Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

[31 - 40]

27 Tháng Năm 201200:00(Xem: 5924)
[31 - 40]
SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH
(The Snow Lion’s turquoise mane, Surya Das)
Nguyễn Tường Bách dịch


31. Nghiệp cũ

Ngày xưa tại Kashmir có một tu sĩ Phật giáo tên Mirathi. Nhờ tu tập thiền định lâu ngày, Mirathi có một số năng lực đặc biệt. Học trò của Mirathi kể là ông có thể đứng trên không và xuất hiện một lúc ở nhiều nơi khác nhau. Ông có tài đọc ý nghĩ của người khác, kể tiền kiếp của người ta ra hoặc đoán biết những gì sắp xảy ra. Mirathi kiên trì giữ qui định của tu sĩ Phật giáobất bạo động, ăn chay trường. Sau buổi trưa Mirathi không ăn bất cứ thứ gì nữa cho đến sang ngày hôm sau.

Một ngày nọ Mirathi nhóm bếp trong túp lều của mình và đổ vào đó các loại đất đỏ, đất vàng để làm màu nhuộm áo. Vị tu sĩ già đang ngồi khuấy nồi nước thì có một đám nông dân đi qua, tìm hỏi một con bò chạy lạc. Một nông dân nhìn nồi nước và la lên: "Bây có thấy mấy miếng thịt đỏ, thịt vàng này không. Tên già này đã bắt con bò làm thịt và đang nấu nồi súp”. Các nông dân khác không cần hỏi dài dòng, chụp đầu Mirathi đang im lặng không nói lời nào và lôi cổ ông về làng. Vị liên trưởng trong làng kết tội Mirathi ngay đêm hôm đó, không cần biết đầu đuôi. Người tu sĩ bị xiềng hai chân, nhốt trong căn hầm tối tăm. Mặc dù học trò của Mirathi kêu oan nhưng người ta vẫn xem là có tội, vì ông không nói lời gì minh oan, rõ là một sự thú nhận.

Vài ngày sau, một kẻ chăn trừu tìm được con bò bị thất lạc. Một đám đông ồn ào lập tức tới nhà niên trưởng đòi thả ngay Mirathi. Vị niên trưởng né tránh trách nhiệm, giao cho cấp dưới thi hành và cấp dưới cho rằng không phải trách nhiệm của mình rồi lại giao cho người thứ ba, thứ tư. Cứ thế mà không ai giải quyết cả. Mirathi cứ chịu cảnh tù ngục như thế, các đệ tử nộp đơn kiện đến nhà vua. Sáu tháng sau, một học trò mới gặp được nhà vua và trình bày sự tình, một người vô tội bị giam giữ vì không người nào thấy có trách nhiệm thả ra. Nhà vua hoảng sợ khi nghe câu chuyện, vì ông là người tin nơi luật nhân quả mà người Ấn Độ gọi là “Karma”. Ông tưởng tượng một vị tu sĩ ngồi tù oan ức, thậm chí chết oan và các người có liên quan phải nhận lãnh hậu quả trăm lần. Vương quốc của ông chắc là phải chịu thiên tai bệnh tật. Ngay tức khắc vua ra lệnh thả vị tu sĩ và đưa về kinh đô. Mirathi gầy mòn chỉ còn bộ xương, được hai người học trò dìu tới trước mặt vua. Vua đã cho để sẵn ghế ngồi để tu sĩ không quì trước mặt mình. Vua hỏi: "Làm sao chúng ta có thể chuộc lại nỗi lầm này? Làm sao ta có thể xin ngài tha thứ cho? Hay ta cho tất cả những người liên quan đều chịu lại hình phạt này?”

“Không”, Mirathi đáp bằng giọng nói chắc chắn, “Xin ngài đừng trừng phạt ai cả. Tôi phải chịu trách nhiệm về cái khổ của tôi và tôi vui lòng chịu đựng. Không ai trốn khỏi nghiệp đuợc cả. Và như ngài biết, khổ chính là kết quả tất nhiên của những hành động sai trái”. Nhà vua ngạc nhiên hỏi: “Tại sao một tu sĩ cao thượng như ngài mà còn chịu khổ?” Mirathi giải thích với quần thần rằng, trong một kiếp xa xưa, ông là một tên gây nhiều tội nghiệt. Đặc biệtmột lần ông ăn trộm một con bò. Bị dân làng đuổi theo, ông chạy vào sân của một ông già, để bò lại đó và trốn thoát. Ông già bị lên án và bị giam đói sáu ngày liền.

“Vô số đời sống đã trôi qua từ đó”, Mirathi nói, “vô số lần tái sinh đã để ta trả món nợ này. Nhưng chỉ đến đời này, ta mới lấy được vị trí của ông già nọ và để tự mình sống được cái cảm giác vô tội mà bị kết án thì như thế nào. Ác nghiệp của ta như thế đã xong và ta không có gì hơn là lòng biết ơn sâu xa đối với các người liên quan và không bao giờ có cảm giác hận thù ai”.

Nói xong, Mirathi cúi đầu chào và trở lại khu rừng mà cách đó sáu tháng người ta đã bắt ông. Sau đó ông trở thành A-la-hán, là người đã vượt qua tác động của nghiệp và là người không phải thực hiện điều gì trên cõi đời này nữa.

 

32. Hai tên quỉ

Ngày xưa có hai người Bà-la-môn, bên ngoài trông rất thánh thiện nhưng thực tế lại bị tham dục và giận giữ chi phối rất nhiều. Một người tên là Pana, người kia là Nava, cả hai sống tại Ma-kiệt-đà(Magadha) Ấn Độ, chỉ vài trăm năm sau Phật Cồ-đàm.

Hai người này ngày càng lộng hành, càng có thế lựcham thích quyền lực, cả xứ Ma-kiệt-đà ai cũng sợ hãi. Họ là tác giả của nhiều vụ cướp của, giết người và tra tấn, chiếm đoạt của cải. Mãi đến khi quân lính của nhà vua bắt được và tống giam hai tên này vào ngục thì dân chúng trong vùng mới thở phào nhẹ nhõm và bắt đầu xây dựng lại cuộc sống.Dần dần ngưòi ta quên đi Nava và Pana vì cũng không ai nghĩ trong ngục thì hai người này làm được gì nữa. Thực tế lại là trong sự cô quạnh nguc tù, hai người này lại càng rơi vào thế lực đen tối của cái ác và cả hai đều nguyền rằng sau khi chết sẽ được tái sinh làm quỉ vương Yakscha. Các của cải trộm cướp được, họ nhờ bộ hạ đem tặng các tu sĩ cao cấp, chỉ với yêu cầu tu sĩ đó cầu nguyện cho người tặng. “Mong thay các vị biếu quà này được toại nguyện, dù tôi không biết đến các vị đó”.

Cầu sao thì được nấy. Pana và Nava chết trong ngục và thần thức của họ đi vào thế giới ma quỉ. Bây giờ, đối với nạn nhân của họ, hai tên này trở thành vô hình vô ảnh, tác hại của nó mới là ghê gớm. Không còn bị thế giới vật chất chi phối, hai quỉ vương này đi vào từng nhà tại Ma-kiệt-đà, ra lệnh vào những đầu óc chịu nghe và bắt đầu kích thích dục vọng của dân chúng. Không bao lâu sau, Pana và Nava gây ra một bệnh dịch tại đó và tìm mọi cách buộc những người có đức hạnh phải ra đi. Tình hình cứ kéo dài như thế cho đến lúc một kẻ biết nhìn ra sự việc và nguyên nhân mọi suy đồi trong nước và báo cho vị đạogiác ngộ Savanasika. Savanasika là tổ thứ ba của Phật giáo, lúc đó đã già, nhưng ngài liền lên đường đến Ma-kiệt-đà, ngồi thiền quán trong thế liên hoa ở một hang núi mà hai vị quỉ vương này hay lui tới và vận dụng thần thông gọi họ đến.Hai vị này không để đợi lâu. Từ xa họ đã cảm giác hào quang của vị đạo sư, họ không thích thú lắm nhưng không có cách nào khác hơn là phải đến. Càng tới gần họ càng cảm thấy căm ghét và muốn ra sức đấu với thứ ánh sáng này, ánh sáng xuất phát từ Savanasika. Với một đối thủ này, họ có cảm giác chưa hề gặp.

Trước hang núi, hai vị quỉ dừng lại, vận dụng năng lực của căm ghét lên hang và tác động cho trần hang đổ xuống đầu vị đạo sư. Savanasika vẫn an nhiên bất hoại trước hang động đổ vỡ và toát ra sự từ ái của chính tri kiến vô thượng. Hai vị quỉ đâm ra lo sợ, vận dụng sức công phá thêm một lần nữa rồi lần nữa nhưng vị đạo sư vẫn ngồi yên giữa đá sỏi bay mịt mù. Hai vị quỉ đốt lửa, ném thẳng vào vị đạo sư một thân cây cháy hừng. Thay vì rút lui, Savanasika cho khắp nơi đều biến thành biển lửa và gọi lớn: "Tự tính vốn không lay chuyển: không bị lực nào phá hủy, không lửa nào đốt cháy, không vật nào ngăn ngại”. Nhưng đó là tự tính, còn Pana và Nava cảm giác đau đớn vì lửa, lửa đang đốt cháy thân họ, nóng gấp trăm lần lúc trước, mỗi giây dài như một kiếp. Họ bò lết van xin Savanasika, thú nhận tội lỗi của mình và xin ngài chỉ cho cách thoát khỏi vòng vây hãm của bạo lực và thù hằn. Trong lúc hai vị quỉ vương phải chịu cái đau đớn mà trước đó họ thản nhiên gây cho người khác thì biển lửa đã tắt trong chân như. Chân Như đó không có gì cả mà lại chứa đựng tất cả, từ đó Savanasika đã dùng năng lực của tư tưởng để lấy ra biển lửa. Sau đó ngài bắt đầu giảng cho hai vị quỉ vương nguyên lý cơ bản của Pháp và từ phút đó hai vị này theo vị đạo sư của mình như hai cái bóng biết sám hối.

Như tất cả mọi hiện tượng thế gian, dạng quỉ sứ của hai vị này một ngày nào cũng sẽ chết đi và trong phút giây ấy, hai vị đi vào trong một tầng thiền an lạc, trong đó hai vị cũng không thể lưu trú mãi. Tuy thế, vì hai vị cũng đã trả ác nghiệp một phần, và vì thành tâm hướng theo ánh sáng nên cuối cùng hai vị cũng được sinh vào một cõi sáng sủa.

 

33. Giấc mơ của một vương tử

Tại miền Bắc Ấn Độ cách đây khoảng hai ngàn năm trăm năm có một vương quốc, do vua Udayi và hoàng hậu Vajra Devi trị vì. Vua và hoàng hậu có một hoàng tử tên là Vajriputra (21), là người sẽ kế vị. Vajriputra là một thiếu niên đẹp trai, thông thái và là con cưng của hoàng tộc. Từ rất sớm, chàng tỏ ra quan tâm tu học tâm linh hơn là việc cai quản triều đình, là việc mà người ta định trao cho chàng. Mới chín tuổi, chàng đã đặt những câu hỏi chỉ làm cho người khác nhăn trán và gây phiền muộn vì không có vị tri thức nào trong triều có thể trả lời trôi chảy.

Rồi như số phận đưa đẩy, ngày nọ vị A-la-hán Katyayana được mời vào hoàng cung giảng pháp. Cậu thiếu niên Vajriputra chỉ vừa nghe giọng nói đã xin vị A-la-hán nọ làm thầy của mình. Vua và hoàng hậu đồng ý cho Vajriputra đến Katyayana tu học. Sau thời gian thử thách, chàng được nhận làm Tăng và thay vì mặc áo lụa, chàng mặc y vàng của một người tỳ-kheo. Sau đó thầy và người học trò cạo đầu đi tu hành đến một vương quốc láng giềng. Người ta cho rằng, khi từ bỏ gia đình và sứ xở lên đường, con người đã đi dược một nửa của đọan đường thánh đạo.

Một buổi sáng nọ Vajriputra đi một vòng khất thực. Chàng đi qua các nẻo đường nhỏ của kinh đô nước láng giềng này và gặp một phụ nữ còn trẻ, người này ngoắc chàng đi vào một cái sân tràn ngập những hoa. Chàng ngần ngừ đi theo. Sau vài bước, chàng đã ở trong sân cung điện của nhà vua Prakanda, nhưng vì mới đến đây nên chàng không hề biết. Trên các phiến đá quý, giữa các lùm cây, hoa và tiếng chim hót, các nàng cung nữ đang giỡn đùa dưới ánh mặt trời ban mai. Thấy một Tăng sĩ trẻ tuổi khả ái, các nàng bật tiếng cười như ngọc và kêu gọi chàng cùng vào ngồi chơi. Sau một thời gian khất thực, chàng Tăng sĩ đói bụng được phục vụ đủ các món thượng vị, được chiều chuộng săn đón và chàng ở lại lâu hơn mức cần thiết. Đối với các nàng, Vajriputra thấy cũng nên đáp lễ bằng cách giảng vài câu kệ về ý nghĩa cuộc đời, khuyên nên từ bỏ tính chất phù phiếm của cuộc sống vô thường. Ngay cả với các câu hỏi đùa giỡn chàng cũng trả lời hết sức nghiêm túc. Trong lúc đó thì hầu cận nhà vua đã báo cáo các chuyện xảy ra trong vườn. Nhà vua không tin nhưng thân hành đến xem sự thể. Vua núp dưới vòm cây nhìn vào trong, không có cung nữ nào để ý cả, nàng nào cũng đang say mê ngắm chàng Tăng sĩ và cái miệng nói của chàng. Nhà vua tức giận quay lại bảo hầu cận: "Đám cung nữ này thì ai chúng cũng mê mệt, còn như ta đây minh triết hàng trăm lần mà chúng không hay. Để rồi xem”. Rồi nhà vua cao giọng: "Tu sĩ mà quây quần với đàn bà con gái là hư hỏng rồi. Cho nó hai chục hèo may ra tỉnh ngộ”.

Lệnh của nhà vua lập tức được thi hành. Sau đó Vajriputra bị đuổi ra trước cổng thành, mặt mày nhăn nhó vì đau và tức. Chàng thề sẽ trả thù, sẽ về ngay quê hương đem quân đi phá ngay lâu đài của Prakandas thành bình địa. Sau đó chàng về gặp thầy và kể lại câu chuyện. “Con không thể tiếp tục làm Tăng sĩ”, chàng cương quyết. “Con xin thầy cho trả lại chiếc y vàng và cho phá mọi hạnh nguyện.”

Katyayana gật đầu đồng ý nhưng khuyên chàng nên nhẫn nhục, đừng thêm một điều bất hảo bằng một điều bất hảo khác."Hãy nhớ đến lời dạy của đức Phật Cồ-đàm”, vị A-la-hán đọc:

 

“Vui mừng hay đau khổ

mất mát hay thành công

tủi nhục hay vinh quang

hãy nhận tất cả với lòng bình thản,

không tham cầu cũng không ghét bỏ.

đó là con đường thoát

khỏi vương quốc của ảo giác”.

 

Chàng hoàng tử không muốn nghe những điều đó. “Không, con đã quyết”, chàng lầm bầm, “con hứa hẹn quá nhiều, nếu từ nay chỉ biết bất bạo độnglòng từ bi. Con phải bỏ lời nguyện này thôi, vì lũ côn đồ phải trả những cái giá kiêu mạn của chúng”.

Katyayana gật đầu đồng ý, nhưng nhắc chàng rằng trời đã tối. "Con cũng biết, ban đêm đi rừng thật bất trắc; đợi đến sáng mai hãy về, hãy nhận phước lành của ta rồi sau đó con muốn làm gì thì làm”.

Vajriputra nghe lời thầy, nán lại một đêm, mỗi lần nhìn chiếc y vàng dính máu, lòng chàng còn hậm hực. Trong lúc chàng tu sĩ trẻ tuổi ngủ say, vị A-la-hán từ bi dùng năng lực trí tuệ chuyển cho chàng một giấc mơ nhiều ý nghĩa. Trong giấc mơ, Vajriputra thấy mình về nhà và sau khi phụ hoàng mất, chàng được lên ngôi. Chàng động viên binh sĩ và ra lệnh truy nã kẻ thù, biến lâu đài của Prakandas thành bình địa.

Sự thể lại xảy ra khác hẳn: chàng thất trận bị cầm tù và bị xử trảm. Một đám đông hò reo chỉ chực chờ đầu chàng bị chém. Trong phút cuối cùng bỗng chàng thấy sư phụ hiền từ hiện ra, đầy tuyệt vọng chàng kêu cứu: "Bạch thầy Katyayana, tha tội cho con, hãy cứu con!”. Chàng sợ hãi tỉnh giấc, thấy thầy ngồi bên cạnh mình an ủi: "Đừng sợ bất cứ mọi hình ảnh xuất hiện trong đời, con ạ. Tất cả chỉ là một giấc mơ. Con còn nguyên vẹn cả…”

Bỗng, Vajriputra nhận ra rằng tất cả mọi hình ảnh vừa rồi lẫn cả những biến cố có thực ngày hôm qua đều như nhau, chỉ như một cơn ác mộng. Sự sân hận và lòng thù oán của chàng kéo nhau ra đi, với tri kiến mới lạ đó, chúng biến đi như các đám mây dưới ánh mặt trời. Chàng cúi đầu ba lần trước vị đại sư, chàng biết rằng cảm tạ bao nhiêu lần cũng không đủ vị thầy đã dùng linh ảnh ngăn mình đi qua một quãng đời khác, một quãng đời có lẽ sẽ rất khủng khiếp và sẽ đưa vô số con người vào khổ ải. Rồi Katyayana đưa học trò mình đi vào chiều sâu của giáo pháp vô ngã để nhận ra rằng mọi sự không có một bản thể gì riêng biệt đứng đằng sau. Sau đó Vajriputra giác ngộ và càng thâm hiểu những gì đêm hôm đó mình đã trải qua.

Về sau, Vajriputra trở thành một trong mười sáu A-la-hán, là những vị đã truyền chánh pháp của Phật Cồ-đàm, mà ngày nay chúng ta còn biết ơn. Người Tây Tạng cho rằng, những ai lòng còn sân hận, đầy thù oán và không biết tha thứ thì hãy nên cầu vị A-la-hán Vajriputra, vì vị vương tước một thời đầy kiêu mạn này biết cách xa lánh những tâm thức đó.

 

 34. Milarepa, người ham ngủ

Thỉnh thoảng Milarepa, người du ca đắc đạo cũng rời cảnh độc cư núi rừng để về làng mạc Tây Tạng. Có lần ngài ngủ trong một tu viện, và vì ngài trông như một kẻ tu khổ hạnh hoang dã, không ai biết đến nên các vị Lạt-ma cho ngài nằm trước cửa một phòng nhỏ của vị Tăng khác. Không ai để ý đến ngài cả.

Trong phòng vị Tăng sĩ nọ đang nằm, còn Milarepa ngồi trước cửa, nhắm mắt. Vị Tăng nọ thật ra là kế toán trưởng của tu viện, lo lắng cho thu nhập của tu viện, hôm nay không ngủ được. Ông đang lo ngày mai bán con bò bao nhiêu tiền để có lời. Trong đầu ông tính toàn chuyện tiền bạc chi phí, chi li từng bộ phận con bò. Sáng hôm sau thì xem ra ông đã tính xong, chỉ trừ chưa biết giá cái đuôi bò phải đòi bao nhiêu mới phải. Ông bực mình, lầm bầm cầu nguyện cho đúng phép, thắp cây đèn mỡ bò lên, đốt hương trên bàn thờ rồi bước chân ra ngoài, đạp nhằm lên người của Milarepa. Thấy áo quần của Milarepa, ông lắc đầu nhìn con người đang nằm sóng soài trên bậc cửa. “Mặt trời lên mỗi lúc một cao, còn ngươi mê ngủ đang nằm đây, không thiền định cũng chẳng cầu nguyện cho lợi ích tập thể, mà tập thể là người nuôi dưỡng ngươi”, ông càu nhàu phê bình, “Thế mà ngươi dám nói mình là tu sĩ ư! Cho và nhận của ngươi là cái gì?”

Milarepa đáp: "Thường thì ta không ngủ lâu như thế này. Nhưng đêm qua ta chẳng được yên giấc vì suốt đêm phải tính lời lỗ về con bò, con bò hôm nay phải bỏ mạng vì ta”.

Vị Tăng nọ kinh ngạc không nói được lời gì. Mặt đỏ hồng, ông nghiêng người trước Milarepa và cảm tạ. Ông đã nhận ra đây là một sứ giả của đức Phật, Ngài đã gửi người đó đến đây để cho ông một bài học quan trọng.

 

35. Hồ đầy châu báu

Taschi la một thanh niên thích nghe chuyện. Có lần chàng nghe chuyện gần túp lều nghèo khổ của mình có một cái hồ chứa đầy vàng bạc châu báu, chàng liền lên đường tìm kiếm cho biết. Hồ nằm trên núi giữa hai sườn đầy tuyết và rất khó đến. Ngoài ra người ta còn bảo rằng, có một vị nữ thần canh giữ vàng bạc này. Vị này tu không thù địch với người nhưng cũng không dễ cho ai lấy đi các thứ đó. Là người tò mò và gan dạ, chàng sắm một cái túi và lên đường đi kiếm hồ. Chàng leo lên tới hồ thì cũng vừa đuối sức và vui mừng thấy rằng, hồ này không có màu xanh thẫm như các hồ khác ở Tây Tạng mà lại có màu vàng rực.

Lòng đầy hy vọng, chàng leo tới bờ hồ thì vừa có một đám mây đen hiện ra trên mặt hồ thành hình một nữ thần đáng sợlơ lửng trước mặt Taschi. Taschi cũng dự đoán được, chàng thu hết can đảm gọi lớn: "Nữ thần, ta có thể lấy được bao nhiêu châu báu của người?” Nữ thần nghiêng người qua lại, phát ra muôn ánh sáng khác nhau trên mặt hồ. Sau đó vị ấy nói bài kệ khó hiểu: "Người xứng đáng thì nhận mà không hỏi. Kẻ không xứng đáng thì hỏi mà không nhận”. Taschi trả lời: "Ta không hiểu người nói, ta chỉ muốn lấy những gì ta thật cần thiết thôi”.

“Thế thì cứ lấy, cứ lấy đi rồi hãy thấy”. Sau đó vị nữ thần biến mất trong không gian.

Taschi thò hai tay vào nước lạnh như băng và không bao lâu đã kiếm được ba thỏi vàng. “Juhu”, chàng nhảy lên mừng rỡ. Chàng liền cho các thỏi vàng vào túi, đồng thời nghĩ ra một điều mới. “Lượm vàng ở hồ này thật là khoẻ. Ta khỏi cần phải mang mấy cục vàng này về mà phải về ngay báo cha ta biết, ông sẽ mang bao bố đến, thậm chí hai bao bố”. Chàng cất mấy thỏi vàng dưới một cục đá bên bờ hồ rồi lên đường về nhà. Chàng thuyết phục mãi người cha mới chịu tin, sợ còn khó hơn thuyết phục vị nữ thần. Nhưng Taschi nói mãi ông cũng nghe và hai cha con leo lên đỉnh núi để thăm lại hồ lần thứ hai. Tới bờ hồ, vị nữ thần lại hiện ra, lơ lửng trên đầu hai người. “Ngươi còn muốn gì nữa. Ba thỏi vàng không đủ cho ngươi ư”. Chàng ấp úng trả lời: "Nhưng, cha tôi muốn thật sự thực sự tận mắt xem thế nào”. Chàng nhìn quanh thì thấy viên đá và các thỏi vàng hồi trước đã biến mất, chàng hỏi rụt rè: "Liệu cha tôi xin được ít vàng của người chăng? Bọc vàng của tôi hồi trước để ở đây không còn, chắc hồ đã lấy lại. Xin người cho chúng tôi mỗi người được lấy một ít rồi từ nay không bao giờ phải xin điều gì nữa”.

Vị nữ thần nhấc tay gật đầu đồng ý và biến mất. Hai cha con hiểu ý nhau và bắt đầu mò vàng.Chưa đầy phút sau, mỗi người trong tay đã lượm được ba thỏi vàng sáng loáng. Họ nhìn nhau, mắt lấp lánh. Người này nói ra ý tưởng người kia: "Ta cần ít nhất một con trâu kéo và toàn thể gia đình để chở số lượng vàng này đi, dù chỉ một nửa. Cái ta đang có chỉ là đồ cỏn con, phải tính một số lượng khác mới được”.

Hai người vứt ngay túi vào hồ và vội lên đường về nhà. Cả nhà được gọi, phân chia kế hoạch. Lúc đó trời đã tối chưa thể lên núi ngay được và bây giờ cũng là lúc cả nhà ăn mừng sắp được một gia sản kếch sù. Tất cả thực phẩm bia rượu để dành đều được đem ra ăn uống. Cả nhà say sưa bàn kế hoạch tương lai, người cha đem lưỡi cày gỗ ra đốt, vì ông không bao giờ muốn đi cày nữa. Ngày hôm sau thì ai cũng kêu than nhức đầu và một lúc sau, cả nhóm mới sửa soạn lên đường leo núi. Ngay con trâu mới mua hôm qua cũng không chịu đi theocuối cùng chạy đi mất. Chưa hết, trong nhà cãi nhau dữ dội vì việc đi đường nào, cuối cùng chia làm hai nhóm, một nhóm đi thẳng đường lên núi, nhóm kia đi vòng cho bớt nguy hiểm.

Điều gì xảy ra thật thì không ai rõ, vì sau đó mỗi người trong nhóm kể một cách khác nhau. Nhưng điều chung nhất là không ai tìm lại được cái hồ đó cả, và có ai tìm đuợc thì cũng không còn cái hồ hồi trước với nước trong vắt và các thỏi vàng, với vị nữ thần, vị chơi trò cút bắt cùng con người.

 

36. Phép tạo linh ảnh

Tại một ngôi đền nọ có một đám đông người đang tụ tập để nghe lời khai vị của một vị lạt-ma. Tại Tây Tạng, những buổi lễ đó có khi được gọi là “điểm đạo” hay “chân truyền”. Trong buổi lễ đó, người tham dự thường để dưới chân vị đạo sư một tấm khăn trắng, biểu lộ lòng sẵn sàng đón nhận giáo pháp. Các giới mộ đạo cũng hay mang theo thực phẩm hay các pháp khí nghệ thuật. Người ta tin rằng càng sẵn lòng cho bao nhiêu sẽ đuợc nhận bấy nhiêu. Giữa đám đông có một bà già, tay mang một kilo mỡ trâu. Bà dự định sẽ mang tặng phẩm này dâng cúng và nhận được phước lành của vị Lạt-ma ban phát.

Thông thường thì một buổi lễ chân truyền được chấm dứt bằng một nghi thức, trong đó các vị chủ lễ rờ đầu của mọi người bằng một bình nuớc thánh. Điều đó biểu tượng truyền tri kiến của thầy qua trò. Nhưng hôm nay, số lượng người đến quá đông, đến nỗi Lạt-ma chủ lễ phải đề nghị mọi người tự tạo hình ảnh trong đầu là Lạt-ma đã đặt bình nước trên đầu mình rồi và như vậy là nghi lễ xem như xong. Phép này được gọi là phéo “tạo linh ảnh” và thường được Phật giáo Tây Tạng áp dụng trong lúc hành trì thiền định. Đối với các vị tu sĩ tinh tấn rồi thì thực hành phép này cũng như hành động đó đã thực tế xảy ra, như trong thế giới thật. Thậm chí một số vị tu sĩ có thể vận dụng linh ảnh cho người khác thấy được nghe thấy thực sự. Tất cả các người hiện diện đều nghe lời vị Lạt-ma và tìm cách vận dụng linh ảnh, xem như vị chủ lễ đã rờ đầu mình bằng bình nước thánhtri kiến của ngài đã chảy qua mình. Bà già nọ cũng thế, nhờ tu tập lâu ngày đã tạo được linh ảnh, đã nhận được trí huệ vượt văn tựhình thức vào tâm. Sau buổi lễ, các tín đồ lần lượt đi ngang trước vị Lạt-ma. Đến lượt bà già, bà cầm kilo mỡ trâu trước mặt và nói bằng một giọng rất trầm như giọng Lạt-ma: "Và đến phiên ngài, bạch Lạt-ma, ngài hãy tạo linh ảnh trong tâm để nhận kilo mỡ trâu này, mỡ trâu đang nằm trong tay tôi đây”.

Vị Lạt-ma mỉm cười, bà già tươi cười cho mỡ trâu vào túi và lên đường về nhà, lòng tràn đầy hỉ lạc.

 

37. Lạt-ma tái sinh

Khoảng một trăm năm sau khi Dodrup Chen thứ nhất thiết lập thư viện mang tên ngài tại Golok thì người ta khám phá ra một đứa trẻ lên bốn, có rất nhiếu dấu hiệu là Dodrup Chen tái sinh. Các Lạt-ma cao cấp cho mang đứa trẻ vào tu viện, đặt lên ngai, xem là vị đạo sư cao cấp nhất. Đồng thời các vị cũng chuẩn bị một buổi lễ ra mắt.

Trong buổi lễ, mới đầu cậu bé tròn mắt nhìn xung quanh, vì toàn bộ các vị chức sắc đều mang lễ phục sặc sỡ và tỏ vẻ hết sức cung kính với mình. Trước cặp mắt ngưỡng mộ của mọi người, bỗng nhiên cậu đứng lên ngai và niệm câu thần chú gọi Guru Rinpoche (đại đạo sư) với một giọng trẻ con. Sau đó cậu bắt đầu múa, vận dụng mọi ấn quyết của Mật tông. Khi thấy các vị Lạt-ma đứng hàng đầu nhìn mình bằng cặp mắt hâm mộ, cậu bỗng sụp mi mắt xuống và ngồi xuống ngai một cách lúng túng. Các vị Lạt-ma vui mừng hết sứcchưa bao giờ cậu bé đã tiết lộ cho ai nghe bảy câu kinh bí mật để gọi Guru Rinpoche, đồng thời không ai còn nghi ngờ gì nữa, đây là một vị tái sinh của một Lạt-ma đắc đạo. Theo thứ tự, các vị nghiêng mình ba lần sát đất trước mặt cậu bé, để dưới chân cậu nhang đèn, khăn trắng và tặng phẩm khác. Sau đó người ta đưa cậu bé đi suốt trong viện. Nhằm thử xem cậu nhớ lại đến đâu, người ta chỉ để Dodrup Chen là người đầu tiên thành lập ngôi tu viện, sau đó có hai vị viện trưởng khác, cũng là các vị đắc đạo, đến rồi đi. Người ta muốn thử xem, liệu cậu bé chính là Dodrup Chen chăng. Nửa chừng cả đoàn người đến một tòa nhà nằm ngay giữa tu viện, một ngôi đền thâm nghiêm được che bởi các năng lực siêu nhiên. Giữa chính điện luôn luôn có một Tăng sĩ chuyên đọc tụng các kinh sách truyền lại và tay luôn luôn gõ trống. Đến điện cậu bé bốn tuổi đi thẳng vào đèn và thân mật ngồi bên cạnh vị Tăng đó. Mọi ngưòi đứng lại chen chúc nhìn xem từng hành động của cậu bé. Cậu bé chưa biết đọc, biết viết, tay cầm một cuốn sách tụng niệm, lật từ trang này qua trang khác, dường như kiếm một điều gì.

Tiếng ồn ào ngưng bặt và tiếng trống cũng dừng vì bỗng nhiên cậu bé cất tiếng đọc mật chú từ trong sách đó, mật chú chuyên gọi thần bảo hộ do Dodrup Chen soạn cách đó khoảng trăm năm. Đặc biệt cậu bé bỏ không đọc vài đoạn của mật chú phức tạp này. Tất cả mọi người đều vui mừng: như thế tu viện đã tìm lại được người sáng lập của mình rồi. Nhưng người vui mừng nhất là bậc trưởng lão trong giới Lạt-ma. Ngài nhớ lại rằng, trong một lần xét lại mật chú, Dodrup Chen đã cho rằng có một dòng là dư thừa và chính dòng đó đã bị cậu bé bỏ qua không đọc.

Không ai ngạc nhiên là về sau Dodrup Chen, đạo sư thứ tư của tu viện Golok rất sớm nổi danh vì cậu bé có khả năng lạ thường như đọc tâm ý người khác, tiên tri và mọi thứ thần thông khác. Các vị Lạt-ma cũng để cho cậu thực hành các thứ đó. Nhưng với số tuổi ngày càng lớn, con người đắc đạo đó không còn thích biểu diễn các phép thần thông và vì thế ngày càng giảm chuyện đó đi.

 

38. Drukpa Kunley ban phép cho một bức tranh

Tại Tây Tạng, khi hoàn thành một tác phẩm nghệ thuật người ta thường nhờ một vị Lạt-ma dùng gạo ban phép lành và điểm đạo cho bức tranh.

Ngày nọ, có một bà già tay cầm một bức tranh thanka, lên đưòng đến một tu viện, xin gặp vị viện chủ để ngài ban pháp cho. Bức tranh trình bày thần bảo hộ Sri Heruka và được cuốn tròn cho dễ cầm tay. Tu viện nằm trên một ngọn đồi. Bà vừa đi vừa nghĩ, viện trưởng là một vị đạo cao chức trọng, còn em của ngài là Drukpa Kunley lại là một Tăng sĩ phiêu bạt, thì lại không được như thế. Vị này sống không nhà, nhưng không xa tu viện. Vừa nghĩ tới đó thì Drukpa Kunley xuất hiện như một bóng ma từ sau một tảng đá và đứng trước mặt bà. Drukpa Kunley nói giọng lễ phép, đó là điều bất ngờ đối với bà, hỏi bà muốn lên tu viện làm gì. “Trên đó ông anh tôi ngồi như một lãnh chúa với đám tùy tùng”, ông nói, “ngoài ra chẳng có gì đáng coi trọng cả”.

Ai cũng biết thái độ của Drukpa Kunley đối vói các định chế tôn giáo rồi, bà già cũng thế. Bà ngần ngừ, nhưng trước sức mạnh tự nhiên của Drukpa Kunley bà không cưỡng nổi, nói rõ mục đích của mình, mở bức tranh vẽ Sri Heruka cho xem.“Cái bức tranh này mà bà muốn ban phép à?”, Drukpa Kunlay hỏi giọng ngớ ngẩn.

“Tất nhiên rồi”. Bà định nói thêm thì không ngờ người tu sĩ nọ thình lình cởi quần ra tiểu tiện vào đó. “Đây, một người như ta thì ban phép cho mọi thứ tranh ảnh thế này đây”. Nói xong, Drukpa Kunley quay người đi mất. Bà già hoảng hồn cuốn bức tranh quý giá lại và chạy lên núi. Bà tìm gặp ngay viện trưởng và hổn hển kể lại hành động kinh khủng của ông em. Viện trưởng cười lớn. Ngài không thể giúp gì được. Ngài biết cái tôi khác của ngài, thể hiện trong dạng của ông em khác đời. Ngài biết rõ đứa em phải làm thế, không thể làm khác.

“Hãy mở bức tranh ra”, ngài nói giọng êm dịu. Bà già nghe lời một cách miễn cưỡng. Và xem kìa, mặt bức tranh được tô bằng một lớp bụi vàng lóng lánh. “Sri Heruka đã tự mình ban phép cho bức tranh”, viện trưởng nói. “Bà không cần tôi nữa đâu”.

Bà già xuống núi, lòng còn chút phân vân. Cuối cùng bà treo bức tranh dát vàng lên trên bàn thờ trong nhà và về sau bức tranh được dân làng tôn thờ như một pháp khí.

 

39. Cái nhìn xấu ác

Có một ngưòi rút vào rừng núi miền Đông Tây Tạng để thực hành phép tu viễn ly. Người Tây Tạng gọi phép tu đó là Chod (23) có nghĩa là “cắt đứt” vì mục đích của phép này là cắt đứt mọi tư tưởng quán chiếu sai lầm, thứ tư tưởng chỉ làm che đậy thể tánh trong sáng của tâm thức.

Buổi sáng, người đó rời lều kiếm một tảng đá để thực hành thiền định thì người em gái mang lại một hũ sữa chua và thực phẩm cho ông. Người em đợi đến buổi tối mà ông ta chưa về nên đặt bình sữa lại dưới bàn thờtrở về nhà. Lúc ông tu sĩ nọ về tới túp lều thì trời đã tối và không thấy gì cả. Sau bàn thờ chỉ có một ngọn đèn mỡ tí hon, chiếu một cài gì tròn tròn ông chưa bao giờ thấy. “Đó là con mắt của một con ma”, ông bỗng sợ hãi, nhưng cũng lúc đó ông định thần nói: "Không, tất cả mọi sắc thể đều là Không và không có thực”. Ông cẩn thận tháo túi đeo vai và đập lên con mắt, đồng thời lòng tự nhủ kẻ tu phép viễn ly không sợ bất cứ điều gì ở thế giới này hay thế giới khác.

Bình sữa nghiêng một bên và sữa chua văng tung toé mọi phía. Sắc trắng của sữa chập chờn trong ánh sáng mờ mờ như hàng trăm con mắt ma quỉ. Người đó sợ hãi đập loạn xạ, con mắt ma bây giờ đã dính lên túi sách và lan ra khắp nơi. Người tu sĩ bỗng nhớ chỉ còn cách “cắt đứt”. Chỉ một thoáng, ông tách lìa ra khỏi tâm thức đang bị vô minh che phủ, ở đây hiện hành sự sợ hãi và nhận ngay ra tay mình đầy sữa. Cái nhìn của chính ông đã thay đổi, hết lo sợ và thế giới cũng thay đổi theo. Ông cười to.

 

40. Cuộc đua ngựa bí mật

Cách đây khoảng 130 năm có một biến cố bí ẩn xảy ra tại Kham mà ngày nay người ta còn nhắc nhở. Ngay tại Tây Tạng cũng không dễ gì có chuyện ba vị đạo sư đạođắc đạo cùng nhau gặp gỡ một nơi mà lại báo cho mọi người biết trước để già trẻ tụ họp tham gia cuộc vui. Hồi đó có ba người bạn tại Kham, tuy không thuộc trường phái nào, nhưng lại được tôn kính như các Lạt-ma cao cấp. Người thứ nhất tên gọiKhyentse, thứ hai là Jamgon Kongtrul (24) và thứ ba là Chogyur Lingpa. Cả ba có chung một đặc tính là trong mỗi ngưòi đều chứa đựng những kiến giải cao siêu nhất, nhưng mỗi người lại đều có tính khí khác nhau và một cách riêng để thức tỉnh, giáo hóa và giúp đỡ người khác.

Một ngày kia người ta đồn rằng ba người này sẽ tổ chức một cuộc đua ngựa tại bờ sông Derge. Ai cũng ngạc nhiên về mục đích của trò này nhưng mọi người đều nô nức đến xem, hy vọng có điều gì lạ. Cuộc đua ngựa được tổ chức thật. Ba vị đạođắc đạo ngồi trên lưng ngựa, khán giả reo hò, nhưng họ phân vân không biết mình sẽ ủng hộ ai thắng, hay liệu cuộc đua này chẳng có người thắng kẻ bại. Cuối cùng thì người ta thấy rằng ngựa của Jamgon Kongtrul về cuối. Mọi người lại cực kì ngạc nhiên khi thấy kẻ thua cuộc lại khóc ròng vì người đắc đạo ai lại còn quan tâm đến chuyện được thua, huống hồ là một cuộc đua ngựa. Người ta đoán rằmg có lẽ Jamgon Kongtrul già nhất trong ba người và tính của ngài cũng rất mềm mỏng vì vậy mà ngài buồn chăng. Ba ngày sau, Jamgon Kongtrul mới giải thích như sau: “Ta khóc vì cuộc đua có giá trị tượng trưng. Trong một linh ảnh ta đã được báo trước là người thua là kẻ chết sau cùng và là kẻ cuối được vào cõi Phật của Liên Hoa Sinh”. Ta sẽ phải sống dài hơn Khyentse vị tha và Chogyur Lingpa vô song, đó là một điều đáng buồn”.

Đúng như Jamgon Kongtrul tiên tri, vị Lạt-ma này sống rất cao tuổi, sống rất lâu sau ngày các bạn kia nhập diệt và phải đợi đến năm 1899 mới được gặp các bạn trong cõi Phật Liên Hoa Sinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10045)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10445)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10060)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20247)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11544)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13701)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 18962)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46569)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12021)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11586)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 22939)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17746)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10057)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17593)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13823)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 13956)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15004)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20185)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18155)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17274)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18061)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12622)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12734)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13322)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 16911)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11402)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18203)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18515)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21252)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22017)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16776)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12496)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15256)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24405)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14160)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11552)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19539)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13307)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22703)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18904)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18368)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21519)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20464)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 19934)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13970)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14942)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13728)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15041)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17136)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15194)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12752)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15803)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12889)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13046)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 14951)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22523)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7081)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19257)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37443)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9080)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8568)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17778)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14815)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 26926)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19824)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15209)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15398)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26710)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14485)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19566)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14530)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18571)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15830)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16260)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19293)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19647)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19832)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18545)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29699)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14512)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17682)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32295)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15213)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17230)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29645)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31371)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64546)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32687)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20132)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18449)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30691)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19825)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45814)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32478)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39212)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40315)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 49976)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19036)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18472)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20602)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant