với sự thật. Hàng ngày, chúng ta có thể nhận ra rằng cuộc đời đang dạy chúng ta như thế nào. Nó có thể là một bài học mà ta chẳng hề muốn, nhưng ta không thể chạy trốn khỏi sự thật đó, bởi đời chỉ tiếp tụctiếp tục dạy chúng ta. Đây là tính phổ quát của Bậc Đạo sư.

Khi chúng ta cầu nguyệnchí thành đi tìm sự thật trong một thời gian dài, đạo sư của tôi nói tiếp, và khi nghiệp của chúng ta được tịnh hóa đủ, vị thầy bên trong thực sự bắt đầu thị hiện rõ ràng hơn và mang hình tướng vị thầy bên ngoài mà chúng ta thực sự đối mặt. Sự gặp mặt này là điều quan trọng nhất của bất cứ đời nào. Vị thầy bên ngoài này là ai? Không gì khác hơn chính là hiện thân và khẩu và đại diện [tức thân, khẩu và ý] của vị thầy bên trong. Ngài dạy cho chúng ta cách thức nhận được thông điệp của vị thầy bên trong của mình, và cách thức nhận ra vị thầy tối thượng bên trong, khôi phục niềm tin vào bản thân và như thế giải phóng chúng ta khỏi khổ đau đến từ việc không biết bản tánh chân thực của mình.

Vị thầy bên ngoài là người đưa tin, vị thầy bên trong là sự thật. Nếu ai đó muốn gọi điện thoại cho bạn, ví dụ, họ cần quay số của bạn. Giống như vậy, chư Phật gọi chúng ta thông qua Phật tánh, vị thầy bên trong của chúng ta. Ngài là đường dây trực tiếp, nhưng cho đến khi bạn biết cách lắng nghe, chính vị thầy bên ngoài là người trả lời điện thoại. Chư Phật làm việc thông qua ngài, đến với bạn. Điều quan trọng là không đánh mất nhận thức về sự kết nối giữa vị thầy bên trong và bên ngoài này. Vị thầy bên ngoài đang giảng cho bạn cách thức tìm thấy chính bản thân, cách tìm ra vị Phật bên trong. Ngài giới thiệu bạn với chính mình, và cho đến khi bạn tìm thấy vị Phật bên trong, ngài sẽ là người thay thế đó.

Trong giáo lý Dzogchen, Đức Liên Hoa Sinh đại diện cho nguyên tắc vũ trụ này. Ngài được coi là hiện thân của chư Phật trong quá khứ, đại diện của chư Phật hiện tại, và suối nguồn mà từ đó chư Phật tương lai đến. Ngài là vị Đạovĩnh cửu, ở đó tất cả chư đạo sư đều hiện hữu. Rất nhiều các đạo sư vĩ đại của truyền thống Tây Tạng nhận được cảm hứng từ ngài, và là hóa thân của ngài, như chùm ánh sáng đến từ mặt trời. Bởi thế nếu bạn có kết nối với bất kỳ ai trong đó [tức là trong số rất nhiều các đạo sư kể trên: ND], các ngài sẽ dẫn bạn đến với ngài. Sự kết nối dưới hình thức con người của ngài với bạn chính là vị thầy của bạn. Chính thông qua bậc đạo sư, bạn có thể nhận ra ngài.

Dù bạn coi Đức Liên Hoa Sinh là gì, hay bạn coi đạo sư của mình là gì, đó chính là Dzogchen. Trạng thái tuyệt đối của Dzogpa Chenpo là tâm trí tuệ của vị thầy bạn. Bởi thế bạn không nên coi ngài là một người bình phàm. Ngài đại diện cho sự thật hay trí tuệ làm bạn xúc động và truyền cảm hứng cho bạn. Vì thế với bạn, ngài đại diện cho tâm trí tuệ nhiều đến mức chỉ nghĩ về ngài đã kết tinh toàn bộ giáo lýthực hành thành bản chất cốt tủy. Đạo sư không tách biệt với giáo lý; trên thực tế, ngài là năng lượng, sự thậttừ bi của Pháp. Ngài là hiện thân của Dzogpachenpo [Đại toàn thiện], bởi thế bất cứ khi nào bạn nghĩ về bậc đạo sư của bạn hay Đức Liên Hoa Sinh, điều đó sẽ kêu gọi sự gia trì của các ngài đến với bạn. Đây chính là suối nguồn cơ bản của sự truyền cảm hứng của các thực hành Dzogchen.

Như Đức Kalu Rinpoche nói trong Pháp hội cộng đồng cuối cùng của ngài: “Người chúng ta gọi là Phật, là Lama, không phải là thứ vật chất như sắt, pha lê, vàng hay bạc. Các con không bao giờ được nghĩ về các ngài với thái độ thực dụng như thế. Bản chất của Lama hay Phật là tánh không, bản tánh của các ngài là sự sáng tỏ; sự hiển bày của các ngài là trò chơi của giác tánh không ngăn cản. Ngoại trừ điều đó, các ngài không có hình tướng, dạng thức hay màu sắc vật chất, thực sự nào – như là sự chói ngời trống rỗng của hư không. Khi chúng ta hiểu các ngài như thế, chúng ta có thể phát triển được niềm tin, hòa tâm chúng ta với các ngài, và để tâm an trú một cách yên bình. Thái độthực hành vô cùng quan trọng.”

Chúng ta cần nhân hóa sự thật để có thể tiếp cận với nó. Không như thế, làm sao ta có thể hiểu được điều tuyệt đối? Với chúng ta, Đạo sưhình tướng con người của sự thật [hay chân lý]. Như ngài Dilgo Khyentse Rinpoche từng nói, “Không có vị Phật nào trở nên giác ngộ mà không nương tựa vào một bậc thầy tâm linh.” Các bạn cần nhận ra sự tuyệt đối bên trong sự ngự trị của tâm bình phàm. Và con đường vượt khỏi tâm là thông qua trái tim và thông qua lòng sùng mộ. Như Đức Phật từng nói với ngài Shariputra [Xá Lợi Phất]: “Chính thông qua lòng sùng mộ, và chỉ lòng sùng mộ thôi, mà người ta nhận ra sự tuyệt đối.”

Đức Nyoshul Khen Rinpoche chỉ ra rằng, “Theo [giáo lý] Dzogchen, và sự tiếp cận đặc biệt của một vị Đạo sư Dzogchen vĩ đại, ngài Shri Singha, có một cách để nhận ra bản tánh của tâm chỉ thông qua lòng sùng mộ. Có nhiều trường hợp hành giả chỉ thông qua lòng sùng mộ chí thành mà chứng ngộ, dù vị thầy của họ đã mất hay không ở gần họ về mặt vật lý. Bởi các lời cầu nguyện và lòng sùng mộ, bản tánh của tâm được chỉ ra. Ví dụ nổi tiếng nhất chính là về Đức Longchenpa và Đức Jigme Lingpa.

Dzogchen không thể được nhận ra chỉ với kiến thức hay ý nghĩ của tâm bình phàm, mà phải thông qua sự thanh tịnh của con tim. Bởi Dzogchen là vượt ra ngoài tâm, nó là trí tuệ rigpa, thứ chỉ có thể được trao truyền thông qua sự thân cận giữa bậc đạo sưđệ tử.

Khi đạo sư có thể mở trái tim sâu kín của bạn, và giúp bạn nhận ra hình ảnh sức mạnh không thể phủ nhận của bản tánh của tâm, cơn sóng của lòng biết ơn hoan hỉ dâng lên trong bạn hướng về người giúp bạn nhận thấy, và sự thật bạn nhận rađạo sư vẫn đại diện bên trong, giáo lý, và tâm trí tuệ. Cảm xúc chân chính, không giả tạo đó luôn luôn bám chắc vào kinh nghiệm bên trong, không thể phủ nhận, được lặp lại – sự thấu suốt được lặp lại của sự nhận ra trjwc tiếp – và điều này là cái mà chúng ta gọi là sùng mộ, mbgu trong tiếng Tạng. Mogu nghĩa là “mong nỏi và kính ngưỡng”: kính trọng với bậc đạo sư, cảm giác phát triển ngày càng sâu sắc khi bạn hiểu hơn ngài là ai, và mong mỏi thứ mà ngài có thể chỉ ra trong bạn, bởi bạn hiểu đạo sư là kết nối về tâm với sự thật tuyệt đốihiện thân của bản tánh của tâm của bạn.

Bởi thế, điều quan trọng là biết được rằng lòng sùng mộ thực sự là gì. Nó không phải sự khâm phục vô tâm; nó không sự từ bỏ trách nhiệm với bản thân, cũng không phải sự theo đuôi không phân biệt một cá tính hay ý nghĩ kỳ quặc khác. Lòng sùng mộ thực sự là sự tiếp thu không ngừng sự thật. Lòng sùng mộ đến từ thái độ biết ơn có phần nể sợ và kính trọng, nhưng đó là thái độ tỉnh giác, có nền tảng và trí tuệ.

Càng quán chiếu về sùng mộ và địa điểm cùng như vai trò của nó trong mọi hoàn cảnh của giáo Pháp, tôi càng nhận ra rằng nó là một phương tiện thiện xảo mạnh mẽ vô cùng quan trọng giúp chúng ta tiếp thu nhiều hơn chân lý trong giáo lý của Đạo sư. Như thế, lòng sùng mộ trong một khía cạnh là cách thức thực tiễn nhất để đảm bảo sự kính trọng toàn vẹn cho giáo lý, và như thế là cánh cửa đến với giáo Pháp, điều mà bậc đạo sư hiện diện và trao truyền. Bạn càng sùng mộ, bạn càng dễ dàng tiếp cận với Pháp; như thế cơ hội để Pháp hòa vào tâm bạn càng nhiều, và như thế mang đến một sự chuyển hóa tâm linh hoàn toàn.

Lòng sùng mộ trở thành cách thức đơn giản nhất, thanh tịnh và nhanh nhất để nhận ra bản tánh của tâm chúng tamọi vật. Khi chúng ta tiến bộ trong đó, tiến trình tự phát lộ sẽ độc lập một cách diệu kỳ: Chúng ta, từ phương diện của mình, liên tục cố gắng phát khởi sùng mộ, lòng sùng mộ chúng ta khởi lên tự tạo ra các hình ảnh về bản tánh của tâm và những hình ảnh này chỉ làm sâu sắc thêm lòng sùng mộ với bậc đạo sư, người đang truyền cảm hứng cho chúng ta. Bởi thế lúc cuối cùng, lòng sùng mộ sẽ sinh ra trí tuệ: sùng mộ và kinh nghiệm sinh động về bản tánh của tâm sẽ trở nên không thể tách rời và truyền cảm hứng cho nhau.

Như Đức Dilgo Khyentse Rinpoche từng nói, “ Lòng sùng mộ là bản chất của con đường, nếu chúng ta có trong tâm không gì khác ngoài bậc Đạo sưcảm thấy không gì khác ngoài lòng sùng mộ chân thành, bất cứ điều gì xảy ra cũng được nhìn nhận là sự gia trì của ngài. Nếu chúng ta đơn giản thực hành với lòng sùng mộ hiện tại này, đó sẽ chính là một lời cầu nguyện.

Khi mọi ý nghĩ thấm nhuần lòng sùng mộ với đạo sư, sẽ có một niềm tin tưởng tự nhiên rằng điều đó sẽ chăm sóc mọi điều có thể xảy ra. Mọi hình tướng đều sẽ là đạo sư, mọi âm thanh là lời cầu nguyện, và mọi ý nghĩ hỗn độnvi tế khởi lên đều là lòng sùng mộ. Mọi thứ được giải phóng một cách tự nhiên trong bản tánh tuyệt đối, như là nút thắt được cởi ra trên bầu trời.

Dù bất cứ điều gì xảy ra, niềm tin tưởng tự nhiên này sẽ mang lại cho chúng ta một khả năng bẩm sinh triệu thỉnh sự ấm áp và lực gia trì của chân lý khi cần thiết. Nó đến từ việc nhận ra tri kiens, và từ điều này lòng từ bi rộng lớn cũng sinh khởi. Như Đức Nyoshul Khen từng giải thích: “Khi con nhận ra ý nghĩ chân thực của tánh không hay Dzogpachenpo, từ bi không nỗ lực sẽ sinh khởi với mọi chúng sinh chưa chứng ngộ; nếu nước mắt có thể diễn tả từ bi, con sẽ khóc đến khi kết thúc.” Ba thứ, tri kiến, sùng mộ và từ bi không thể tách rời, cùng một vị - vị của Pháp.

 

Trích trong cuốn “Dzogchen và Padmasambhava”, Sogyal Rinpoche.
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22894)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13950)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54948)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9057)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14339)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14081)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13809)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36150)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19774)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18095)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19099)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19039)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20187)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15847)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14893)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14610)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46042)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35794)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20949)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21471)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23249)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34163)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19403)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18818)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22822)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20081)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18265)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19736)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33301)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34302)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37545)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21042)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17793)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63448)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17274)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49475)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27256)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20167)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18809)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16248)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17787)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20846)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14386)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16782)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16279)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15922)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17379)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15005)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13404)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15295)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12587)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13273)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27308)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12422)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13112)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14401)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16127)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12324)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12804)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12129)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21502)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11203)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14939)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46041)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22320)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14370)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12518)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18796)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14629)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43697)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56806)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13564)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14460)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33168)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38247)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15324)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31098)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40205)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43242)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46468)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14314)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant