Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đoạn 1

04 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8671)
Đoạn 1

TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU GIẢNG GIẢI

HT Thích Thanh Từ

ĐOẠN 1

TỰA

CHÁNH VĂN:

Có vị Đại Thiền sư pháp hiệu Hy Vận ở dưới ngọn Thứu Phong, núi Hoàng Bá huyện Cao An, Hồng Châu. Ngài là đích tôn của Tào Khê Lục Tổ, là pháp điệt (con cháu) của Bách Trượng, Tây Đường. Ngài riêng mang ấn tối thượng thừa, rời văn tự, chỉ truyền dạy một tâm, không có pháp gì khác, tâm thể cũng không, muôn duyên đều lặng, như mặt trời lên trên hư không sáng suốt chiếu soi không có một mảy bụi.

GIẢNG:

Bài tựa này do ông Bùi Hưu viết. Ông là vị cưđắc pháp nơi Thiền sư Hoàng Bá, nên rất mực qui ngưỡng Sư. Thiền sư Hy Vận ở núi Hoàng Bá, chúng ta gọi Ngài là Hoàng Bá tức gọi theo tên núi, vì quí kính Ngài nên gọi tránh như thế. Ngài là đích tôn của Tào Khê Lục Tổ tức cháu lớn của Lục Tổ. Dưới Lục TổNam Nhạc Hoài Nhượng, dưới Nam Nhạc Hoài NhượngMã Tổ Đạo Nhất, dưới Mã Tổ Đạo NhấtBách Trượng Hoài Hải, Ngài là đệ tử của Tổ Bách Trượng. Như vậy Ngài là cháu đời thứ tư của Lục Tổ, nên gọi là đích tôn, là pháp điệt của Bách Trượng, Tây Đường, tức cháu của Thiền sư Tây Đường Trí Tạng.

Ngài riêng mang ấn tối thượng thừa, rời văn tự, chỉ truyền dạy một tâm, không có pháp gì khác. Chỗ này nói đến lý rời văn tự. Duyên do vì ông Bùi Hưu tới chùa Khai Nguyên, gặp Ngài đang ẩn nghỉ nơi đây. Tướng quốc Bùi Hưu bấy giờ là một vị đại quan đời Đường, nên thầy Trụ trì đón tiếp rất đàng hoàng. Bùi Hưu tới nhà Tổ thấy hình các vị Cao tăng vẽ trên vách, ông hỏi thầy Trụ trì:

- Hình Cao tăng ở đây, mà Cao tăng ở đâu?

Thầy Trụ trì không có câu trả lời. Bùi Hưu hỏi tiếp:

- Trong đây có Thiền sư không?

- Mới có người tới, dáng vẻ giống như Thiền sư.

Bùi Hưu bảo:

- Xin Thầy mời vị đó ra cho.

Thầy Trụ trì mời ngài Hoàng Bá ra. Thấy Ngài, Bùi Hưu thưa:

- Khi nãy tôi có một câu hỏi Hòa thượng Trụ trì, nhưng Ngài tiếc lời không đáp, giờ xin hỏi Thiền sư: “Hình Cao tăng ở đây mà Cao tăng ở đâu?”

Ngài Hoàng Bá gọi:

- Bùi Hưu!

Bùi Hưu ứng thinh:

- Dạ.

Ngài Hoàng Bá hỏi:

- Ở đâu?

Ngay đây, Bùi Hưu biết chỗ ở của Cao tăng.

Ở đây nói “rời văn tự”, vì câu đáp trên của ngài Hoàng Bá không có trong kinh văn nào cả. Chúng ta ngày nay phần nhiều giải thích, rồi dẫn kinh làm chứng. Còn Ngài kêu “Bùi Hưu”, cư sĩ ứng thinh “dạ”, Ngài hỏi “ở đâu” liền xong. Có kinh nào dạy câu đó không? Không. Cho nên nói “giáo ngoại biệt truyền” là nghĩa này vậy. Nói rời văn tự, chỉ truyền dạy một tâm, tức không có văn tựchỉ thẳng tâm, chớ không có gì khác. Giai thoại này cho chúng ta thấy rõ thêm tướng quốc Bùi Hưu và Tổ Hoàng Báliên hệ với nhau như thế.

CHÁNH VĂN:

Người chứng đó, không mới cũ, không sâu cạn. Người nói đó, không lập nghĩa giải, không lập tông chủ, không mở cửa nẻo, thẳng đó là phải, động niệm liền trái, nhiên hậu mới là bổn Phật. Cho nên lời nói kia rất gọn, lý ấy chỉ thẳng, đạo cao vót, hạnh này riêng biệt.

GIẢNG:

Người chứng đó, không mới cũ, không sâu cạn. Sao không mới cũ, không sâu cạn? Bởi vì tâm thể không hai, nó vốn có sẵn, không phải cũ cũng không phải mới, không sâu cũng không cạn. Biết được tâm thể thì tâm thể là vậy thôi.

Người nói đó, không lập nghĩa giải, không lập tông chủ, không mở cửa nẻo, thẳng đó là phải, động niệm liền trái, nhiên hậu mới là bổn Phật. Như trường hợp ngài Hoàng Bá chỉ cho Bùi Hưu Cao tăng ở đâu, là chỉ bằng tông chỉ nào? Ngài gọi một tiếng, Bùi Hưu liền dạ, Ngài hỏi ở đâu là rồi. Cho nên nói không lập tông chủ, không mở cửa nẻo, thẳng đó là phải, ngay nơi chỗ vừa thốt lên, dạ đó là phải. Động niệm liền trái, dấy niệm là trật rồi, nhiên hậu mới là bổn Phật, thấy được như vậy mới là ông Phật gốc của mình.

Cho nên lời nói kia rất gọn, lý ấy chỉ thẳng, đạo cao vót, hạnh này riêng biệt, vì vậy lời nói quá gọn, lý thì chỉ thẳng, đạo lại cao vót, hạnh chẳng riêng biệt.

CHÁNH VĂN:

Học giả bốn phương trông núi này đua nhau đến, nhìn thấy tướng là ngộ, hải chúng tới lui thường hơn ngàn người.

GIẢNG:

Dưới hội ngài Hoàng Bá chúng hơn một ngàn. Đó là nói đạo đức và lối chỉ dạy của ngài Hoàng Bá cảm hóa được rất nhiều người.

CHÁNH VĂN:

Hội Xương năm thứ 2 (842 TL), tôi trấn nhậm Chung Lăng (Hồng Châu) đích thân lên núi rước Ngài đến bổn châu, nghỉ ở chùa Long Hưng, sớm chiều hỏi đạo. Đại Trung năm thứ 2 (848 TL), tôi đổi đến Uyển Lăng (Tuyên Châu) cũng đi lễ thỉnh Ngài đến sở bộ an cư ở chùa Khai Nguyên. Tôi sớm chiều đến thọ pháp, trở về ghi lại mười phần được một hai, đeo làm tâm ấn không dám bày ra. Nay sợ e tinh nghĩa nhập thần đời sau không được nghe, bèn trao nó cho môn hạ tăng Đại Châu, Pháp Kiến trở về núi xưa chùa Quảng Đường, hỏi Trưởng lão pháp chúng những ngày trước gần gũi được nghe, đồng khác thế nào.

GIẢNG:

Tướng quốc Bùi Hưu thỉnh ngài Hoàng Bá đến Uyển Lăng, rồi về chùa Khai Nguyên v.v… tức những nơi Ngài trực tiếp giảng dạy cho ông. Ông nghe nhận và ghi chép, cho đó là tinh nghĩa nhập thần của ông, nhưng sợ cái nghe của mình không được trọn vẹn, không sáng sủa, nên đưa cho đệ tử của Tổ Hoàng Bá coi lại, tức các Trưởng lão trong Pháp chúng, so sánh với những lời của các vị này được nghe, có đồng với lời của ông đã nghe hay không. Các vị Trưởng lão thấy lời ông ghi chép rất hay, rất đúng nên đưa vào phần Ngữ lục, gọi là “Pháp yếu truyền tâm Thiền sư Đoạn Tế Hoàng Bá”. Như vậy quyển luận Truyền Tâm Pháp Yếu này ra đời là do ông Bùi Hưu ghi chép lời dạy của Tổ Hoàng Bá.

CHÁNH VĂN:

PHÁP YẾU TRUYỀN TÂM

THIỀN SƯ ĐOẠN TẾ Ở NÚI HOÀNG BÁ

Sư bảo Hưu rằng:

Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm này từ vô thủy tới nay không từng sanh không từng diệt, không xanh không vàng, không hình không tướng, không thuộc có không, không kể mới cũ, chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn chẳng nhỏ, vượt qua tất cả hạn lượng danh ngôn dấu vết đối đãi, chính thẳng đó là phải, động niệm liền trái.

GIẢNG:

Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, phải hiểu chữ một tâm này cho rõ, đừng bị lầm. Phật với chúng sanh chỉ có một tâm, nếu Phật giác ngộ lẽ ra chúng sanh cũng giác ngộ, nhưng tại sao Phật giác ngộchúng ta lại không giác ngộ? Nếu một tâm thì tất cả chư Phật không hai, tại sao lại có Phật Di-đà, Phật Ca-diếp, Phật Thích-ca, vô số Phật như vậy? Chỗ này người ta dễ lầm, như Bà-la-môn giáo cho rằng chỉ có một Phạm thiên, khi tu đại ngã của họ thể nhập vào đại ngã Phạm thiên, thế là xong. Như vậy chỉ có một đại ngã, bao nhiêu người tu đều nhập về đó hết. Nếu Phật nói một tánh giác chung thì Ngài thành Phật chúng ta cũng được ảnh hưởng, sao Phật thành Phật lâu quá mà mình còn ngồi đây? Đó là một lý.

Lý thứ hai, nếu là một thì chỉ có một vị Phật, như Bà-la-môn giáo chỉ có một Đại Phạm thiên gọi là đại ngã, sao chúng ta lại có vô số Phật, vậy vị Phật nào là chủ? Chỗ này kinh Viên Giác dùng thí dụ thật hay. Nói rằng trong một ngôi nhà tối có đốt một trăm ngọn đèn riêng khác, nhưng ánh sáng của một trăm ngọn đèn đó hòa nhập vào nhau chỉ có một, không sai khác. Như vậy ngọn đèn tuy khác nhưng ánh sáng thì đồng. Cho nên chữ một là nói về ánh sáng chớ không phải nói về ngọn đèn. Một mà không phải một, mới có vô số chư Phật. Mỗi vị giáo hóa mỗi nơi, giống như các ngọn đèn để ở những vị trí khác nhau, nhưng tánh chất của ánh sáng vẫn đồng.

Bây giờ chúng ta có thể hiểu hằng hà sa số chúng sanhhằng hà sa số chư Phật. Quí vị có dám nhận mình là Phật không? Nếu bây giờ nhận mình là Phật thì bị tội tăng thượng mạn, nhưng nghĩ mình không có Phật tánh thì tu tiến không? Không. Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh. Như người có hòn ngọc quí mà quên, cất đâu không biết thì người đó giàu hay nghèo? Có ngọc quí nhưng không biết để đâu thì giàu cũng thành nghèo. Chừng nào lấy được hòn ngọc quí ra dùng mới giàu. Chúng ta cũng vậy, có tánh giác là có Phật nhưng bây giờ quên, không biết Phật ở đâu, cứ thấy toàn là chúng sanh. Chừng nào chúng ta thấy ông Phật của mình một cách cụ thể, rõ ràng chừng đó mới biết mình vốn là Phật mà xưa nay quên. Như vậy tâm thể chúng ta có tánh Phật đồng với tánh Phật của chư Phật, nên nói là một.

Tâm này từ vô thủy tới nay không từng sanh, không từng diệt, không xanh không vàng, không hình không tướng v.v… Tâm thể này từ thuở nào tới giờ, không sanh không diệt, không màu sắc không hình tướng. Chỗ này nói suông thì quí vị rất khó hiểu, vì sao tâm lạ vậy? Ở đây có hai trường hợp để chúng ta nhận biết được tâm.

Trường hợp thứ nhất rất bình thường giản dị, chỉ ai khéo tinh mắt một chút sẽ nhận ra ngay. Như chúng ta ngồi bình tĩnh trước sân chùa nhìn tất cả cảnh vật, mà không có niệm số một số hai nào dấy động hết, lúc đó có tâm không? Nếu không tâm thì ai biết nhìn, ai biết thấy, có tiếng động biết nghe. Cái thấy nghe không dấy niệm đó là tâm chưa từng sanh chưa từng diệt. Vừa khởi khen chê hay ưa ghét liền qua tướng sanh diệt. Cho nên ở đây nói cái đó không có danh ngôn mà động niệm liền trái. Chỉ khi không dấy niệm tâm đó hiện tiền. Tâm không nghĩ gì hết diễn tả làm sao? Hình tướng làm sao? Dáng dấp làm sao? Vì nó không hình tướng nên không xanh vàng đỏ trắng mà vẫn thấy vẫn nghe. Vừa khởi một niệm như cây tùng này đẹp thì tâm ẩn khuất liền. Cho nên dùng chữ “động niệm liền trái”, động niệm là mất tâm chân thật liền.

Chúng ta nhìn là nhìn, thấy là thấy, không khởi niệm thì tâm hiện tiền. Có khi nào quí vị cảm nhận điều đó không? Ai cũng cảm nhận được hết, như vậy đâu có người nào vô phần. Đã có phần nhưng không biết giữ của báu nên rồi xao lãng quên mất, cứ chạy theo cái nghĩ đông nghĩ tây cả ngày. Nhiều người rất tội nghiệp, ngồi một lát chợt vui lên muốn cười, sau đó lại quạu. Dáng vui dáng quạu của họ hiện ra tại cái gì? Tại ôn lại quá khứ, quá khứ đẹp thì vui, quá khứ thù địch thì quạu. Như vậy họ ngồi đó mà không có ngồi đó, vì ngồi đó mà sống với quá khứ. Chúng ta sống với cái đã qua là sống với cái mất. Hoặc không sống với cái đã qua thì sống với cái chưa tới, chưa tới cũng là ảo tưởng. Cái thực hiện tại chúng ta không sống, thành ra sống cả ngày mà thật ra không sống gì hết.

Vì vậy nhà Thiền bắt chúng ta phải sống với hiện tại, quá khứ đã qua, vị lai chưa đến, chỉ hiện tại là chủ yếu. Như vậy mới thấy sống với hiện tại quá khó. Tại sao khó? Vì chúng ta quen nuôi dưỡng quá khứ, vị lai. Lấy quá khứ làm kinh nghiệm, lấy vị lai làm mơ ước. Mơ ước cái sẽ tới đẹp hơn bây giờ, nên thấy nó hấp dẫn, còn hiện tại thì coi thường.

CHÁNH VĂN:

Ví như hư không không có giới hạn, không thể đo lường.

GIẢNG:

Tâm lặng lẽ, tự sáng suốt biết rõ mà không suy nghĩ, tâm đó có tướng mạo không? Không. Bởi không tướng mạo nên giống như hư không, giống như hư không nên không giới hạn, vì vậy nói nó lớn không thể đo lường.

CHÁNH VĂN:

Duy một tâm này tức là Phật. Phật cùng chúng sanh không riêng khác.

GIẢNG:

Chỉ cái tâm lặng lẽ không động niệm đó là Phật. Phật cùng chúng sanh không khác.

CHÁNH VĂN:

Chỉ vì chúng sanh chấp tướng cầu bên ngoài, càng cầu càng mất, khiến Phật đi tìm Phật, đem tâm bắt tâm, mãn đời cùng kiếp trọn không thể được.

GIẢNG:

Chỉ vì chúng sanh chấp tướng cầu bên ngoài, chạy theo hình thức nên càng cầu càng mất. Nghe chùa nào thờ Phật đẹp muốn tới chiêm bái. Nghe chùa nào Phật linh cầu gì cũng được, muốn chạy lại cầu. Chỉ cầu cái bên ngoài, mà càng cầu càng mất. Khiến Phật đi tìm Phật tức sai ông Phật thật đi tìm ông Phật giả. Ông Phật thật là ông Phật tâm tỉnh giác của mình, ông Phật giả là ông Phật xi măng ngồi trên bàn. Có đau không? Nói vậy có người bảo tôi không lạy Phật nữa, sợ tội vì đem Phật thật lạy Phật giả. Hiểu như vậy càng lầm. Tuy biết mình có Phật thật nhưng chưa sống được với Phật thật mà sống với chúng sanh, thì thôi đem chúng sanh lạy Phật giả, để tỉnh nhớ ông Phật của mình. Lạy Phật giả để nhớ đến Phật thật nơi mình, chớ không phải lạy Phật để cầu xin. Đó là ý nghĩa người biết tu Phật.

Đem tâm bắt tâm, mãn đời cùng kiếp trọn không thể được. Tức đem tâm này tìm tâm khác, cứ đuổi bắt nhau không có ngày cùng. Thí dụ chúng ta vừa dấy niệm xấu, liền dùng niệm tốt đuổi niệm xấu đi. Niệm xấu đi rồi chỉ còn niệm tốt, như vậy cũng là tu kha khá. Nhưng vẫn còn cái này đuổi cái kia, chỉ khi nào niệm tốt niệm xấu đều lặng thì cái thật nó hiện tiền.

CHÁNH VĂN:

Họ chẳng biết, dứt nghĩ quên tính, Phật tự hiện tiền.

GIẢNG:

Câu này nói trắng ra, không giấu giếm gì hết. Họ chẳng biết, dứt nghĩ quên tính, Phật tự hiện tiền, tức mình dứt hết suy nghĩ, dứt hết tính toán thì Phật tự hiện tiền. Quí vị một ngày Phật hiện được mấy giờ? Hay mấy phút? Sáu tiếng ngồi thiền, tôi cho mất hết năm tiếng, ít ra cũng còn một tiếng Phật hiện, chớ chẳng lẽ không có chút nào. Tu là để chúng ta trở về Phật của mình, mà muốn trở về tâm Phật thì phải dứt nghĩ, quên hết tính toán, Phật mới hiện tiền.

CHÁNH VĂN:

Tâm này tức là Phật, Phật tức là chúng sanh.

GIẢNG:

Tâm hiện tiền đó là Phật, tâm này đâu có rời thân người. Cho nên Phật tức là chúng sanh.

CHÁNH VĂN:

Khi làm chúng sanh tâm này không giảm, khi làm chư Phật tâm này không thêm, cho đến lục độ vạn hạnh công đức như hà sa tự sẵn đầy đủ, chẳng nhờ tu mà thêm, gặp duyên liền thi thố, duyên dứt liền vắng lặng.

GIẢNG:

Khi làm chúng sanh tâm này không giảm, khi làm Phật tâm này không thêm. Tâm hằng tri hằng giác của mình lúc đang làm chúng sanh, nó vẫn hiện tiền, khi ta thành Phật nó vẫn hiện tiền, đâu có thêm bớt. Cũng chính tâm này khi gặp duyên, nó ứng hiện nào là lục độ vạn hạnh công đức như hà sa, tự đầy đủ, không nhờ tu mà thêm, gặp duyên liền thi thố, duyên dứt liền vắng lặng. Cho nên nói chân khôngdiệu hữu. Tâm này không một tướng, một bóng dáng nên gọi là chân không. Từ chân không đó tùy duyên, ứng cơ, lợi vật không thiếu nên gọi là diệu hữu.

CHÁNH VĂN:

Nếu người không quyết định tin tâm này là Phật, chấp tướng tu hành để cầu được công dụng đều vọng tưởng, cùng đạo trái nhau.

GIẢNG:

Nếu người không quyết định tin tâm này là Phật, cứ chấp tướng bên ngoài tu hành để cầu được công dụng, thì những công dụng đó đều là vọng tưởng, cùng đạo trái nhau.

CHÁNH VĂN:

Tâm này tức là Phật lại không có Phật khác, cũng không có tâm khác.

GIẢNG:

Tâm không dấy niệm, không suy tính, không so đo v.v… tâm đó là Phật, không có tâm nào khác nữa. Chúng ta thấy một đoạn này Tổ Hoàng Bá dạy Bùi Hưu rất rõ ràng, không giấu giếm tí nào hết. Cũng ngài Hoàng Bá mà khi Lâm Tế tới hỏi thì đánh, không nói gì hết, còn Bùi Hưu tới hỏi Ngài lại dạy. Tại sao? Chỗ này phải nắm cho vững, nếu không chúng ta hiểu lầm chắc gặp quan, Ngài nể nên chỉ dạy, còn gặp Tăng Ngài đánh.

Nếu đi sâu chúng ta sẽ thấy thâm ý người xưa. Vì Bùi Hưu là quan, không có thời giờ, nếu hiểu được đạo ông sẽ ủng hộ đạo. Còn Lâm Tế, Tổ biết là một người có tương lai, nếu nói rõ cho nghe thì nhận một cách quá nhẹ nên dễ quên. Như mấy chú nghe tôi giảng có thể ngay lúc đó hiểu, nhưng một lát quên mất, cuối cùng chỉ nhớ hơn thua tốt xấu phải quấy lăng xăng, mà quên cái thật. Muốn cho con người kỳ đặc kia được chỗ thâm nhập mãi mãi không quên, cho nên dồn ép bằng cách đánh.

Hỏi “thế nào là đại ý Phật pháp”, Tổ liền đánh. Hỏi ba lần, đánh ba lần, đánh cho khóc mò vì không biết lỗi tại chỗ nào mà ăn đòn. Nhưng tới chừng gặp ngài Đại Ngu chỉ nói một cách hết sức nhẹ: “Hoàng Bá thật là tâm lão bà, chỉ tột cùng cho ông rồi, mà ông còn nghĩ có lỗi không lỗi”, ngay đó ngài Lâm Tế nhận ra, thấy rõ ràng. Cho nên nói “từ khi nhận được rồi tới sau không bao giờ quên, không bao giờ mất”. Vì vậy tông Lâm Tế kéo dài mãi hơn một ngàn năm. Như vậy không phải vì vị nể Bùi Hưu mà Tổ xử sự nhẹ nhàng, không vì ác cảm với Lâm Tế mà đánh đập. Hành động đánh là gây một ảnh hưởng sâu đậm lâu dài cho ngài Lâm Tế. Còn vị cư sĩ kia hiểu bao nhiêu tốt bấy nhiêu, không sao hết. Nếu đánh Bùi Hưu, ông sẽ oán chùa, có lợi gì. Cho nên hai trường hợp khác nhau.

Biết như vậy nhưng sao bây giờ tôi không đánh mấy chú? Bây giờ người ta đồn tu thiền điên, mà tôi lại đánh hét nữa thì người ta nói tôi điên mất rồi, ai dám tu thiền. Do đó tôi phải giảng nói để mấy chú lãnh hội được phần nào hay phần ấy, cộng thêm sách vở nghiên cứu. Từ đó quí vị mới tin Phật pháp hay mà ráng tu, chớ làm như người xưa không thể được. Tùy thời cơ, tùy hoàn cảnhlinh động, chúng ta không thể chấp một bề. Có nhiều người nói Đức Sơn đánh, Lâm Tế hét đó là Thiền tông Trung Hoa. Mình bây giờ cũng tu thiền, tại sao không biết đánh biết hét gì hết, như vậy là hiểu lầm. Mỗi trường hợp có cái khác nhau, chúng ta phải linh động, không thể chấp cứng một bên.

CHÁNH VĂN:

Tâm này sáng sạch ví như hư không, không có một điểm tướng mạo, khởi tâm động niệm liền trái pháp thể, tức là chấp tướng. Từ vô thủy tới nay không có Phật chấp tướng. Tu lục độ vạn hạnh muốn cầu thành Phật, tức là thứ lớp. Từ vô thủy đến nay không có Phật thứ lớp.

GIẢNG:

Ở đây cho chúng ta thấy lối tu đốn ngộ không có thứ bậc, không từ Bồ-tát thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa v.v… mà đi thẳng. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Đốn là đốn chỗ đó, chỉ có một bước mê và ngộ thôi. Nhưng trong cái ngộ, có người ngộ cạn, có người ngộ được sâu, hoặc người ngộ nhưng giữ không được và người ngộ mà giữ được, khác nhau như vậy. Ở đây không đặt thứ bậc thấp cao, chỉ thẳng cái tâm thể chân thật, chúng ta nhận được gọi là thấy đạo. Thấy đạo rồi cứ thế mà tu.

Lúc lặng lẽrõ ràng thường biết, tâm đó không có một chút tướng mạo, nên ví như hư không. Song hư không thì vô tri, còn tâm thể hằng tri, hằng giác, khác nhau chỗ đó. Vừa khởi tâm động niệm liền trái pháp thể. Vì khi dấy niệm, chúng ta chạy theo niệm nên ông chủ ẩn mất. Bởi vậy cả ngày nói tu mà tu với tướng bên ngoài. Nhớ chuyện này, nhớ chuyện kia, rồi phê phán người này hay người kia dở. Sự tu nằm trên tướng sanh diệt thì không đi tới chỗ chân thật. Nếu được điều gì chẳng qua do chấp tướng mà được. Nên ở đây nói “không có Phật chấp tướng”. Phật thật thì không chấp tướng, đã chấp tướng thì không phải Phật thật. Chúng ta tu khó vì lâu nay quen huân tập nhiều thứ, nên buông không được.

Tu lục độ vạn hạnh muốn cầu thành Phật, tức là Phật thứ lớp, nghĩa là từ Phật thập tín, Phật thập trụ, Phật thập hạnh cho tới Phật thập địa v.v… đó là Phật thứ lớp. Từ vô thủy tới nay Phật là Phật, chớ không có Phật thứ lớp.

CHÁNH VĂN:

Chỉ ngộ một tâm lại không có một chút pháp có thể được, đây tức là chân Phật. Phật cùng chúng sanh một tâm không khác.

GIẢNG:

Ngộ được tâm không dấy niệm đó thì không một chút pháp có thể được, vì tâm ấy không phải pháp gì hết. Đây tức là chân Phật, Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Phật đó với Phật của tất cả chúng sanh chỉ một Phật tâm, không có hai.

CHÁNH VĂN:

Ví như hư không, không xen lẫn, không hư hoại. Như vầng mặt trời soi bốn phương thiên hạ. Khi mặt trời lên ánh sáng chiếu khắp cả thiên hạ, hư không không từng sáng; khi mặt trời lặn, bóng tối che trùm thiên hạ, hư không không từng tối. Cảnh tối sáng tự đuổi cướp nhau, tánh hư không rỗng lặng chẳng đổi.

GIẢNG:

Thí dụ này xét kỹ thật hay. Ví như hư không, không có xen lẫn, không bị thứ gì làm hư hoại. Như vầng mặt trời soi bốn phương thiên hạ, lúc mặt trời lên nhìn trong hư không thấy sáng. Khi mặt trời lặn nhìn trong hư không thấy tối. Như vậy hư không có tối sáng không? Nếu nó sáng thì khi tối lẽ ra cái sáng hòa lẫn trong cái tối, nhưng thực tế không phải như vậy, nên biết hư không không tối, không sáng.

Cảnh tối sáng tự đuổi cướp nhau, tánh hư không rỗng lặng chẳng đổi. Tối đến thì sáng ẩn, tối ẩn thì sáng đến, hai thứ cứ đuổi cướp nhau, chớ hư không không đổi. Thực tế một chút, chúng ta thấy khi trong tâm mình nghĩ điều thiện thì cái thiện hiện ra, nghĩ điều ác thì cái ác hiện ra. Khi nghĩ thiện thì không có ác, khi nghĩ ác thì không có thiện. Tâm chân thật giống như hư không, thiện ác giống như tối sáng. Tối tới thì sáng ẩn, sáng đến thì tối ẩn, không cái nào dính với hư không hết. Tâm thể cũng vậy, không có thiện ác. Khi hai thứ thiện ác lặng thì tâm thể hiện tiền.

Bây giờ dù sáng dù tối cũng không liên hệ gì với hư không, nếu không sáng không tối thì cũng là hư không. Tâm nghĩ thiện, nghĩ ác là tâm sanh diệt, khi tâm sanh diệt ấy dừng lặng thì tâm thể nguyên vẹn hiện tiền, không tìm kiếm ở đâu. Cho nên gọi nó là “Bản lai diện mục”. Diện là mặt, mục là mắt, mặt mắt thật của chúng ta sẵn có từ thuở nào.

CHÁNH VĂN:

Phật và chúng sanh tâm cũng như thế. Nếu xem Phật thấy tướng giải thoát thanh tịnh, sáng suốt, xem chúng sanh thấy tướng nhơ bẩn tối tăm, người thấy biết như vậy trải qua số kiếp hà sa trọn không được Bồ-đề, vì chấp tướng vậy.

GIẢNG:

Người thấy Phật là giải thoát thanh tịnh, còn chúng sanh nhơ bẩn tối tăm, như vậy tu trải qua số kiếp hà sa trọn không được Bồ-đề, vì chấp tướng vậy. Nếu nghĩ nhớ thân Phật là thanh tịnh sáng suốt, thân chúng ta nhơ bẩn tối tăm thì được, chớ tâm Phật và tâm chúng ta, tâm thể đó không có bên sáng bên tối. Chỉ vì chúng ta quên, chạy theo vọng tưởng nên thấy có nhơ bẩn, tối tăm, chớ thể thanh tịnh của Phật và thể thanh tịnh của chúng sanh vốn không hai. Người nào thấy hai là chấp tướng.

CHÁNH VĂN:

Chỉ một tâm này, trọn không có pháp bằng hạt bụi nhỏ có thể được, tức tâm là Phật.

GIẢNG:

Chỉ một tâm này, tâm này là tâm nào? Tâm từ bi phải không? Tâm Bát-nhã phải không? Tất cả tâm có danh có tướng đều không phải. Chỉ là tâm thể thanh tịnh sẵn có của mình, không có pháp bằng hạt bụi có thể được. Tâm đó là tâm Phật.

CHÁNH VĂN:

Như nay người học đạo không ngộ tâm thể này, bèn ở trên tâm sanh tâm, hướng ra ngoài cầu Phật, chấp tướng tu hành đều là pháp ác, chẳng phải đạo Bồ-đề.

GIẢNG:

Như nay người học đạo không ngộ tâm thể này, bèn ở trên tâm sanh tâm, nghĩa là chúng ta không ngộ, không nhận được tâm chân thật, rồi sanh khởi tưởng Phật thế này, Phật thế nọ. Đó là ở trên tâm sanh tâm. Hướng ra bên ngoài cầu Phật, chạy nơi này nơi kia tìm Phật. Chấp tướng tu hành đều là pháp ác, tại sao? Vì pháp đó không phải là pháp chân thật, cho nên nói là ác. Chẳng phải đạo Bồ-đề vì đạo Bồ-đề là đạo giác ngộ. Giác ngộ cái gì? Giác ngộ tâm Phật của chính mình. Phật tử thường có những sai lầm như nghe ai có gì huyền bí, lạ lùng thì ngỡ người đó đã đạt đạo. Sự thật đạo là tâm chân thật sẵn có nơi mình. Nhận được tâm đó là ngộ đạo, không nhận được là mê.

CHÁNH VĂN:

Cúng dường chư Phật mười phương không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Tại sao? Vì người vô tâm là không tất cả tâm, thể như như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư không chẳng bít chẳng ngại, không năng sở, không chỗ nơi, không tướng mạo, không được mất. Người thú hướng mà không dám vào pháp này, sợ lạc vào không, không có chỗ nơi nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui.

GIẢNG:

Đây là dẫn kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói cúng dường chư Phật mười phương không bằng cúng dường một đạo nhân vô tâm. Có người thắc mắc cúng dường chư Phật mười phương nhiều như vậy sao không bằng cúng dường đạo nhân vô tâm? Ở đây chỉ cho chúng ta thấy, người phát tâm cúng dường chư Phật mười phương là xoay ra ngoài tìm Phật cầu Phật, còn đạo nhân vô tâm là chính mình đi tới chỗ vô tâm, đó là chỗ cúng dường tuyệt đỉnh. Trở về để thấy ông Phật nơi mình còn hơn ra ngoài làm trăm ngàn Phật sự, gọi là cúng dường Phật không bằng trở về mình nhận chân được mình. Nhận chân được mình là vô tâm, vô tâm là đạo, đạo tức là Phật. Nên nhớ người học đạotrở về mình, chớ không phải chạy ra ngoài.

Vì người vô tâm là người không tất cả tâm, thể như như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư không chẳng bít chẳng ngại, không năng sở, không chỗ nơi, không tướng mạo, không được mất. Người thú hướng mà không dám vào pháp này, sợ lạc vào không, không có chỗ nơi nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui. Chỗ này nói chúng ta có hai cái khó. Thứ nhất là làm sao cho được không tâm, tức không tất cả tâm. Không tất cả tâm rồi lại bị cái khó thứ hai là sợ lạc vào không, đâm ra hoảng hốt. Đó là hai cái khó của người tu.

Khó thứ nhất chúng ta có thể qua được, vì tin lặng hết tất cả niệm sẽ giác. Khi hết tất cả niệm, sao không thấy gì hết, sợ rơi vào không, đâm ra hoang mang. Nhưng họ quên không có gì hết tức là không tất cả vọng niệm, không tất cả lăng xăng mà thường biết rõ ràng. Thường biết rõ ràng làm sao lạc về không được? Nếu không biết như cây như gỗ thì lạc về không là phải. Nhưng không tất cả niệm, còn vẫn thấy biết rõ ràng mà nói lạc về không thì vô lý. Nhiều người tu tới đây muốn thối lui, tưởng thấy hào quang mới thích thú, chớ không thấy gì hết thì tu làm chi. Hiểu như vậy thật là lầm to. Chỗ đó vô nhất vật, rỗng thênh, làm sao thấy cái gì? Khi tâm chúng ta trong sáng nên biết nó rỗng thênh. Tâm đang biết rỗng thênh làm sao nói không biết gì hết!

Chỗ này quí vị tu lâu phải chú ý, nếu không tới đây giật mình, sao lâu nay mình tu nhiều quá mà không còn gì hết, đâm ra hoang mang. Không còn tất cả niệm, tất cả dấy động, chớ tâm thênh thang vẫn còn. Song có nhiều người thích tới đó có hào quang hoặc thấy Phật sờ đầu mới vừa ý, không thấy Phật sờ đầu, không thấy hào quang, họ hoảng hốt sợ tu tới đây thành không ngơ. Như vậy để biết chúng ta tu tới đây không còn tất cả niệm sanh diệt, chỉ còn cái biết rỗng lặng, trùm khắp không nơi chốn. Cái biết rỗng lặng đó là tâm thể, là Phật thật của mình, chớ không phải gì lạ. Nhận được như thế rồi, tu thuần thục mới có diệu dụng vô cùng, cho nên nói chân khôngdiệu hữu. Đi tới đó Phật mới có tam minh, lục thông v.v… Còn chúng ta chưa tới đó mà đã hoảng muốn thối lui, làm sao được? Chỗ này hết sức quan trọng, người tu không biết rất dễ lầm lẫn.

CHÁNH VĂN:

So sánh để tìm thấy biết rộng. Thế nên người thấy biết như lông, người ngộ đạo như sừng.

GIẢNG:

Sở học nhiều, hiểu biết rộng ví như con nai, lông thì nhiều nhưng sừng chỉ có hai thôi. Ở thế gian học để trở thành một người khôn mất chừng bao nhiêu năm? Học suốt đời suốt kiếp, đủ trăm ngàn muôn thứ, biết được phần này thì không biết phần khác, cho nên học càng rộng thấy biết càng nhiều, nhưng chỉ là lông. Như lông con nai, chúng ta đếm hết không? Không, vì quá nhiều nhưng lại không có giá trị, còn sừng nhìn thấy hai cái thôi, đơn giản và rất có giá trị.

CHÁNH VĂN:

Văn-thù xứng lý, Phổ Hiền xứng hạnh. Lý là lý chân không vô ngại. Hạnh là hạnh lìa tướng không cùng.

GIẢNG:

Ngài Văn-thù xứng lý, lý tức là trí, trí hợp với lý. Phổ Hiền xứng hạnh, hạnh đi đôi với nguyện, nên thường nói hạnh nguyện. Người lý, người hạnh. Ở đây Ngài nói lý là lý gì? Là lý chân không vô ngại, vì trí tuệ chân thật đạt đượcchân không. Hạnh là hạnh gì? Là hạnh lìa tướng không cùng, tất cả tướng đều lìa, đó là hạnh. Chúng ta bây giờ nói trí, nói hạnh lại khác. Trí biết nhiều nhưng biết toàn những thứ giả danh giả tướng, hạnh là làm tất cả việc nhưng chỉ là những việc không thật. Ở đây Ngài trở về tâm, lý là chân không vô ngại, hạnh là lìa tướng không cùng.

CHÁNH VĂN:

Quan Âm xứng đại từ, Thế Chí xứng đại bi.

GIẢNG:

Bồ-tát Quán Thế Âm xứng với hạnh đại từ, Bồ-tát Đại Thế Chí xứng với hạnh đại bi.

CHÁNH VĂN:

Duy-ma là Tịnh Danh. Tịnh là tánh, danh là tướng. Tánh tướng không khác nên hiệu là Tịnh Danh.

GIẢNG:

Ngài Duy-ma-cật dịch theo nghĩa chữ Hán là Tịnh Danh. Tịnh là tịnh cái tánh, còn Danh là tướng. Danh tướng đều thanh tịnh, tánh tướng không khác nên hiệu là Tịnh Danh.

CHÁNH VĂN:

Các vị đại Bồ-tát tiêu biểu nơi người đều sẵn có, không rời một tâm, ngộ đó tức phải.

GIẢNG:

Nói tới Bồ-tát Văn-thù là nói lý chân không vô ngại nơi tâm chúng ta. Nói Bồ-tát Phổ Hiền là nói hạnh lìa tất cả chấp tướng, chấp bóng dáng nơi nội tâm của mình. Nói Bồ-tát Quan Âm là nói tới lòng đại từ nơi mỗi chúng ta. Nói Bồ-tát Thế Chí là nói hạnh đại bi của mình. Nói tới ngài Duy-ma-cật là nói tới Tịnh Danh, tức tánh tướng đều thanh tịnh. Như vậy tất cả Bồ-tát đều biểu trưng sẵn có nơi mỗi chúng ta.

Chúng ta thường được học Bồ-tát Văn-thù là căn bản trí, Bồ-tát Phổ Hiềnsai biệt trí. Căn bản trí là trí thấu suốt lý chân không vô ngại, sai biệt trí là trí lìa tất cả tướng không cùng. Vì có trăm ngàn thứ tướng sai biệt nên dùng sai biệt trí để dẹp. Tại sao ở đây nhắc đến ngài Văn-thù, Phổ Hiền trước rồi mới tới Quan Âm, Thế Chí? Vì đạt đượcchân không vô ngại, lìa các tướng vô cùng, chừng đó mới phát đại bi tâm, đại từ tâm là Quan Âm, Thế Chí.

Tuy nhiên, nhận được lý chân không vô ngại, còn phải đợi ngài Phổ Hiền. Ngài Phổ Hiền gạt hết tất cả niệm sanh diệt rồi mới tới chỗ vô tâm. Vô tâm, có người nghe một lần liền được, có người phải nhiều năm, nhiều tháng, nhiều đời mới được. Chúng ta nhớ Lục tổ Huệ Năng khi ngộ rồi, từ đó về sau không cần ngồi thiền như mình nữa. Thấy chú nào ngồi thiền Ngài lại nắm lỗ tai thổi. Tại sao vậy? Vì Ngài đi đứng ngồi nằm đều vô tâm, ngồi chi cho thừa. Tổ Lâm Tế khi được vô tâm rồi, Ngài nói không cần dụng công mà cũng không có một niệm.

Chúng ta bây giờ chưa được chỗ cứu kính cho nên gỡ lần mấy chú vọng tưởng. Đầu tiên gỡ mấy chú xấu trước, lần lần mấy chú tốt cũng lùa đi luôn. Chừng nào lùa hết tốt xấu mới thảnh thơi, nhẹ nhàng. Đó là gốc của sự tu. Nếu không như vậy sự tu hành của chúng ta sẽ không đi tới đâu.

Hiện giờ chúng ta còn phàm phu, nếu giúp được ai thì dễ có bệnh gì? Giúp được người liền thấy mình có công ơn, nếu người không đề cao, không ca tụng, mình không vui. Được danh thì vui, không được danh thì buồn, vì chúng ta còn kẹt trên danh tướng. Người ngộ được lý chân không, thấu suốt tất cả pháp sanh diệt, bỏ hết thì tâm rỗng rang sáng suốt. Người ấy thấy chúng sanh mê muội kẹt trên hình tướng liền khởi tâm từ thương cứu giúp, thấy họ đi trong vòng danh lợi, tử sanh khởi tâm bi xót xa không nỡ bỏ, nên nguyện cứu vớt chúng sanh. Chúng ta bây giờ lo cứu những cái có hình có tướng, càng cứu lại càng sa lầy.

Làm việc thiện là tốt, nhưng làm trong danh trong tướng nên dễ mắc kẹt. Đã mắc kẹt thì nó dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Vì vậy, chúng ta có tâm đại từ, tâm đại bi khi nào đạt đượcchân không vô ngại, khi nào hạnh lìa tướng không cùng, chừng đó mới là đại từ, đại bi chân thật. Vì vậy đức Quan Âm, Thế Chí được nhắc sau Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền. Bồ-tát Văn-thù đi đầu vì nhận được tâm chân thật, sau mới lìa hết vọng niệm, lìa hết các tướng. Nếu khôngtrí tuệ dẫn đầu làm sao chúng ta lìa các tướng? Không nghĩ cái này thì nghĩ cái kia. Bởi vậy tu thiền khó nhất là buông bỏ, niệm nào cũng bỏ. Nếu không nhận được mình có tâm thể chân thật, rỗng lặng thì không chắc gì mình bỏ trọn vẹn, lìa trọn vẹn được, cho nên nói đốn ngộ tiệm tu là thế. Đốn ngộ là nhận được tâm thể của mình, rồi sau mới lìa bỏ vọng niệm. Vì vậy Bồ-tát Văn-thù đi trước, Bồ-tát Phổ Hiền đi sau. Được Văn-thù, Phổ Hiền nhập tâm rồi, sau mới tới hạnh của Bồ-tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí. Bốn vị Bồ-tát này có sẵn nơi mình hết. Hiểu như vậy mới thấy giá trị tu, mỗi vị Bồ-tát là mỗi hạnh có sẵn nơi mình.

Ngài kết luận: Các vị đại Bồ-tát tiêu biểu nơi người đều sẵn có, không rời một tâm, ngộ đó tức phải. Nhận ra được như thế tức là phải.

CHÁNH VĂN:

Nay người học đạo không hướng trong tâm mình mà ngộ, bèn ở ngoài tâm chấp tướng theo cảnh đều trái với đạo.

GIẢNG:

Ngài quở trách chúng ta học đạo mà không hướng vào trong tâm để ngộ, cứ chạy theo tướng bên ngoài. Đó là trái đạo.

CHÁNH VĂN:

Cát sông Hằng, Phật nói là cát. Chư Phật, Bồ-tát, Thích phạm, chư Thiên đạp giẫm đi qua, cát cũng chẳng mừng; trâu, dê, trùng, kiến giày xéo lên trên, cát cũng chẳng giận. Trân bảo thơm tho, cát cũng chẳng tham; phẩn uế hôi thối, cát cũng chẳng ghét. Tâm này tức tâmkhông tâm, lìa tất cả tướng, chúng sanh chư Phật không có sai biệt, chỉ hay vô tâm liền là cứu kính.

GIẢNG:

bài kinh đức Phật nói chúng ta tu hạnh nhẫn nhục cũng như cát vậy. Người giẫm đạp lên, trâu lừa ngựa đi qua, cát không la rầy. Giả sử có người đem trân bảo hay hoa thơm bỏ xuống, cát không mừng. Hoặc ai đó đem đồ hôi thối quăng trên mặt cát, cát cũng không buồn. Tâm thể giống như cát, bởi nó không niệm làm sao có mừng, có giận. Người sống được với tâm đó thì cả ngày không buồn, không giận, không thương, không ghét. Ai mắng cũng không giận, ai khen cũng không mừng thì có ngu không? Thế gian nói kẻ đó là kẻ ngu, nhưng với đạo đó là bậc Thánh. Vì không bị tâm sanh diệt lôi cuốn chạy theo thanh trần bên ngoài, nên thản nhiên tự tại. Tâm đó là tâm thể biết tất cả, mà không dấy niệm thương ghét giận hờn, nên đâu có vui buồn.

Tâm của chúng sanh luôn so sánh phân biệt, vừa có lời khen liền vui, có lời chê liền giận, được thì mừng, mất thì buồn v.v… cả ngày đổi thay vùn vụt, không dừng. Vui buồn thương ghét là nhân tạo nghiệp luân hồi sanh tử. Nếu không vui buồn thương ghét là nhân gì? Nhân giải thoát sanh tử. Cái không đi trong luân hồi sanh tử không phải Phật là gì?

Tâm này tức tâmkhông tâm, lìa tất cả tướng, chúng sanh chư Phật không có sai biệt, chỉ hay vô tâm liền là cứu kính. Ở đây bảo vô tâmvô tâm nào? Vô tâmvô cái tâm sanh diệt, còn tâm bất sanh vẫn hiện tiền. Chỉ vô cái tâm sanh diệt, thì tâm chân thật hiển hiện.

CHÁNH VĂN:

Người học đạo nếu không thể thẳng đó vô tâm thì nhiều kiếp tu hành trọn không thành đạo, bị công hạnh tam thừa ràng buộc, không thể được giải thoát.

GIẢNG:

Nếu người học đạo không thể thẳng đó vô tâm, dù nhiều kiếp tu hành trọn không thành đạo. Bởi vì vô tâm mới được chỗ chân thật. Chân thật là gì? Là chân không vô ngại, đó mới là gốc thành Phật. Nếu chúng ta còn có một hình, một tướng trạng nào đều là bị ràng buộc, không thể giải thoát.

Người tu trải qua nhiều bậc và người ngay một đời này nhận ra, chỗ vô tâm như nhau. Quí vị hay so sánh người ở chùa hai chục năm, với người mới vào đạo một năm, nếu cả hai đều được vô tâm thì cho là người hai chục năm cao hơn người một năm. Thật ra chỗ được đó không khác, trừ công tạo lập, gầy dựng, đạo đức mới khác. Nói như vậy để chúng ta biết rằng tới chỗ vô tâm, dù người tu nhiều năm hay người chỉ tu một thời gian ngắn mà đến được đó đều như nhau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15481)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 22894)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13950)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12898)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54948)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9057)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14337)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14081)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14118)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13809)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36150)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19774)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18095)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19099)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19039)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20187)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31379)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15847)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14893)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14610)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46042)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35794)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20949)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21471)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23249)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34163)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19403)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18818)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22822)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20081)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18265)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19736)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33301)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34302)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54353)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37544)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21042)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17793)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63447)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17274)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49475)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27256)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20167)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18809)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16248)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17787)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20846)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17269)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14386)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16782)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16279)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15922)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17379)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21855)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15003)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13404)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15295)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14906)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12587)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13273)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27307)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12422)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13112)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14401)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16127)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12324)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15310)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12804)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12129)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13112)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21502)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11203)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22573)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14939)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14858)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46040)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22319)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14370)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12518)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18796)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14629)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43697)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56805)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47342)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13564)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14460)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33167)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38247)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15324)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31098)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40204)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43242)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46468)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant