Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ba Kim Cương

17 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 17473)
Ba Kim Cương
BA KIM CƯƠNG
Tulku Urgyen Rinpoche
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên


tulkuurgyenrinpoche-bakimcuongBây giờ tôi muốn giải thích về ba lời khuyên của ngài Atisha, gọi là Ba Kim Cương. Trong rất rất lâu, chúng ta trôi lăn trong luân hồi từ đời này sang đời khác. Chúng ta đã chết và tái sinh và lại chết, điều này gần như vô tân. Cứ như thể chúng ta đang đi xuyên qua một đại dương rộng lớn. Đức Phật dạy rằng, “Luân hồi giống như một đại dương khổ đau bất tận.” Hãy chú ý rằng ngài không nói nó là đại dương của hạnh phúc: luân hồi luôn được gọi là “bể khổ”, chưa bao giờ là “bể hạnh phúc.”

Nếu chúng ta nhận ra sự thật này và tin tưởng vào nó, nếu chúng ta thực sự mong muốn thoát khỏi khổ đau này, ai có thể giải thoát cho chúng ta? Không phải là người cai trị đất nước chúng ta đang sinh sống, không phải cha hay mẹ chúng ta, cũng không phải bạn bè, đầy tớ, sự nổi tiếng hay tài sản của chúng ta – không điều gì trong những thứ này có thể giải thoát chúng ta khỏi luân hồi ảo mộng. Chỉ có những cố gắng về tâm linhchúng ta thực hiện mới có thể làm vậy. Khi chúng ta hiểu điều này, chúng ta không nên để bản thân bị ngăn cản hay do dự khỏi con đường đó. Bởi vậy lời khuyên đầu tiên của ngài Atisha là “Hãy đặt trước bạn chày kim cương không thể rung chuyển của sự quyết tâm.”

Hãy đặt trước bạn chày kim cương của sự quyết tâm có nghĩa là: đừng để bất cứ ai – dù họ là ai, thậm chí vị thầy tâm linh của bạn – làm bạn nhụt chí trong việc thực hành Pháp. Một vị đạochân chính, muốn bạn được giải thoát, sẽ không bao giờ nói, “Đừng theo đuổi Pháp.” Bởi vậy, bước đầu tiên trong việc theo đuổi con đường tâm linh là hình thành một thái độ không thể rung động, “Tôi sẽ không để người hay việc gì cản ngăn trên con đường hành Pháp.” Nếu thầy bạn nói rằng, “Đừng theo đuổi thiên hướng tâm linh của con,” bạn có lẽ đã sai lầm trong việc chọn đạo sư.

Tương tự, đừng để bất kỳ ai mua chuộc hay đe dọa bạn không tham gia vào vấn đề tâm linh. Ai đó có thể nói rằng, “Tôi sẽ tặng bạn một nửa tài sản trên thế giới này nếu bạn hứa không thực hành Pháp nữa. Chỉ cần từ bỏ tâm linh, và tôi sẽ đưa tiền cho bạn.” Chúng ta không nên để kiểu dụ dỗ này lôi kéo mình. Mặt khác, ai đó có thể đe dọa bạn, chĩa súng vào ngực bạn và nói, “Tôi sẽ bắn anh trừ phi anh hứa sẽ từ bỏ những nỗ lực về tôn giáo!” Bằng miệng của mình, dĩ nhiên, bạn sẽ nói, “Vâng, tôi sẽ từ bỏ nó,” nhưng thực sự bên trong, từ tận trái tim, bạn chắc chắn không nên đồng ý như vậy.

Có một sự áp dụng ít gây ấn tượng hơn và thực tế hơn nhiều của điểm này, đó là lý do mà tôi nêu ra. Chúng ta thường nghe rằng, “vẻ bề ngoài rất hấp dẫntâm không kiên định.” Vẻ bề ngoài quyến rũ nghĩa là khi chúng ta thấy một vẻ đẹp, nghe thấy một âm thanh dễ chịu, ngửi thấy một mùi hương ngọt ngào, ăn những món ngon, và cảm thấy những vật dễ chịu chạm vào cơ thể, tâm chúng ta ngay lập tức bị cuốn hút. Những đối tượng dễ chịu này thu hút và tóm lấy sự chú ý của chúng ta. Mặt khác, khi chúng ta gặp phải điều gì đó không dễ chịu – một hình dạng xấu xí, một âm thanh khó chịu, mùi hương ghê tởm, vị khó chịu hay những kết cấu thô ráp – chúng ta cảm thấy ghê tởm, và thậm chí là thù ghét. Tâm nhị nguyên là sự bất ổn định cơ bản trong khía cạnh này. Kiểu chú ý này dễ dàng bị thu hút nhưng cũng dễ dàng tắt ngấm là sự bất ổn định vốn có. Khi trạng thái bất ổn định, không kiên định của tâm này gặp phải những hiện tượng hấp dẫn, nó sẽ bị cuốn đi ngay. Để tránh việc này, chúng ta cần một sự phân tích chắc chắn không dao động. Đây là điểm đầu tiên trong ba điểm: mà Đức Atisha bảo chúng ta hãy quyết định chắc chắn, “hãy đặt trước bạn chày kim cương của sự quyết tâm.”

Điều thứ hai trong ba Kim Cương là, “Hãy đặt sau bạn chày kim cương của sự tự tin.” Khi chúng ta bắt đầu thực hành Pháp, ta sẽ cảm thấy mong muốn lớn lao được giải thoát. Chúng ta muốn từ bỏ sự dính líu đến luân hồi thông qua con đường tâm linh. Tuy nhiên, có một câu ngạn ngữ trong tiếng Tây Tạng là, “Một thiền gia mới từ bỏ vàng, trong khi các thiền gia lâu năm lại thu thập các đế giày mòn của mình.” Nói cách khác, ban đầu chúng tacảm giác rằng chẳng có vấn đề gì trên đời cả; chúng ta có thể dễ dàng từ bỏ tất cả, và nghĩ rằng, “Tôi không còn bám chấp vào bất cứ thứ gì!” Sau đó một cách chậm rãi, sau hai hay ba năm chúng ta bắt đầu cảm thấy chán ngánmệt mỏi. Thậm chí những chiếc đế giày cũ cũng mang trên mình một tầm quan trọng mới. Có thể chúng ta nghĩ rằng, “Những cái này có thể cắt ra và dùng làm dây buộc bò yak lại.” Chúng ta bắt đầu nắm lấy một số thứ, lên đủ loại kế hoạch sử dụng chúng sau này.

Đặt sau bạn chày kim cương của sự tự tin cũng liên quan đến sự gây ấn tượngchúng ta tự làm với bản thân và người khác. Ví dụ, khi người ta biết rằng một cá nhân đang tiến các bước trên con đường tâm linh, một trách nhiệm cũng luôn đi kèm. Nếu sau đó người đó quay trở lạitừ bỏ nó, hành động đó sẽ phá hủy nhận thức thanh tịnh trong người khác và thậm chí có thể làm lụi bại Pháp vì họ. Vì vậy, tốt hơn là nên bắt đầu một cách chậm rãi và tiến bộ dần dần trên con đường thay vì bắt đầu một cách thông minh và sau đó trở nên chán nản và vô cảm.

Chúng ta nên như một con nai rừng bị rơi vào bẫy. Khi nó cố gắng kéo mạnh chân nó [khỏi cái bẫy] nó sẽ dần dần lao đến một nơi không người cư trú. Tốt nhất là chúng ta nên tạo ra thái độ này. Sau đó, trong thân này và trong đời này, chúng ta có thể từ bỏ mọi bám chấp vào quê hương và các mối liên hệ cá nhân. Sống ở một vùng xa lạ, chúng ta như một đứa con của những ngọn núi. Theo cách này, cả bản thân chúng ta và nhiều người khác sẽ được lợi lạc. Những người khác sẽ thấy rằng giáo lý thực sự chính xác, và sẽ có được sự tự tin rằng thực hành có thể từ bỏ luân hồi trong chính cuộc đời này và đạt được một vài sự chứng ngộ. Bởi vậy, điều quan trọng là quyết định ngay từ đầu, đặt chày kim cương của sự tự tin đằng sau bản thân chúng ta. Sau đó ta sẽ không thấy hối tiếc cho bất cứ việc gì chúng ta làm.

Kim Cương thứ ba là “Hãy đồng hành cùng với chày kim cương của trí tuệ thanh tịnh”. Ở đây, sự thanh tịnh của trí tuệ liên quan đến sự thanh tịnh của tâm tỉnh giác nguyên sơ. Đây là Phật tánh của chúng ta, bản chất giác ngộ, cũng được gọi là rangjung yeshe, tâm tỉnh thức tự tồn tại. Đầu tiên chúng ta nên nhận ra điều này, dứt khoát về nó và chắc chắn về khả năng của chúng ta có thể giải thoát khỏi mọi trạng thái suy nghĩ. Sau khi đã nhận ra, chúng ta rèn luyện trong sức mạnh của sự nhận ra đó, cho đến khi cuối cùng chúng ta đạt được sự ổn định. Quyết định làm như vậy chính là chày kim cương thứ ba – “Hãy đồng hành với chày kim cương của trí tuệ thanh tịnh.” “Chày kim cương của trí tuệ thanh tịnh” là tâm tỉnh thức tự tồn tại, luôn có sẵn trong chúng ta bởi vì đó là bản chất của chúng ta. Để hình thành sự quyết tâm, “Tôi sẽ nhận ra bản tánh của tôi như nó vẫn là!” là chày kim cương cuối cùng trong Ba Kim Cương.

Cũng có một chuỗi các câu nói của ngài Atisha được gọi là “Bốn Mục tiêu”. Đầu tiên là “Hướng tâm của bạn về với Pháp.” Điều này nghĩa là mục đích cuối cùng của bạn phải hướng đến cái mà thực sự và ý nghĩa thay vì là những bám chấp tầm thường. Khi chúng ta hướng mục tiêu về với Pháp, chúng ta có thể giải thoátgiác ngộ; nhưng nếu chúng ta hướng về những thành tựu tầm thường, chẳng có cách nào trên đời để ta có thể giải thoát hay giác ngộ.

Ngài Atisha cũng nói rằng, “Hãy hướng Pháp của bạn về với cách sống đơn giản,” không phải là tài sản giàu có. Sẽ dễ dàng hơn để theo đuổi giáo Pháp nếu chúng ta chỉ là một hành giả. Nếu ta tích lũy rất nhiều tài sản trước khi bắt đầu thực hành Pháp, chúng ta sẽ cảm thấy cần duy trì một mức sống ổn định. Sẽ cần rất nhiều nỗ lực để tăng tài sản, để bảo vệ chúng, và chắc chắn rằng chúng không hết. Điều này kéo theo rất nhiều lo lắng và vướng bận; bởi vậy, tốt nhất là hướng sự thực hành của bạn đến một cuộc sống đơn giản.

Mục tiêu thứ ba là “Hướng đến cuộc sống đơn giản trong suốt cuộc đời,” không phải chỉ trong một thời gian ngắn. Đừng nghĩ rằng, “Tốt thôi, tôi sẽ thực hành Pháp như một hành giả đơn giản trong một lúc và sau đó sẽ thành tựu lớn lao, trở nên giàu có và quan trọng.” Đừng bao giờ nghĩ theo hướng này. Thay vào đó, hãy hướng về việc duy trì là một hành giả đơn giản trong suốt cuộc đời, cho đến tận khi chết.

Cuối cùng ngài Atisha cũng dạy, “Hãy hướng cái chết của bạn đến một sự cô độc.” Điều này có nghĩa là hãy quyết định chết một mình và không hề có bạn trong một khu nhập thất hẻo lánh hay một vùng hoang vắng, mà không bị vây quanh bởi các thị giả và bạn đồng hành. Đây là “Bốn Mục tiêu.”

Ngài Atisha cũng bảo chúng ta cần “ngồi ở một cái ghế thấp”, tức là giữ hạnh khiêm cung. Đừng nỗ lực để cao lớn và quan trọng. Hãy chỉ mặc quần áo đơn giản, không phải quần áo đắt tiền; hãy mặc bất cứ thứ gì mà bạn có được. Hơn thế nữa, ngài nói rằng, “Hãy làm cho thức ăn, quần áo và danh tiếng thất bại.” Ví dụ, khi một cuộc tranh luận kết thúc, một bên thắng trong khi bên khác thua. Nói cách khác, đừng để tâm bạn bận tâm với thức ăn, quần áo, danh tiếng và sự quan trọng.

Ngài Atisha cũng dạy rằng, “Hãy là thầy của chính mình.” Hãy là người hướng đạo của chính mình. Đừng duy trì trong trạng thái mà ở đó bạn luôn nhận lệnh từ người khác. Hãy sống theo cách mà bạn dựa vào chính bản thân mình. Nếu bạn có thể làm như vậy, bạn có khả năng là một hành giả thanh tịnh.

Đức đạo sư vĩ đại, ngài Atisha cũng sống theo những nguyên tắc này, và đạt được những thành tựu lớn lao. Chúng ta nên cố gắng hết sức để áp dụng các lời khuyên của ngài.

Khi bạn quyết định thực hành Pháp, hãy theo nó đến cuối cùng. Nếu không, như ngài Patrul Rinpoche đã từng nói, “Khi còn trẻ, chúng ta bị kiểm soát bởi người khác và chẳng thể thực hành.” Thông thường, cho đến khi người ta 17, hay 18, họ phải nghe lời cha mẹ hay ngập đầu trong trường học hay ở nhà; họ không thể đi khỏi và thực hành. Patrul Rinpoche tiếp tục nói rằng, “Khi trưởng thành, chúng ta theo đuổi sự thoải mái và không thể thực hành. Khi chúng ta già, chúng ta mất đi khả năng và không thể thực hành. Chao ôi! Chúng ta phải làm gì bây giờ?”

Bởi vậy, nếu muốn thực hành, chúng ta cần quyết định cách thức để làm như vậy. Tốt nhất là chúng ta có thể là những hành giả hoàn hảo, thanh tịnhchí thành. Nếu không, ít nhất cũng cần thể hiện một nữa trong số những điều kể trên, hay ít nhấtsuy nghĩ đến từng phần của lời khuyên này và sống với nó.

Đức Phật đối xử với mọi hữu tình chúng sinh như thể là với cha mẹ hay con cái của ngài. Khi ngài nói và đưa ra các lời khuyên, ngài cũng làm vậy một cách chân thành như cha hay mẹ, trên giường bệnh với cái chết đang đến gần, nói những lời cuối cùng với con trai hay con gái. Với sự nhận thức này, mọi giáo lý của đức Phật là những lời nói đến từ trái tim, như là lời khuyên cuối cùng của cha mẹ sắp chết.

Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng. Sau đó, chúng ta quán chiếu về chúng, cố gắng hiểu một cách rõ ràng. Thứ ba, chúng ta rèn luyện trong chúng, mang mọi điều đã học vào thực hành. Nên có một vài sự ảnh hưởng từ điều này. Nghiên cứu giáo lý Phật Đà nghĩa là chúng ta học về các hành động thiện và ác. Chúng ta hiểu các sự lựa chọn của mình. Chúng ta hiểu rằng mọi thứ đều tạo ra bởi các hành động nghiệp và các cảm xúc gây phiền hà của chính chúng ta, và chúng ta phát hiện ra cách để tịnh hóa và tiêu trừ chúng. Bằng cách nghiên cứu điều này, quán chiếu về nó và cuối cùng áp dụng nó, sẽ có một vài kết quả. Người ta nói rằng kết quả của việc nghiên cứuquán chiếu là việc người ta sẽ trở nên tốt bụng và kỷ luật hơn. Kết quả của việc thiền định là các cảm xúc gây phiền hà như là thù ghét, gắn bó và ngu dốt sẽ dần dần giảm bớt. Đây là dấu hiệu chân thực của việc thực hành thiền định.

 

Trích: Bức tranh Cầu vồng, Tulku Urgyen Rinpoche.
Việt dịch: Nhóm Thuận Duyên.

 

(CÙNG DỊCH GIẢ)

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31672)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10532)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11232)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12759)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10813)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16669)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10821)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22969)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11497)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10688)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12341)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11199)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10026)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10333)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11922)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10702)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12377)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9817)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11276)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13846)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9582)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12635)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9705)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10461)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10558)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10326)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9907)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11061)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12021)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10147)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10788)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8772)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9500)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14527)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8782)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12556)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10427)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10562)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8807)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10520)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9196)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12033)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10218)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19146)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9417)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9021)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14761)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8354)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8953)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8976)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8744)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9371)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14602)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9041)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8777)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9050)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10536)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8643)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9994)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24288)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10178)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11030)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9003)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9472)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8005)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9271)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10340)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9584)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21403)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12168)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19242)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26049)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10636)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9535)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12367)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10757)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13346)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9274)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9387)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15903)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant