Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vài nét về Phật giáo Tây Tạng

29 Tháng Năm 201200:00(Xem: 19102)
Vài nét về Phật giáo Tây Tạng

VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO TÂY TẠNG

Tulku Urgyen Rinpoche


tulkuurgyenrinpocheGiáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua. Người ta nói rằng các vị bán thần đến từ dòng dõi hoàng gia Punjabi, người đã xuống sống giữa loài người, chạy trốn theo phương bắc về vùng Hi Mã Lạp Sơn. Cuối cùng, ngài ra khỏi những rặng núi đến vùng Yarlung, Tây Tạng. Nhân dân trong vùng đã lầm tưởng rằng ngài là một bậc phi thường đến từ cõi trời, và mang ngài trên vai và chọn ngài làm vị quốc vương đầu tiên. Tên của ngài là Nyatri Tsenpo.

Bản kinh Phật đầu tiên đến với xứ Tuyết sau 35 đời các vị vua này trong một dòng liên tục truyền từ cha sang con. Vào thời điểm đó, mọi người không biết chữ, và điều này làm cho vị vua đang trị vì rất buồn. Để xua tan sự ngu dốt của dân chúng, ngài đã cầu nguyện chí thành. Nhờ lực gia trì của chư Phật, ba bản kinh của các bậc Đại giác đã từ trên trời rơi xuống mái của cung điện ngài đang ngự. Tất nhiên, không ai có thể đọc chúng, nhưng chỉ với sự hiện diện của những bản văn thần thánh này đã chuyển hóa môi trường đến mức mà mùa màng bội thu và các thế lực ma quỷ trên đất nước bằng cách nào đó đã được làm xoa dịu. Nó như thể là màn đêm dày đặc đã được xua tan một chút bằng tia sáng le lói đầu tiên của bình minh.

Năm thế hệ sau đó, vị vua vĩ đại Songtsen Gampo [616 – 698 sau Công nguyên] đã lên ngôi. Ngài mời các đạo sư Phật giáo đầu tiên đến Tây Tạng. Nhờ có công đức lớn lao của ngài, ngài đã nỗ lực để có được hai trong ba bức tượng chính được đặt ở Bồ Đề Đạo Tràng, nơi mà đức Phật đạt giác ngộẤn Độ. Hai bức tượng này được mang đến Tây Tạng như là của hồi môn của hai vị công chúa ngoại quốc mà ngài kết hôn. Một bức tượng theo công chúa của hoàng đế Trung Quốc, trong khi bức tượng thứ hai được mang đến bởi công chúa Nepal. Có thể nói rằng, triều đại ngài trị vì là lúc mà mặt trời mọc lên đến chân trời: đó là hình ảnh mà Pháp bắt đầu sự phổ biến trên vùng đất này.

Ba hay bốn thế hệ sau đó, Vua Trisong Detsen [790 – 844 sau Công nguyên] đã hứa nguyện lớn lao rằng sẽ đưa Phật giáo phát triển trên khắp Tây Tạng; điều này giống như mặt trời lên cao trên bầu trời. Trong thời đại của ngài, ngài đã mời 108 vị đạo sư vĩ đại đến Tây Tạng. Trong thời gian đó, các bậc hướng đạo tâm linh, các vị thầy và đạo sư được gọi là “pandita”. Những người mà nhận các giáo lý và dịch chúng sang tiếng Tây Tạng được gọi là “lotsawa”. Đạo sư quan trọng nhất được mời đến Tây Tạng trong giai đoạn này là Bồ Tát Khenpo nổi tiếng, ngài Shantarakshita.

Nhà vua đã có kế hoạch lớn lao về việc xây dựng một quần thể các ngôi chùa ở miền Trung Tây Tạng, quần thể ngày nay được biết đến là Samye. Lúc đó, ngài Shantarakshita là một đại Bồ Tát với lòng từ bi lớn lao và một trái tim chân thành. Bởi vì điều này, ngài không thể hàng phục các tinh linh địa phương xung quanh vùng Samye bằng các pháp phẫn nộ. Một tinh linh rồng đầy sức mạnh nói xấu về vị Bồ Tát, “Nếu những người Ấn Độ bắt đầu mang Phật giáo đến đây, sẽ rất khó khăn cho chúng ta. Hãy cùng nhau gây ra những rắc rối.” Tất cả tám loài tinh linh đồng ý hết sức ngăn cản Phật giáo phổ biến trên đất Tây Tạng bằng cách ngăn cản sự xây dựng chùa Samye. Bất cứ thứ gì được xây dựng vào ban ngày, thì ban đêm các vị thần và ma quỷ của vùng đất lại phá hủy chúng. Dường như vị Bồ Tát Khenpo không thể thành công trong nhiệm vụ của ngài.

Nhà vua rất thất vọng với sự chậm trễ tiến độ này, bởi vậy Khenpo nói với ngài rằng, “Tôi chỉ là một Bồ Tát, tôi không thể chế ngự những tinh linh mạnh mẽ trong vùng đất của ngài, nhưng đừng nản lòng, có một cách. Ở Ấn Độ, bây giờ, có một bậc vô song trong mọi cách thức; ngài không sinh ra từ tử cung. Tên của ngài là Liên Hoa Sinh, Bậc sinh ra từ Hoa sen. Nếu các vị thần và ma quỷ địa phương phản đối giáo Pháp chân thật chỉ đơn giản nghe đến tên ngài, họ sẽ vô cùng kinh hoàng và trở nên bất lực. Hãy mời ngài đến Tây Tạng, và vấn đề sẽ kết thúc.” Nhà vua hỏi, “Làm sao chúng ta có thể mời ngài?” và vị Khenpo đáp rằng, “Trong các đời trước, chúng ta đã cùng hứa nguyện, khi Nhà vua, đức Liên Hoa Sinh và tôi là anh em, những người đã giúp đỡ thiết lập một đại bảo tháp ở Boudhanath, Nepal, gọi là Jarung Khashor. Bởi vì lúc đó, chúng ta đã hứa nguyện sẽ đưa Phật giáo về phương Bắc, Đức Liên Hoa Sinh chắc chắn sẽ chấp nhận lời thỉnh mời của chúng ta; chúng ta chỉ cần đề nghị ngài đến đây thôi.”

buddhism-to-tibetĐức Liên Hoa Sinh, người không sinh ra từ một bà mẹ con người, sở hữu một sức mạnh lớn lao có thể chế ngự mọi thế lực ma quỷ. Các đạo sư khác chủ yếu chịu trách nhiệm đưa giáo Pháp đến Tây Tạng là ngài Vimalamitra, một bậc đạo sư chứng ngộ kỳ diệu, người đã đạt đến thân kim cương của sự chuyển hóa lớn vượt ra ngoài sanh tử, và đại dịch giả Tây Tạng Vairochana, một hóa thân của đức Phật Vairochana. Tựu chung lại, 108 vị pandita đã đến Tây Tạng.

Rất nhiều người Tây Tạng đã được đào tạo trở thành các dịch giả trong suốt thời gian này, để mà toàn bộ giáo lý Phật Đà, bao gồm các nghi quỹthực hành khác nhau, được chuyển dịch sang tiếng Tây Tạnghệ thống hóa một cách chính xác. Quần thể chùa Samye đã được thiết lập với sự trợ giúp của đức Liên Hoa Sinh, và Pháp được phổ biến trên khắp đất nước. Các giáo lý trong thời kỳ này được biết đến là Nyingma, hay truyền thống Cựu Dịch, để phân biệt với các giáo lý từ Ấn Độ trong giai đoạn sau, gọi là Sarma hay Tân Dịch.

Một thời gian sau khi vua Trisong Detsen qua đời là giai đoạn khủng khiếp của tôn giáo, trong đó vị vua ma quỷ Langdarma, gần như đã xóa sổ Phật giáo. Sự hồi sinh tiếp theo với sự bắt đầu của truyền thống Sarma. Các giáo lý trong giai đoạn sau này chủ yếu được dịch bởi các đại dịch giả Rinchen Sangpo và Marpa Lotsawa. Hai vị đạo sư này cùng các vị thầy khác đã đến Ấn Độ, nhận các chỉ dẫn từ các đạo sư ở đây và mang chúng về Tây Tạng. Tựu chung lại, có tám dòng truyền thừa phát triển ở Tây Tạng và sau đó được biết đến là Tám Cỗ xe của Truyền thừa thực hành. Một là Nyingma, và bảy dòng còn lại là Sarma, hay Tân Dịch.

Trong số các trường phái Tân Dịch có Marpa Kagyu, Shangpa Kagyu và Lamdrey, Lamdrey thuộc về truyền thống Sakya. Bên cạnh đó có dòng Kadampa, sau đó chuyển thành truyền thống Gelug, và dòng Shijey và Cho, nghĩa tương ứng là An dịu khổ đau và Cắt đứt. Giống như vậy, Jordruk, hay Sáu sự hợp nhất và Nyendrub hay Ba thực hành Kim Cương về Tiến gần và Thành tựu cũng xuất hiện. Tám trường phái này, tất cả đều là giáo lý Phật Đà. Mỗi trường phái giảng dạy không hề mâu thuẫn với hệ thống Kinh điển, bao gồm Tiểu thừa, Đại thừahệ thống Mật thừa, Kim cương thừa của Chân ngôn Bí mật.

Một trong các vị vua của giai đoạn này, một vị vua Pháp vĩ đại, Vua Ralpachen, cháu trai của Trisong Detsen, cũng mời các vị đạo sư đến Tây Tạng. Ngài có lòng sùng kính lớn lao với các vị hành giả Phật Pháp đến mức mà ngài đặt họ lên trên đỉnh đầu theo một cách rất phàm tục. Vào thời điểm đó có hai Tăng đoàn, bao gồm các vị tu sĩ xuất gia, được nhận biết bằng việc đầu cạo trọc và mặc y Pháp, và các vị ngakpa hay tantrika, những người được nhận ra bằng tóc tết dài, áo trắng, khăn choàng sọc. Như một dấu hiệu của sự sùng mộ chân thành của ngài, ngài để hai búi tóc rất dài tết lại và mời các vị hành giả đáng kính dẫm và ngồi lên tóc ngài. Ngài thậm chí còn dùng đá cuội để dưới chân các hành giả và để chúng lên đỉnh đầu để tỏ lòng tôn kính. Những cách hành xử của nhà vua như một vị bảo trợ lớn của Phật Pháp, cũng với sự kính trọng lớn lao của ngài với giáo pháp đã tác động tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi để giáo lý Phật Đà bám sâu và phát triển ở Tây Tạng.

Một hoàn cảnh khác mà ở đó hội đủ điều kiện hoàn hảoTây Tạng là trong triều đại của vua Trisong Detsen trước đó. Chính nhà vua cũng là một hóa thân của Đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, và thậm chí một vài trong số các vị bộ trưởng của ngài cũng là những hóa thân. Chư vị đạo sư và các vị pandita được mời đến Tây Tạng là các hóa thân của Phật và Bồ Tát, và các dịch giả trong thời gian đó cũng vậy. Trong suốt thời gian thuận lợi này, nhà vua đã hoàn thành hứa nguyện đưa Phật giáo đến với xứ Tây Tạng như là mặt trời mọc lên bầu trời cao.

Trong suốt hai thời kỳ này, các vị đạo sư và đệ tử cũng như các vị đệ tử của đệ tử đạt được sự chứng ngộ khó tin. Một vài vị đạo sư và đệ tử phô diễn những dấu hiệu chứng ngộ bằng cách bay vút lên như một đàn chim trên bầu trời. Dù các ngài bay đi đâu và dù các ngài đáp xuống đâu, đều lưu lại dấu chân trên đá. Đó không chỉ là truyền thuyết trong quá khứ; những dấu vết này vẫn được nhìn thấy cho đến ngày hôm nay, và bạn có thể đi và tìm chúng.

Trên đây chỉ đơn giản là phác thảo khi Pháp được truyền đến Tây Tạng. Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng Ấn Độ giống như cha của Pháp, Nepal giống như mẹ, và giáo lý đến với Tây Tạng là những đứa con của họ.

~

Tiếp tục theo cách thức chung liên quan đến các giáo lý Kim Cương thừa: chúng chỉ phát triển một cách rộng rãi như hiện nay trong ba đại kiếp đặc biệt. Giai đoạn đầu tiên xảy ra trước thời đại của chúng ta vô số đại kiếp, khi mà đức Phật tên là Ngondzok Gyalpo, Đấng Toàn Giác, xuất hiện. Trong thời đại của ngài, Kim Cương thừa được truyền bá rất rộng. Sau đó cho đến tận thời kỳ hiện tại của một đấng giác ngộ tuyệt đối, Đức Thích Ca Mâu Ni, giáo lý Kim Cương thừa không hoàn toàn có thể tìm thấy. Trong tương lai rất xa có một thời đại gọi là Đại Kiếp của Những Bông Hoa Đẹp, khi mà đức Phật Văn Thù Sư Lợi thị hiệnKim Cương thừa lại được phổ biến một lần nữa. Điều này không có nghĩa là những giáo lý Kim Cương thừa không được giảng dạy trong các đại kiếp ở giữa hai giai đoạn này. Nhưng chúng sẽ chỉ được phổ biến một cách không hoàn chỉnh, không theo một cách toàn diện và rộng lớn như chúng có ở hiện tại.

Thời đại hiện nay của các giáo lý do đức Thích Ca Mâu Ni truyền dạy được gọi là Thời đại của Xung đột, hay thời đại mà năm sự suy đồi trở nên lan tràn, có một sự suy giảm lớn lao – về tuổi thọ, thời đại, chúng sinh, tri kiến và những cảm xúc gây phiền hà[1]. Mặc dù mọi người tranh đấu lẫn nhau trong suốt thời kỳ này, nhưng các giáo lý Mật thừa vẫn bùng cháy như ngọn lửa mãnh liệt. Giáo Pháp cũng bùng lên như ngọn lửa cảm xúc tiêu cực. Có một kiểu chơi chữ trong tên gọi của các Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) và Phật Di Lặc (Maitreya). “Muni” nghĩa là tài giỏi, trong khi Maitreya nghĩa là Bậc yêu thương. Có một câu tục ngữ rằng, “Trong thời đại Muni, người ta cố gắng tranh đấu với nhau, còn trong thời kỳ của Maitreya, người ta yêu thương lẫn nhau.”

Trong suối Thời đại của Xung đột, dường như mọi người hiếm khi tử tế; thay vào đó, họ luôn cố gắng vượt qua người khác. Sự cạnh tranh chủ yếu này là khởi nguồn cho tên gọi “Thời đại của Xung đột”. Nhưng đây chính xáclý doKim Cương thừa có thể được thực hành trong thời kỳ này. Các cảm xúc phiền hà càng mạnh mẽ và uy lực, thì tiềm năng tỉnh thức của chúng ta càng lớn lao. Trong thời đại của đức Di Lặc, mọi người yêu thương lẫn nhau, nhưng họ không thể thậm chí không nghe đến từ “Kim Cương thừa” – có nghĩa sẽ chẳng có chút giáo lý Kim Cương thừa nào.

Có một sự thậthiện tại, chúng ta đang bị giam hãm trong những hình dạng được nghĩ đến hay trong những cơn sóng cảm xúc trào dâng, của sự sân hận chẳng hạn, khi đó sẽ dễ dàng hơn để nhận ra trạng thái trần trụi của sự tỉnh thức. Dĩ nhiên đó là trường hợp khi mà người ta được rèn luyện trong trạng thái yên tĩnh, thanh thản của thiền định không có những suy nghĩcảm xúc tiêu cực. Sau đó, vì cái được gọi là “niềm vui thú dịu nhẹ”, thực sự sẽ khó khăn hơn để nhận ra bản tánh chân thực của tâm bất nhị. Bằng cách rèn luyện hoàn toàn trong sự yên tĩnh, chúng ta có thể kết thúc trong cõi TrờiQuan Niệm, và ở đó trong nhiều đại kiếp trong trạng thái bị thu hút không ngơi nghỉ. Trạng thái này tương tự như khi say mê với những thú vui tâm linh của sự an bình và tĩnh lặng. Tuy nhiên, trên thực tế, sự yên tĩnh như một vị trời vô quan niệm này không giúp bạn một chút mảy may nào trong việc đạt đến trạng thái tỉnh thức. Trong tám trạng thái cơ bản mà ở đó người ta chưa thể giải phóng để theo đuổi con đường tâm linh, sinh ra làm một vị trời Vô quan niệmhoàn cảnh tồi tệ nhất bởi vì đó là một sự xao lãng vô cùng.

Ngược lại, trải qua những sự nản lòng lớn lao, sự sợ hãi vô cùnglo lắng căng thẳng có thể sẽ là sự hỗ trợ mạnh mẽ cho thực hành. Ví dụ, nếu chúng ta bị một căn bệnh chết người, và chúng ta đang trên bờ vực của cái chết, nếu ta có thể nhớ mà nhìn về bản tánh của tâm khi ta sắp chết, kinh nghiệm đó sẽ không giống như sự rèn luyện thông thường về sự an bình. Chính sức mạnh của cảm xúc cho phép sự thấu suốt hơn vào bản chất của tâm.

Nó cũng giống như khi chúng ta thực sự nổi giận, rất tức giận như thể chúng ta thấy có một ngọn lửa lớn đang bùng cháy, một sự tức giận hội tụ: nếu chúng ta nhận ra khuôn mặt tự nhiên của mình và buông xả, thì tại thời điểm đó, trạng thái tỉnh thức sẽ hoàn toàn trống rỗng, theo cách mà rõ ràngsinh động hơn thường lệ. Hay, nếu chúng ta bỗng nhiên sợ hãi, như khi chúng ta bị đuổi theo bởi một đàn chó dữ và tâm trở nên đau điếng, nếu chúng ta có thể nhớ, mặc dù rất khó khăn, nhận ra bản tánh của tâm lúc đó, sự thấu suốt sẽ vượt qua trạng thái bình phàm của sự thấu suốt trong thiền định. Vì thế, những xung đột lớn lao trên thế giới này ngày nay giải thích chính xác tại sao mà giáo lý Kim Cương thừa lại phổ biến như đám lửa cháy lớn.

Có ba cách tiếp cận khác nhau để thực sự ứng dụng các giáo lý Kim Cương thừa vào thực hành: lấy nền tảng làm con đường, lấy con đường làm con đường, và lấy kết quả làm con đường. Ba cách tiếp cận này có thể được hiểu bằng cách sử dụng phân tích của một người làm vườn hay một nông dân. Lấy nền tảng hay nguyên nhân làm con đường giống như là bừa đất và gieo hạt. Lấy con đường làm con đường giống như nhổ cỏ, tưới nước, bón phân và chăm sóc mùa màng. Lấy kết quả làm con đườngthái độ khi đơn giản là nhặt quả chín hay hái những bông hoa đã nở. Để làm được điều này, lấy kết quả trọn vẹn, trạng thái giác ngộ, là cách tiếp cận của Dzogchen (Đại toàn thiện). Điều này tóm tắt nội dung chính của Đại toàn thiện.

Các giáo lý chính của đức Phật nguyên thủy, ngài Phổ HiềnDzogchen, Đại toàn thiện. Giáo lý Dzogchen là điểm trọng yếu trong chín thừa. Trước khi giáo lý này đến với thế giới con người, chúng được truyền bá thông qua Gyalwa Gong-gyu, sự tâm truyền của các đấng chiến thắng, trong ba cõi thần thánh: đầu tiên ở Akanishtha, sau đó ở Tushita, và cuối cùng ở Cõi của 33 vị trời, thế giới của Đế Thích (Indra) và 32 vị vua chư hầu của ngài ngự trên đỉnh núi Sumeru (núi Tu Di).

Akanishtha gồm có hai loại: Akanishtha tuyệt đối, thường được gọi là cung điện của Pháp giới, liên quan đến trạng thái giác ngộ của chư Phật. Ngoài ra còn có Akanishtha biểu tượng, là ngôi nhà thứ năm trong số Năm Nơi chốn Thanh Tịnh và vẫn nằm trong cõi trời Sắc giới, nằm ở bầu trời bên trên dãy Tu Di. Akanishtha biểu tượng là cao nhất trong số mười bảy thế giới trong cõi trời Sắc giới, chỉ dưới ngay cõi trời Vô Sắc. Toàn bộ luân hồi bao gồm ba cõiDục giới, Sắc giớiVô Sắc giới. Bên trên cõi Dục giới, mười bảy thế giới tạo thành cõi Sắc giới. Bên trên chúng là Bốn cõi Vô Sắc giới, thường được gọi là khu vực của sự nhận thức vô cùng. Câu nói “chư Phật tỉnh giác với sự giác ngộ chân thực hoàn hảo ở trong cõi của Akanishtha” liên quan đến Pháp giới, không phải cõi Akanishtha biểu tượng.

Sau cõi Akanishtha, các giáo Pháp được phổ biến ở cõi Tushita, một cõi trong Cõi Sắc giới, nơi mà đức Di Lặc đang cư ngụ. Sau đó, trong cõi Dục giới bên dưới, các giáo Pháp được phổ biến trong cõi gọi là “Ngôi nhà của 33 vị trời.” Đức Phổ Hiền hóa thân thành đức Kim Cương Trì giảng Pháp trong cung điện của Đế Thích, gọi là “Cung điện của Chiến thắng trọn vẹn”, trên đỉnh núi Tu Di. Đây là vài nét về ba cõi thần thánh.

Nói chung, người ta nói rằng 6 400 000 giáo lý Dzogchen đến với thế giới này nhờ có ngài Garab Dorje, bậc Trì Minh Vương đầu tiên của loài người, ngài đã trực tiếp nhận các trao truyền từ đức Phật dưới hình tướng ngài Kim Cương Tát Đỏa. Các giáo lý này lần đầu tiên đến vùng Uddiyana, và sau đó được phổ biếnẤn ĐộTây Tạng. Trước thời kỳ của đức Thích Ca Mâu Ni, các giáo lý Dzogchen được truyền bá trong nơi chúng ta đang ở trong vũ trụ bởi các vị Phật khác được biết đến là 12 vị thầy Dzogchen. Đức Thích Ca Mâu Ni thường được xếp là vị hướng đạo thứ tư trong Đại Kiếp Xuất sắc này, với một nghìn vị Phật toàn giác sẽ đến với thế giới. Mặc dù trong ngữ cảnh này, ngài được biết đến là vị thứ tư, nhưng đức Thích Ca là vị thứ 12 trong các vị thầy Dzogchen.

Không có giáo lý Dzogchen nào xuất hiện mà không có sự hiện hữu của một vị Phật trên thế giới này, bởi vậy chúng ta coi ngài Thích Ca là một trong các vị thầy chính mà nhờ đó giáo Pháp được trao truyền. Thực sự, ngài đã trao các giáo lý Dzogchen, mặc dù không theo cách thông thường. Các bài giảng bình thường của ngài đơn giản giành cho những người có nghiệp lực phù hợp với giáo lý của Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát. Không phải là họ không được phép nhận các giáo lý Dzogchen; nghiệp lực của họ làm cho họ nhận được các giáo lý phù hợp. Đức Phật đã trao truyền các giáo lý Dzogchen, cũng như các chỉ dẫn Kim Cương thừa khác, bằng cách đầu tiên thị hiện một mạn đà la của vị bổn tôn và sau đó phổ biến các giáo lý Mật thừa cho đoàn tùy tùng trong sự sắp đặt đó. Tuy nhiên, điều này không nằm trong khả năng quan sát của một người bình thường.

Các giáo lý Dzogchen được giấu kín bằng ba loại bí mật: “bí mật nguyên sơ” nghĩa là tự chúng là bí mật; “bí mật ẩn giấu” nghĩa là các giáo lý không lộ ra cho mọi người; và “bí mật che đậy” nghĩa là chúng được giữ kín một cách có chủ đích. Mọi vị Phật khác cũng dạy Dzogchen, nhưng không rộng mở như dưới thời đại của đức Thích Ca Mâu Ni. Trong suốt giai đoạn này, thậm chí từ “Dzogchen” cũng trở nên rất nổi tiếng, và có thể được nghe thấy như khi cơn gió bay đi khắp nơi. Mặc dù sự phổ biến này, tự các giáo lý, chỉ dẫn cốt tủy được gắn con tem của sự bí mật.

Thông qua trí tuệ hoàn hảo, Đức Thích Ca Mâu Ni luôn giảng dạy sau khi đã cẩn thận quán xét căn cơ của chúng sinh. Nói cách khác, ngài không giảng dạy vượt quá khả năng của họ. Ngài cũng làm cho những giáo lý trở nên thích hợp với người nghe. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng những người nghe những giáo lý của ngài chỉ hấp thụ được cái mà khả năng họ có thể hiểu. Sau đó, khi mà họ lặp lại những điều mà ngài đã giảng dạy, sự thuật lại của họ là tương xứng với những điều họ nhận thấy trong các kinh nghiệm cá nhân. Nhưng các giáo lý không chỉ hạn chế trong các kinh nghiệm cá nhận của họ, người mà trong các bản văn lịch sử ghi lại là các bậc Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát. Các giáo lý mà họ trải nghiệm nằm trong các bản khác nhau của Tam Tạng Kinh điển, bao gồm Kinh, Luật và Luận. Lý dođức Phật không giảng dạy cho các vị Thanh Văn, Duyên GiácBồ Tát các giáo lý sâu hơn là bởi chúng sẽ không phù hợp với khả năng lĩnh hội của các ngài. Điều mà họ nhìn nhận được gọi là hệ thống Kinh điển phổ thông. Bên cạnh việc trao truyền các kinh điển phổ thông này, đức Thích Ca Mâu Ni cũng giảng dạy dưới ở nhiều địa điểm khác nhau trong khắp vũ trụ. Thị hiện dưới hình tướng của một vị bổn tôn ở trung tâm trong vô số các mạn đà la, ngài giảng dạy các mật điển. Theo cách này, chúng ta nên hiểu rằng chính đức Thích Ca, xuất hiện dưới nhiều hình tướng khác nhau, đã đóng vai trò quan trọng trong việc trao truyền các giáo lý Kim Cương thừa. Điều này không phải theo cách thông thường, mà rất kỳ diệu. Bởi vậy, khi chúng ta nghe rằng khía cạnh Dzogchen của Kim Cường thừa được trao truyền thông qua đức Garab Dorje, ta nên hiểu nó thực sự đến từ đức Thích Ca trong hình tướng ngài Kim Cương Tát Đỏa. Từ đó, nó tiếp tục được trao truyền qua các vị đạo sư khác – đầu tiên qua ngài Garab Dorje, sau đó qua các vị đạoẤn Độ khác nhau và cuối cùng qua đức Liên Hoa Sinh và đức Vimalamitra.

Vị thầy tổ của chúng ta, đức Thích Ca Mâu Ni, đã chỉ định ngài Liên Hoa Sinh làm vị đại diện chính yếu của ngài để giảng dạy Kim Cương thừa. Ngài nói rằng Liên Hoa Sinhhóa thân về thân của đức Vô Lượng Quang, hóa thân về Khẩu của đức Quan Âm, và hóa thân về tâm của chính ngài.

Đức Liên Hoa Sinh đến với thế giới mà không cần cha hay mẹ, ngài xuất hiện trong một đóa sen nở. Ngài sống ở Ấn Độ trong hơn một ngàn năm và ở Tây Tạng trong 55 năm trước khi ngài từ bỏ thế giới này ở một ngọn đèo tên là Gungtang, Đồng Bằng trên trời, ở biên giới Nepal – Tây Tạng. Bốn vị Dakini đã đến hỗ trợ cho con ngựa của ngài, và rước ngài đến Núi Huy Hoàng màu đồng đỏ, một cõi tịnh độ.

Kể từ khi ngài rời Tây Tạng, ngài liên tục gửi đến các vị đại diện cho ngài. Họ được gọi là các terton, hay những người phát lộ kho báu, và là hóa thân của 25 vị đệ tử chính của ngài. Ngày nay, chúng ta nói về các vị đạo sư này trong rất nhiều hóa thân khác nhau là 108 vị đại terton. Trong nhiều thế kỷ, các ngài xuất hiệnphát lộ các kho báu terma mà đức Liên Hoa Sinh đã chôn giấu trên khắp Tây Tạng vì lợi ích của các thế hệ tương lai. Các terma này được phát hiện trong rất nhiều hình tướng khác nhau như là kinh văn, chỉ dẫn, các chất linh thánh, các viên đá quý, các vật linh thiêng và những thứ tương tự thế.

Rất nhiều trong các vị terton này phát lộ kho báu mà đức Liên Hoa Sinh đã chôn giấu theo cách cực kỳ ấn tượng mà thậm chí những người luôn nghi ngờ cũng buộc phải thừa nhận giá trị của các terma. Đôi khi, một vị terton sẽ đào đá cứng lên trước sự chứng kiến của một đám đông 400 hay 500 năm người và phát lộ thứ được cất giữ bên trong. Bằng cách phô diễn các thần thôngcho phép mọi người chứng kiến tận mắt sự phát lộ, các ngài đã hoàn toàn xua tan những hoài nghi. Thông qua các hoạt động không ngừng nghỉ của đức Liên Hoa Sinh, các vị terton như thế đã tiếp tục thị hiện cho đến tận ngày nay. Vì thế, các giáo lý terma này đến trực tiếp từ đức Liên Hoa Sinh, và được phát lộ theo một cách trực tiếp không thể phủ nhận. Đó không phải chỉ là những truyền thuyết từ xa xưa: thậm chí cho đến gần đây, các vị đại terton vẫn thị hiện những thần thông phi thường như là đi xuyên qua những thứ rất cứng hay bay trên trời.

Các giáo lý Kim Cường thừa, đặc biệtgiáo lý Dzogchen, bao gồm mười bảy bộ Mật điển, được đem đến Tây Tạngtruyền bá bởi đức Liên Hoa Sinh và đức Vimalamitra. Trong khi các giáo lý nào được phổ biếnẤn Độ bởi rất nhiều các vị đạo sư khác, sự trao truyền của chúng ở Tây Tạng chủ yếu bởi lòng từ bi của đức Liên Hoa Sinh và đức Vimalamitra. Rất nhiều thế kỷ trước, khi ngài Atisha đến Tây Tạng, ngài đến thăm thư viện vĩ đại của Samye và đã rất ngạc nhiên. Ngài nói rằng, “Những kho báu này phải được mang đến từ cõi của các vị Dakini! Ta chưa từng nghe rằng có nhiều Mật điển đến vậy xuất hiện ở bất cứ đâu trên đất Ấn Độ.” Ngài công nhận rằng Kim Cương thừaTây Tạng phát triển mãnh mẽ hơn so với ở Ấn Độ.

Kể từ khi các giáo lý Phật Đà được đưa đến Tây Tạng cho đến tận ngày hôm nay, sự phát lộ vẫn diễn ra không ngừng dưới dạng các trao truyền terma mới. Trong số các terma nổi tiếng phải kể đến: Nyingtig Yabshi, Bốn nhánh của Cốt tủy tinh túy của ngài Longchenpa; Tawa Long-yang, Sự mở rộng của Tri kiến của ngài Dorje Lingpa; Konchok Chidu, Hiện thân của Tam Bảo phát lộ bởi ngài Jatson Nyingpo; và Gongpa Sangtal, Sự chứng ngộchướng ngại của ngài Phổ Hiền được tìm thấy bởi đức Rigdzin Godem. Ngoài ra còn vô số terma khác nữa. Hơn một trăm năm trước, ngài Jamyang Khyentse Wangpo phát lộ Chetsun Nyingtig, Cốt tủy tinh túy của Chetsun, trong khi ngài Chokgyur Lingpa tìm thấy Kunzang Nyingtig, Cốt tủy tinh túy của đức Phổ Hiền. Vì thế, các dòng truyền thừa Dzogchen liên tục được làm mới bằng sự tìm thấy các terma mới.

Người ta có thể hỏi, vậy mục đích của việc chồng chất các kinh văn Dzogchen là gì? Có một điểm rất quan trọng liên quan ở đây: đó là sự thanh tịnh của trao truyền. Khi các giáo lý được trao truyền xuống từ thầy sang trò, hoàn toàn có thể có một vài sự ô nhiễm, hay hư hỏng của samaya giới có thể dẫn đến sự suy giảm lực gia trì. Để giải quyết vấn đề này, đức Liên Hoa Sinh với trí tuệ thiện xảolòng từ bi vô bờ đã cho chúng ta những kho báu tươi mới được ẩn giấu. Không có gì uyên thâm hơn Ba phần của Dzogchen: Phần về Tâm, Phần về Hư Không và Phần về các Chỉ Dẫn. Khoảng cách từ vị Phật đến hành giả là rất ngắn bởi vì sự phát lộ là mới và trực tiếp; không có sự hư hỏng nào trong dòng trao truyền. Tuy nhiên sự thanh tịnh hay không không nằm ở trong chính giáo lý, mà nằm ở trong khoảng cách của dòng trao truyền. Đó là lý do tại sao mà có một sự làm mới liên tục các trao truyền Dzogchen như vậy.

Các vị đệ tử chính của đức Liên Hoa Sinh và đức Vimalamitra được biết đến là “Vua và 25 đệ tử”. Tất cả đều đạt đến thân cầu vồng, sự tan hòa của cơ thể lúc chết thành ánh sáng cầu vồng. Những hành giả như vậy chỉ còn để lại tóc và móng tay. Sau đây, tôi sẽ kể một vài câu chuyện về những người đã chứng thân cầu vồng.

Kể từ những hành giả này trở đi, rất nhiều, rất nhiều các thế hệ, như một dòng sông không ngừng chảy, rát nhiều các đệ tử cũng đã chứng thân cầu vồng. Trong tam thânPháp thân, Báo thânHóa thânBáo thân thị hiện có thể nhìn thấy được dưới dạng cầu vồng. Bởi vậy, đạt được thân cầu vồng trong đời này nghĩa là đã trực tiếp tỉnh thức trong trạng thái giác ngộ của báo thân. Một đệ tử của đại dịch giả Tây Tạng Vairochana tên là Pang Mipham Gonpo đã chứng thân cầu vồng. Đệ tử của ngài chứng thân cầu vồng, và trong bảy thế hệ sau đó, các đệ tử đều chứng thân cầu vồng. Ở tỉnh Kham của Tây Tạng, có bốn tu viện lớn của dòng Nyingma: Kathok, Palyul, Shechen và Dzogchen. Ở tu viện Kathok, tám thế hệ các hành giả đã chứng thân cầu vồng, bắt đầu từ vị sáng lậptiếp tục qua bảy thế hệ tiếp theo. Có một sự xuất hiện liên tục các hành giả từ bỏ thế giới này trong thân cầu vồng cho đến tận ngày hôm nay.

Thêm một vài ví dụ nữa: khoảng 100 năm trước, vào thời đại của ngài Jamyang Khyentse Wangpo, có một vị đạo sư vĩ đại tên là Nyag-la Pema Dudul đã đạt đến giác ngộ với sự chứng thân cầu vồng. Điều này được chứng kiến bởi 500 đệ tử của ngài. Sau đó, ngay trước khi người Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng, có một vị ni sống ở tỉnh Tsang đã rời bỏ thế giới trong thân cầu vồng. Cá nhân tôi nghe được điều này từ một người có mặt lúc đó, và tôi sẽ kể về câu chuyện này trong các phần sau của cuốn sách. Thậm chí sau khi Trung Quốc chiếm đóng, tôi vẫn nghe rằng ở Golok có ba hay bốn người đã rời bỏ thế giới trong thân cầu vồng. Bởi vậy, điều này không phải chuyện cổ tích trong quá khứ, mà là điều gì đó vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay.

 

Trích: BỨC TRANH CẦU VỒNG – TULKU URGYEN RINPOCHE

Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên.



[1] Năm sự suy đồi gồm có: (1) sự suy đồi về tri kiến bởi sự giảm sút những phẩm chất của sự từ bỏ, nghĩa là có tri kiến sai lầm [tà kiến]; (2) sự suy đồi về các cảm xúc gây phiền hà bởi sự suy giảm những phẩm chất của một người chủ nhà, nghĩa là tâm tầm thường mà trong đó sự tầm thường liên quan đến các cảm xúc gây phiền hà mạnh mẽ và dài lâu; (3) sự suy đồi về thời gian bởi sự giảm những sự thích thú, nghĩa là kỷ nguyên suy giảm của Xung Đột; (4) sự suy giảm về tuổi thọ bởi sự giảm trong những điều duy trì sự sống, nghĩa là tuổi thọ giảm, cuối cùng chỉ còn độ dài là mười năm; (5) sự suy đồi của chúng hữu tình, nghĩa là sự giảm số chúng sinh do hình dạng xấu và kích thước kém hơn, sự giảm về công đức bởi những năng lực và suy hoàng kém hơn, sự giảm của tâm do sự kém sắc bén của trí tuệ, khả năng nhớ và chăm chỉ. Vì thế, sự suy đồi của chúng hữu tình mà ở đó ba loại suy giảm đến cùng nhau, nghĩa là tâm họ rất khó để điều phục – trích trong cuốn “Ánh sáng Trí tuệ” của ngài Jokyab Rinpoche.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9824)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9827)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20398)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10212)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9849)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10227)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9803)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34219)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9523)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8627)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9178)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 10990)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8427)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9696)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9086)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20285)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19054)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8632)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8758)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 11990)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9459)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22837)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8883)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9154)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9875)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9752)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10497)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10836)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12353)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9215)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9097)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9218)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10343)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21839)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22058)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16458)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9442)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10030)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8286)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8177)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9340)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8754)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8539)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12150)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9030)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9513)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8506)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9343)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8506)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8271)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8330)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10045)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23433)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9456)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9252)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8877)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8224)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8422)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7755)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7853)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8701)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8788)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 9930)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8551)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8497)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30186)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 29883)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23981)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9150)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9519)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9375)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9399)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7746)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 8969)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 27997)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23519)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12120)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8758)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14146)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14004)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9563)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9236)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9535)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30716)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 26912)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32507)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33813)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27561)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10485)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12352)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58301)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10528)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9298)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9450)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13795)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14065)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10675)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 27906)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23088)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10036)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant