Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đoạn 2

04 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8290)
Đoạn 2

TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU GIẢNG GIẢI

HT Thích Thanh Từ

ĐOẠN 2

CHÁNH VĂN:

Nhưng, chứng tâm này có nhanh chậm. Có người nghe pháp một niệm liền được vô tâm. Có người đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng mới được vô tâm. Dài hay ngắn được vô tâm mới trụ, lại không có thể tu, không có thể chứng, thật không sở đắc, chân thật không dối. Người chỉ một niệm mà được, cùng người đến thập địa mới được, công dụng tương đương, không có sâu cạn, chỉ là nhiều kiếp luống chịu khổ nhọc vậy.

GIẢNG:

Nói người chứng được chân tâm có nhanh chậm. Có người nghe pháp một niệm liền được vô tâm. Có người tu đến thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa mới được vô tâm. Tại sao thứ bậc khác nhau như vậy? Bởi vì nếu ngay đó trực nhận được bản tâm thì mạnh mẽ buông hết vọng niệm, chỉ còn một tâm hiện tiền, đó là nhanh. Nếu tu từ từ, mỗi ngày giảm một chút, lâu ngày bước lên từng cấp bậc, đó là chậm. Hai lối đi đến chỗ ngộ khác nhau vì tâm mạnh yếu của mỗi người, nên nói dài hay ngắn được vô tâm mới trụ.

Lại không có thể tu, không có thể chứng, không sở đắc, chân thật không dối. Nói không có thể tu, không có thể chứng, không sở đắc, chân thật không dối, đó là lẽ thật. Nghe đến đây có ai vui không? Tu mà không tu, không chứng, không đắc. Không tu, không chứng, không đắc thì làm gì đây? Nếu bỏ một thời khóa liền bị rầy, như vậy quí thầy bắt tu hay không tu? Bắt tu. Tại sao ở đây nói không tu? Quí thầy còn khuyên Phật tử cố gắng tu để chứng thành Phật quả là có chứng, tại sao ở đây nói không chứng? Nếu tu nhận được bản tâm là trụ là đắc, sao nói vô trụ vô đắc?

Chúng ta quen quan niệm chữ tu nghĩa là sửa, là chừa bỏ. Những gì xấu chúng ta sửa lại thành tốt, cái gì hư chúng ta bỏ không dùng nữa. Như vậy chừa bỏ cái xấu để tiến lên cái hay cái tốt, đó là tu. Tâm thể chân thật đâu có hư xấu mà sửa bỏ, chẳng qua chúng ta quên nó nên bây giờ chịu khó nhận nó. Nhận ra, nhớ lại đừng quên là được rồi, không nói tu gì cả. Nhưng bây giờ chúng ta lận đận lao đao trên đường tu là vì sao? Vì quên tâm chân thật, cả ngày chạy theo mấy chú vọng tưởng thành ra lao đao lận đận. Bảo tu là đừng chạy theo vọng tưởng nữa, chớ đâu phải tu cái chân thật sẵn có. Như vậy trên mặt chân thật không có tu, mà tu là sửa lại đừng chạy theo vọng tưởng điên đảo thôi. Không chạy theo vọng tưởng điên đảo là dừng lại, chớ có tu sửa gì đâu.

Như sân là một nghiệp ai cũng sợ. Nhiều vị tu năm năm, mười năm vẫn còn ngán cái sân. Lâu lâu bị thiên hạ kích động trái ý thì mặt mày đỏ hừng lên, miệng nói bậy nói bạ. Như vậy đáng sợ không? Nhưng qua cơn điên khùng rồi, ngồi lặng lại tìm xem cái sân hồi nãy ở đâu? Tìm không ra. Nếu nó thật thì khi lặng xuống phải có chỗ ẩn núp, nhưng tìm lại không có. Khi dấy động thì rối loạn lung tung, khi lặng xuống không còn dấu vết, cái đó thật hay giả? Giả, vậy mà lâu nay chúng ta vì khùng điên chạy theo nó. Khùng điên vì không có nền tảng trí tuệ. Người ta không trí tuệ nên nói bậy, mình cũng không trí tuệ mới chạy theo cái bậy ấy. Từ đó sanh ra đủ thứ hỗn loạn, đủ thứ đau khổ. Chúng ta tu là đừng lầm, đừng mê những lời điên khùng. Nghe việc gì cũng cười thì có chuyện gì xảy ra. Nhưng nghe trái tai chịu không nổi liền sanh đủ thứ chuyện. Một người điên cộng thêm hai người điên, rốt cuộc cả chùm điên hết thì khổ, rồi kêu Ta-bà khổ. Ta-bà khổ tại chỗ nào?

Nếu ngồi yên lặng nhìn lại sẽ thấy rõ ràng, tất cả chúng ta sống trong điên đảo, nên Bát-nhã gọi là vọng tưởng điên đảo. Cái tưởng điên đảo mà cứ chạy theo nó, vì vậy cả đời điên đảo. Điên đảo từ bé đến già đến chết, cho nên lộn lên lộn xuống làm người làm vật đủ thứ. Bây giờ mỗi lần vọng tưởng dấy lên, biết nó vọng không theo, thì hết điên đảo. Hết điên đảo mới nhớ cái thật của chính mình, như thế tạm gọi là tu, chớ sự thật có gì để tu.

Nói tu là chúng ta đừng chạy theo suy nghĩ lăng xăng, sống thật với cái sẵn có của mình. Không có gì để tu thì có gì để chứng không? Không có cái tu làm sao có cái chứng. Không có cái chứng nên cũng không có đắc. Do vậy ở đây nói “không có thể tu, không có thể chứng, thật không có sở đắc”. Không tu, không chứng, không đắc nhưng nhà Thiền dạy thường tỉnh, đừng mê, đừng quên. Vọng tưởng lên biết vọng tưởng không theo thì sống lại cái thật của mình. Đó là tỉnh và nhớ lại gốc nơi mỗi chúng ta. Người tu phải khéo nhận cho chín chắn, hiểu thật tường tận thì sự tu hành không khó lắm.

Ở đây nói “chỉ là nhiều kiếp luống chịu khổ nhọc vậy”. Tại sao? Vì chúng ta không nhận ra cái thật, cứ chạy theo thứ lớp, cấp bậc hình thức thành ra nhiều thứ nhọc.

CHÁNH VĂN:

Tạo ác tạo thiện đều là chấp tướng. Chấp tướng tạo ác luống chịu luân hồi; chấp tướng tạo thiện luống chịu nhọc nhằn, thảy đều không bằng một câu nói tự nhận được bản pháp. Pháp này tức là tâm, ngoài tâm không có pháp. Tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm. Tâm tự vô tâm, cũng không vô tâm, đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có. Thầm khế hội mà thôi. Dứt các nghĩ bàn, nên nói dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành. Tâm này là cội nguồn thanh tịnh. Phật và người đều có. Các loài bò bay máy cựa cùng chư Phật, Bồ-tát một thể không khác. Chỉ vì vọng tưởng phân biệt tạo các thứ nghiệp. Trên quả Phật sẵn có, thật không một vật, rỗng suốt vắng lặng sáng sủa, nhiệm mầu an lạc. Phải sâu tự ngộ nhập, thẳng đó là phải, tròn đầy sẵn đủ không có thiếu sót.

GIẢNG:

Ngài nói tạo ác, tạo thiện đều là chấp tướng. Câu này bị người ta phản đối lắm. Tạo ác là chấp tướng, tại sao tạo thiện cũng chấp tướng? Vậy không cho làm thiện sao? Thật ra với cái nhìn đối đãi, tạo ác là tội lỗi, tạo thiện là phước lành. Tạo ác bị luân hồiđịa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Tạo thiện bị luân hồicõi người, a-tu-la, trời. Cả hai đứng về mặt luân hồi đều như nhau, chỉ khác luân hồi ở chỗ khổ và luân hồi ở chỗ ít khổ hơn.

Ví dụ được sanh về cõi trời như trời Đế Thích, lâu lâu cũng hết phước. Khi hết phước năm tướng suy hiện, lúc đó khổ hay vui? Cũng khổ như thường. Như vậy tất cả khổ vui trong vòng luân hồi tuy có khác nhưng gốc vẫn là luân hồi. Vì vậy ở đây nói tạo ác, tạo thiện đều là chấp tướng, một bên bị tướng luân hồi trong tam ác đạo, một bên được tướng luân hồi trong tam thiện đạo. Nên nói làm thiện thì luống chịu nhọc nhằn vì còn phải lên xuống trong các đường, không bằng một câu nói tự nhận bản pháp, pháp này tức là tâm.

Ngày nay thiên hạ chịu tạo thiện để đời sau sung sướng hơn đời này. Nói đời sau nhập Niết-bàn thấy xa vời quá, chỉ muốn sướng hơn đời này một chút là vui rồi. Hoặc nói mất không có đời sau thì buồn chết. Do đó người đời thích làm thiện, không thích tu giải thoát sanh tử. Vì vậy khuyến khích làm lành người ta dễ chấp nhận, còn bảo tu cho thoát khỏi sanh tử, người ta không biết sẽ ra sao nên không nghe theo.

Ở đây các Tổ dạy muốn ra khỏi sanh tử phải nhận được bản pháp. Pháp tức là bản tâm của mình. Khi tâm khởi nghĩ xấu đó là tạo nghiệp ác, nghĩ lành là tạo nghiệp thiện. Người mới tập tu phải bỏ nghĩ ác, nuôi nghĩ lành. Tuy nhiên nghĩ ác sanh ba đường dữ, nghĩ lành sanh ba đường thiện thì cũng là sanh. Còn có nghĩ là còn tạo nghiệp, chừng nào tâm không còn nghĩ hai bên, lúc đó ta vẫn biết mà không có niệm, đó chính là tâm chân thật. Không có niệm thì không có nghiệp, không có nghiệp thì thoát ly sanh tử. Cho nên muốn ra khỏi vòng sanh tử phải dứt cả hai bên. Cái nghĩ hai bên đều buông xả hết, rốt cuộc còn một tâm thể thanh tịnh hằng tri, hằng giác, không bị sanh tử. Không bị sanh tử thì nó có hay không? Không phải có, không phải không. Tại sao? Vì còn thấy có, thấy không cũng là hai bên.

Khi hai niệm thiện ác không nghĩ thì còn cái biết không? Biết rõ ràng là còn tâm, chớ đâu phải không tâm. Tâm ấy không bị nghiệp dẫn nên nói giải thoát. Điều này hết sức cụ thể, không phải chuyện mơ màng thiếu thực tế. Chúng ta không chịu nghiệm xét, cứ chạy theo nghĩ ác nghĩ thiện, như vậy mà tạo nghiệp luân hồi. Lục Tổ nói hết sức thẳng: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Câu này Ngài đã chỉ trắng ra, không còn một chút gì giấu giếm. Dứt cả nghĩ thiện, nghĩ ác thì hiện hữu Bản lai diện mục của mình, thoát ly sanh tử.

Như người tu theo hạnh Thanh văn chứng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Tới A-la-hán rồi tiến lên Diệt tận định, không còn niệm thiện ác. Vì Diệt tận định thì đâu còn niệm thiện, niệm ác. Rõ ràng không có vị A-la-hán nào còn niệm. Diệt tận địnhđịnh không còn một chút tâm dạng niệm khởi, như vậy mới tới vô sanh, nhập Niết-bàn. Ngay đây nếu chúng ta không còn hai niệm thiện ác thì dù chưa nhập Niết-bàn nhưng cũng như ở Niết-bàn. Quí vị chịu ở Niết-bàn không? Ai cũng mơ ước được giải thoát nhập Niết-bàn, trong khi Niết-bàn ngay trước mắt không chịu nhận.

Ở đây chỉ thẳng tâm sanh diệt tạo nghiệp luân hồi, tâm không sanh diệt đi đến Niết-bàn. Ai có gan không thèm nghĩ thiện, nghĩ ác thì gần Niết-bàn rồi, khỏi cần nhập Diệt tận định. Chúng ta hiểu cho tường tận mới thấy đường lối của Phật Tổ dạy, tuy khác nhau từ cấp bậc, nhưng chỗ cứu kính vẫn gặp nhau, không thể khác được. Nên nói “Tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm”. Thường thường nhà Phật hay dùng từ “pháp” để chỉ muôn sự muôn vật, mà cũng dùng từ “pháp” để chỉ cho chánh pháp của Phật dạy. Tất cả pháp đều từ tâm này mà ra nên biết tâm này tức là pháp, ngoài pháp không có tâm.

Tâm tự vô tâm, cũng không vô tâm, đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có. Tâm này tự vô tâm. Tại sao? Vì đứng trên hai mặt, niệm hữu niệm vô hay niệm thiện niệm ác, người ta nói có tâm. Hết những niệm đó thì tâm mà vô tâm. Tâm là sao? Vì không có niệm mà vẫn biết, vẫn tri giác đó là tâm. Vô tâm là sao? Vì không có niệm thiện, niệm ác đó là vô tâm. Vô tâm mà không phải không ngơ, vô tâm tạo nghiệp nhưng tâm chân thật vẫn hiện tiền. Vì vậy nói tâm tự vô tâm.

Cũng không vô tâm là sao? Bởi vì tâm hằng tri giác làm sao vô được. Đem tâm cầu vô tâm, tâm trở lại thành có, nếu khởi tâm để tìm tâm chân thật, tâm ấy trở thành có rồi. Chỗ tâm này là tâm mà vô tâm. Tại sao? Vì hằng biết mà không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy v.v… đó là vô tâm. Vô tâm tức là tâm. Tại sao? Vì vô tâm sanh tử hay vô tâm tạo nghiệp, mà còn tâm chân thật. Cho nên vô tâm mà vẫn là tâm, không phải vô tâm là không có gì hết.

Tâm dấy niệm tìm thuộc về dấy động, lấy dấy động tìm tâm chân thật, làm sao tìm được? Cho nên nói nếu dùng tâm tìm tâm, tâm trở lại thành hữu, nghĩa là tâm bị tìm trở thành có. Trong mười mục chăn trâu, ban đầu còn trâu còn chăn, cuối cùng trâu mất chăn cũng không còn. Nếu còn một thằng chăn hay còn con trâu cũng chưa tới chỗ cứu kính, phải cả hai đều mất, mới đi tới chỗ viên mãn. Vì vậy nói tâm này chỉ thầm khế hội, thầm nhận thầm biết, chớ không tìm kiếm.

Dứt các nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn tới chỗ đó, nên dứt đường ngôn ngữ, chỗ ấy không nói năng gì được, diệt chỗ tâm hành, dứt tâm theo đuổi tìm kiếm. Câu nên dứt đường ngôn ngữ, diệt chỗ tâm hành, là chỉ cho muốn đến nơi chân thật thì không còn ngôn ngữ, không còn tâm hành. Thiền sư Đả Địa khi có người hỏi “thế nào Phật”, Ngài chỉ cầm gậy đập dưới đất một cái, hỏi “thế nào pháp” cũng đập một cái, không trả lời gì hết. Tại sao? Vì Phật và pháp là chỗ không có ngôn ngữ, vừa có ngôn ngữ liền trật rồi. Ngài chỉ thẳng nhưng chúng ta không biết nên không nhận ra yếu chỉ của Thiền sư.

Ngài Lâm Tế tới hỏi Tổ Hoàng Bá “thế nào là đại ý Phật pháp”, ngài Hoàng Bá không nói mà chỉ đập thôi. Bởi vì đây là chỗ ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, bây giờ phải trả lời làm sao? Trả lời là có ngôn ngữ, thành ra Tổ cầm gậy đập. Như vậy thấy tàn nhẫn quá. Hỏi một câu có nghĩa có lý đàng hoàng, không chỉ lại đánh. Khi Lâm Tế tới ngài Đại Ngu, Ngài bảo: “Hoàng Bá thật là tâm lão bà vì ông mà chỉ chỗ tột cùng, ông còn nghĩ có lỗi không lỗi.” Bởi chỉ chỗ tột cùng nên không thể mở miệng, không cho hành giả suy nghĩ. Có nói là có suy nghĩ, vì vậy Ngài chỉ đánh, đó là tâm lão bà.

Bây giờ tôi cũng đánh, không nói gì hết, quí vị chịu không? Chắc ít tháng xách gói đi hết. Tâm lão bà không đúng chỗ thiên hạ cũng không chịu nổi. Chỉ người đến nơi rồi mới thấy được tâm lão bà, còn chưa đến thì thấy tàn nhẫn. Chúng ta nhìn hành động ấy cũng thật bất bình, cho nên Lâm Tế khóc là phải. Tức quá mà, hỏi có ý nghĩa đàng hoàng không dạy không trả lời, còn đánh nữa. Đâu phải đánh một lần, ba lần đều như vậy, không tức sao được. Chính chỗ dồn ép đó, sau này ngài Lâm Tế ngộ được mới truyền bá hơn ngàn năm. Đó là thủ thuật đại tài của những bậc đại Thiền sư, chúng ta bây giờ chỉ là tiểu Thiền sư nên không dám dùng thủ thuật ấy.

Tâm này là cội nguồn thanh tịnh. Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không nghĩ phải, không nghĩ quấy mà thường biết thì cái biết đó thanh tịnh không? Thanh tịnh. Cái biết thanh tịnh này có người nào thiếu không? Nếu không, tại sao không dám nhận, phải chờ nhắc tới nhắc lui! Tại vì quên. Bây giờ nhờ thiện hữu tri thức nhắc nhở mới nhớ, mỗi lần nhắc tin thêm một chút, nhận ra một chút, lâu ngày thấm dần, chừng đó mới nhận toàn diện. Vì vậy phải chịu cực.

Phật và người đều có, chư Phật có tâm đó, chúng ta cũng có tâm đó, cho đến loài bò bay máy cựa cùng Bồ-tát đều có tâm ấy. Tại sao? Vì các loài đều có tánh biết.

Chỉ vì vọng tưởng phân biệt tạo các thứ nghiệp, chúng ta còn vọng tưởng nên còn tạo nghiệp, lên hay xuống thì tùy mỗi người. Muốn hết nghiệp phải hết vọng tưởng. Nếu hết vọng tưởng lúc đó chúng ta khùng hay sáng suốt? Không vọng tưởng biết nấu cơm ăn không? Cũng biết vo gạo, biết lặt rau vậy. Đợi vọng tưởng mới biết làm sao? Khi tất cả chúng ta đều hết vọng tưởng thì Thiền viện trở thành Cực Lạc rồi, không cần ai nhắc ai, ai rầy ai, cứ tự do làm việc theo tâm thanh tịnh bản nhiên thôi, không chuyện gì hết. Còn bây giờ phải nghe rầy tới, rầy lui, nhắc qua, nhắc lại là tại mỗi người đều khởi vọng tưởng, thi thố vọng tưởng của mình. Người này vừa vọng tưởng liền muốn thi thố ra, người khác cũng thi thố đối lại, riết thành cả đám cãi nhau hoài. Cãi là gốc từ vọng tưởng, không có cái nào ngoài vọng tưởng hết. Nếu tất cả Tăng Ni sống mà không vọng tưởng thì có chuyện gì phải cãi, phải rầy nữa. Thật nhẹ nhàng biết mấy! Nên con đường thành Phật không phải xa, xa là chỉ vì vọng tưởng mà ra.

Trên Phật quả sẵn có, thật không một vật, rỗng suốt vắng lặng sáng sủa, nhiệm mầu an lạc. Trên quả Phật sẵn có là sẵn có cái gì? Không một vật gì hết, bản lai vô nhất vật, rỗng suốt vắng lặng, nhiệm mầu an lạc. Bây giờ vị nào thử trong một ngày không vọng tưởng, từ sớm tới chiều ở Thiền đường ra ngoài làm công tác, đừng có một chút vọng tưởng, người đó có thể sống được với cái sáng suốt rỗng lặng của mình không? Nghe nói sáng suốt rỗng lặng, thiên hạ tưởng tới đó bế tắc, không hiểu biết, nhưng không ngờ đến đó mới được nhiệm mầu, an lạc. Cho nên đức Phật nhập định sâu, sau đó mới chứng Tam minh, Lục thông. Từ chân không mới có diệu hữu. Chân không là chỗ không tất cả vật, không tất cả nghiệp, rỗng suốt vắng lặng, đến đây rồi mới có Tam minh, Lục thông tức là diệu hữu.

Phải sâu tự ngộ nhập, thẳng đó là phải, tròn đầy sẵn đủ không có thiếu sót. Tất cả chúng ta ai cũng đủ, cũng sẵn có tâm Phật, tất nhiên ai cũng có quyền làm Phật. Cho nên Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng bái, nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật.” Đó là lời Bồ-tát nhắc khéo, chúng tađủ khả năng thành Phật mà quên nên phải nhắc. Nhiều người nghĩ Ngài nói câu đó với tư cách khiêm nhường, nhưng sự thật đó là bài pháp ngắn, đánh thức khả năng thành Phật nơi mỗi người, để chúng ta vững niềm tin tiến tu, chớ không phải câu nói khiêm nhường.

Học tới đây chúng ta đã biết vì sao mình đi trong luân hồi, làm sao để ra khỏi sanh tử. Như vậy có cần coi bói xem mình được giải thoát không? Chính thầy bói cũng luân hồi sanh tử, làm sao coi được. Phải tự thấy mình tường tận, nếu đang tạo nghiệp trong sanh tử thì sẽ đi đường sanh tử. Nếu nuôi dưỡng toàn những niệm xấu thì sẽ đi trong ba đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nếu thuần niệm thiện, thương người này giúp kẻ kia, thì biết mình sẽ đi trong ba đường lành. Còn cả ngày từ sớm tới chiều như ngây như ngu, tâm thanh tịnh không một niệm nào dấy khởi là biết ngang đây dứt đường sanh tử. Rõ ràng như vậy khỏi cần hỏi, khỏi cần cầu xin ai hết. Chúng ta đủ thẩm quyền để chọn lối đi. Lối thứ nhất xuống ba đường dữ, lối thứ nhì sanh ba đường lành, lối thứ ba ra khỏi sanh tử. Mỗi vị tự chọn lấy, không ai chọn thế được.

Vì vậy các Thiền sư nói tới nói lui, nói qua nói lại đều bảo đừng dính hai bên. Vì đó là gốc của luân hồi sanh tử. Chừng nào hai bên lặng, dù chúng ta ra vườn nhổ cỏ mà cũng là đang ở trong đại định. Lục Tổ dạy đại định là làm tất cả việc mà không có niệm dính hai bên. Trong đại định có tuệ, vì không dấy động là định, mà hằng tri hằng giác là tuệ. Đây gọi là định tuệ không hai. Còn định trước rồi lần lần sanh tuệ, không gọi là đại định. Đó là chỗ thâm sâu mà người học đạo cần phải biết cho rõ, mới thông cảm được với người xưa.

CHÁNH VĂN:

Giả sử người tinh tấn tu hành trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị, cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái sẵn có. Kỳ thật, trên Phật của mình không thêm được một vật gì, xem lại công dụng nhiều kiếp thảy đều là việc làm trong mộng. Cho nên Như Lai nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề (Vô thượng Chánh giác) thật không có sở đắc, nếu có sở đắc, đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta.

GIẢNG:

Nếu tu hành theo kinh dạy thì phải trải qua ba vô số kiếp mới được thành Phật. Ở đây nói trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị thập tín, thập trụ v.v… cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái sẵn có của mình, kỳ thật trên Phật của mình không thêm một vật gì. Chừng đó mới thấy công phu tu hành qua ba vô số kiếp, thảy đều là việc trong mộng. Bởi vì tu khổ hạnh thế này, làm lợi ích cho chúng sanh thế kia, nhưng tất cả đều là sanh diệt. Vì vậy dẫn kinh nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề thật không có sở đắc, nếu có sở đắc, đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta.” Bởi vì chân thật là cái sẵn có của mình, có thêm bớt gì đâu mà sở đắc. Nếu còn sở đắc là còn kẹt hình tướng, kẹt thứ bậc, Phật đâu thọ ký cho người kẹt chấp. Chừng nào chúng ta nhận chân được chỗ chân thật cứu kính, Phật mới thọ ký.

CHÁNH VĂN:

Lại nói: “Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp, ấy gọi là Bồ-đề.

GIẢNG:

Bởi vì trên tâm thể chân thật, Phật và chúng sanh không khác nên nói bình đẳng, ấy gọi là Bồ-đề.

CHÁNH VĂN:

Tức tâm bản nguyên thanh tịnh này, chúng sanh, chư Phật, núi sông, thế giới, có tướng, không tướng, khắp cả mười phương thế giới, tất cả đều bình đẳng không có tướng ta và kia.

GIẢNG:

Khi nhận được tâm bản nguyên thanh tịnh rồi, chừng đó chúng ta thấy chúng sanh, Phật cho tới tất cả muôn pháp ở thế gian đều không hai.

CHÁNH VĂN:

Tâm bản nguyên thanh tịnh này thường tự tròn sáng soi khắp, mà người đời không ngộ, chỉ nhìn cái thấy nghe hiểu biết làm tâm, bị cái thấy nghe hiểu biết che đậy, cho nên không thấy được bản thể tinh minh.

GIẢNG:

Chúng ta có tâm bản nguyên thanh tịnh tự tròn sáng soi khắp hết, mà không nhận, không ngộ được nó, chỉ nhận cái thấy nghe hiểu biết làm tâm. Vì vậy bị cái thấy nghe hiểu biết che đậy, nên không thấy được bản thể tinh minh. Bản thể tinh minh là cái trong sáng của chính mình. Chỗ này không khéo quí vị sẽ nhận lầm rằng tất cả cái thấy nghe hiểu biết không ảnh hưởng gì với bản thể tinh minh, vì Ngài nói chỉ nhìn cái thấy nghe hiểu biết làm tâm. Nhưng nhớ, thấy nghe hiểu biết tức là kiến văn giác tri, nó là giặc mà nó cũng là tâm mình. Đoạn dưới sẽ nói rõ.

CHÁNH VĂN:

Chỉ nên thẳng đó vô tâm thì bản thể tự hiện. Như vầng mặt trời lên trên hư không soi sáng khắp mười phương không có chướng ngại. Người học đạo chỉ nhận cái thấy nghe hiểu biết động tác thi vi; không dẹp cái thấy nghe hiểu biết tức là con đường tâm bặt dứt không lối vào. Chỉ nơi cái thấy nghe hiểu biết nhận bản tâm. Song bản tâm không thuộc cái thấy nghe hiểu biết, cũng không rời cái thấy nghe hiểu biết.

GIẢNG:

Nói đi nói lại, sở dĩ chúng ta lầm là vì quen cái thấy nghe hiểu biết là tội, mà không nhận ra cái thấy nghe hiểu biết cũng là công. Như vậy thấy nghe hiểu biết thế nào là tội, thấy nghe hiểu biết thế nào là công? Thấy bình hoa rồi khởi nghĩ bình hoa đẹp xấu đó là tội. Thấy bình hoa biết mình có cái hay thấy đó là công. Tội hay công đều do nơi mình. Nghe nói nhận cái thấy nghe hiểu biết, rồi bị nó che đậy nên bịt mắt, bịt tai… hiểu như vậy là lầm.

Đây nói chỉ nên thẳng đó vô tâm thì bản thể tự hiện, thẳng đó vô tâm tức là đối với tất cả sự việc xảy ra chung quanh, ngay đó chúng ta vô tâm. Được vô tâm thì như vầng mặt trời lên trên hư không, soi sáng khắp mười phương không có chướng ngại. Ngược lại, nếu có tâm thì như nhìn lên bầu trời thấy áng mây, chiếc máy bay hay cánh chim… lúc đó ta chú ý vào áng mây, máy bay, cánh chim… nên quên mất bầu trời thênh thang. Tâm mình cũng vậy, tự nó thênh thang, nhưng vừa dấy niệm, chạy theo niệm thì lặng mất tâm thênh thang.

Chúng ta thường cho cái nghĩ của mình đúng, rồi phê phán đủ chuyện. Cả ngày làm việc không công mà siêng lắm. Hết chuyện này tới chuyện kia, thấy người này phê bình, thấy người kia phê bình, đủ thứ. Chuyện họ mặc họ, mình có cái thật đây mà không nhớ. Tu đòi thành Phật, mà Phật ngay đây không nhớ, cứ nhớ hết chúng sanh này tới chúng sanh khác, cả ngày như vậy. Ông Phật ngồi trên bàn chắc cười hoài, mấy chú lạy tôi, muốn thành Phật như tôi, mà cứ chạy theo chúng sanh hoài thì chừng nào thành Phật? Rõ ràng chúng ta quá sức dại khờ.

Như người ta đi ngoài đường thì kệ người ta, mắc mớ gì mình mà suy gẫm xem tâm tư người đó thế nào, như vậy chắc gì đúng. Vậy mà cũng bám vào suy gẫm, có phải dại khờ không? Hoặc ai vô tình hay cố ý nói gì đó, thì thôi cho qua đi, tội gì phải suy nghĩ câu ấy khen hay chê cho cực. Chúng ta có bệnh cái gì cũng ôm vô hết, rồi than khổ than mất ăn mất ngủ. Chuyện ở đâu cũng cứ ôm vô làm sao ngủ được. Người tu phải sáng suốt khôn ngoan, việc gì đáng thì làm, không đáng thì bỏ qua, đừng bận rộn, đừng phiền hà, đừng can thiệp chuyện của người ta. Thấy huynh đệ đi chơi hơi lững thững, vô mách quí thầy lớn ông đó vầy kia. Như vậy là can thiệp chuyện của người ta rồi, mình tôn trọng tự do của mình, sao không tôn trọng tự do của người ta. Thấy người cắm đầu làm việc không nói năng gì hết, liền can thiệp vô “người đó làm việc buồn quá, không nói câu nào hết, thật là con người khó hiểu”. Người nói nhiều thì can thiệp theo nói nhiều, người không nói thì can thiệp theo không nói, cả ngày cứ can thiệp chuyện người ta. Chuyện của mình đang rối nùi nè, bảo bỏ đi đừng nghĩ nữa mà không nghe, cứ can thiệp chuyện người ta, rồi sanh phiền não đủ thứ. Đó là bệnh chung của chúng sanh, ai cũng mắc phải hết. Tu là gỡ bỏ những điên đảo, vô ích như vậy.

Người tu chỉ một việc là phải nhớ ông Phật thanh tịnh của mình, còn tất cả niệm tạo nghiệp hãy buông đi. Tu là cốt thành Phật, cả ngày giữ cho thanh tịnh trọn vẹn thì phước đức biết mấy, tu mau thành Phật biết mấy. Chúng ta nhớ câu kệ của ngài Trần Nhân Tông nói “đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”. Đối cảnh là mắt tai mũi lưỡi thân ý đều tiếp xúc với cảnh mà không có niệm phân biệt chạy theo, đó là vô tâm, đó là Thiền, là đại định. Hiện tại quí vị ngồi một chỗ ngó xuống mà còn nhớ chuyện này chuyện nọ, như vậy vô tâm chưa? Ngồi yên ngó xuống mà còn chưa vô tâm, chớ đừng nói đối cảnh. Bởi vậy chúng ta thấy thật xấu hổ, mình chưa xứng đáng là đệ tử của Tổ sư.

Tăng Ni ngồi thiềnkhông vô tâm là giết chết thời giờ vô ích. Khi ngồi thiền không cho phép suy nghĩ mà cũng cứ nghĩ, như vậy không phải giết chết thời giờ là gì? Cho nên chúng ta tu phải sáng suốt, quí báu thời giờ của mình, đừng để hoang phí một cách vô ích. Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A-nan hỏi Phật về căn bản phiền nãocăn bản Bồ-đề Niết-bàn, bấy giờ mười phương chư Phật “dị khẩu đồng âm”, phát ra câu nói: “Này A-nan căn bản phiền não là sáu căn của ông, mà căn bản Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của ông.” Như vậy sáu căn là công mà sáu căn cũng là tội. Chúng ta phải dùng sáu căn thế nào cho nó thành căn bản Bồ-đề Niết-bàn, đừng dùng theo căn bản phiền não luân hồi sanh tử.

CHÁNH VĂN:

Cốt yếu là chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết khởi phân biệt, cũng chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết mà động niệm, cũng chớ lìa thấy nghe hiểu biết mà tìm tâm, cũng chớ bỏ cái thấy nghe hiểu biết mà nhận pháp. Không tức, không ly, không trụ, không trước, tung hoành tự tại đều là đạo tràng.

GIẢNG:

Chỗ này nói hết sức rõ. Cốt yếu là chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết khởi phân biệt, vì như vậy là bệnh. Thấy nghe hiểu biết cứ thấy nghe hiểu biết thôi, đó là Thiền, là trở về bản tâm. Cũng chớ ở trên cái thấy nghe hiểu biết mà động niệm, phân biệt là động niệm. Nên biết lỗi ở cái thấy nghe hiểu biết liền khởi phân biệt, khởi động niệm. Cũng chớ lìa thấy nghe hiểu biết mà tìm tâm, cũng chớ bỏ cái thấy nghe hiểu biết mà nhận pháp, chính cái thấy nghe hiểu biết là dụng của tâm, nên không thể lìa nó tìm tâm. Phật nói: “Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp.” Lục hòa hợp là sáu căn. Từ một nhất tinh minh khởi ra sáu hòa hợp, thì sáu hòa hợp là dụng của nhất tinh minh. Nhất tinh minh là thể. Thấy nghe hiểu biết là dụng của nhất tinh minh, nó từ thể mà ra. Bỏ dụng tìm thể làm sao được?

Ví dụ ban đêm cái nhà có sáu cửa mở hoác, ở trong đốt đèn, ánh sáng phát ra nơi sáu cửa là ánh sáng của ngọn đèn. Nếu nhìn ánh sáng nơi cửa sổ thì ánh sáng vuông, cửa cái thì ánh sáng dài v.v… Nhìn qua cửa thì thấy khuôn thế này thế nọ, nhưng ánh sáng một hay nhiều? Dáng phát ra sai biệt là vì cửa lớn nhỏ khác nhau, chớ ánh sáng không hai. Muốn biết có đèn đang thắp sáng trong nhà thì phải từ ánh sáng ở cửa phát ra. Cũng vậy, muốn nhận được tâm thể thanh tịnh sẵn có của mình, phải nhờ sáu căn. Từ sáu căn có tánh biết mới nhận ra mình có tâm thể tròn đầy. Cho nên tu muốn được Bồ-đề Niết-bàn gốc từ sáu căn. Thấy cảnh vật biết vậy thôi chớ không động niệm, đó là Bồ-đề Niết-bàn. Nếu thấy người thấy cảnh khởi niệm suy nghĩ rồi thị phi, tham đắm v.v… đó là gốc của sanh tử.

Cho nên ở đây nói “không tức, không ly”, không tức nơi sáu căn mà cũng không rời sáu căn. “Không trụ, không trước” không ở một chỗ, không dính mắc một chỗ. Như vậy mới gọi “tung hoành tự tại đều là đạo tràng”. Phật, Tổ nói không khác, đều chỉ dạy đến nơi đến chốn chỗ trọng tâm, ngay cốt tủy cho chúng ta thấy.

CHÁNH VĂN:

Người đời nghe nói “chư Phật đều truyền tâm pháp”, cho là trên tâm riêng có một pháp có thể chứng có thể thủ, bèn đem tâm tìm pháp.

GIẢNG:

Người đời nghe nói chư Phật đều truyền tâm pháp, như Phật truyền tâm pháp cho ngài Ca-diếp v.v… rồi cho rằng trên tâm có một pháp, đó là lầm lẫn. Pháp đó tức là tâm, nói truyền tâm tức là ấn chứng người đó nhận bản tâm đúng như thật, như Phật đã nhận, ấy gọi là truyền, là ấn chứng.

CHÁNH VĂN:

Họ không biết tâm tức là pháp, pháp tức là tâm, không thể đem tâm lại cầu tâm, trải ngàn muôn kiếp trọn không có ngày được.

GIẢNG:

Pháp và tâm thật sự không hai. Tâm tức là pháp, pháp tức là tâm. Nếu chúng ta lầm không nhận ra tâm đó, đi tìm cầu pháp, tưởng pháp là cái gì khác, không ngờ cũng là tâm của mình. Như vậy tìm cầu đến muôn kiếp không biết chừng nào mới được.

CHÁNH VĂN:

Đâu bằng chính nơi đó vô tâm, tức là bản pháp.

GIẢNG:

Như vậy thì hết sức gọn, chính nơi đó vô tâm. Nơi đó vô tâm là sao? Tức là ngay khi duyên theo cảnh, duyên theo trần mà mình không dấy niệm chạy theo, không dấy niệm dính mắc thì ngay đó là vô tâm. Mà vô tâm là bản pháp, tức pháp gốc.

CHÁNH VĂN:

Như người lực sĩ quên hạt châu trên trán, hướng ra ngoài tìm kiếm, chạy khắp mười phương trọn không thể được. Người trí chỉ cho, liền đó tự thấy bản châu như cũ.

GIẢNG:

Thí dụ như lực sĩ trên trán có hạt châu. Người ấy bỗng quên hạt châu trên trán, cứ chạy đầu này đầu nọ tìm hạt châu. Nếu có người trí thấy rõ hạt châu trên trán, chỉ cho anh ta, bấy giờ anh rờ lên trán liền đụng hạt châu, khỏi phải chạy tìm kiếm nữa. Trong nhà Thiền, các Thiền sư dùng đủ cách chỉ hoặc Phật tức là ông, hoặc Phật ở dưới gót chân ông v.v… Nói thế nghe dễ quá người ta không chịu, nên phải nói Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thần thông này kia họ mới chịu. Như vậy chạy tìm cực khổ hay đứng một chỗ nhận ra cực khổ? Vậy mà thiên hạ chịu cái khổ, không chịu ngồi lại nhận ra, rốt cuộc tìm hoài không ra chỗ chân thật.

CHÁNH VĂN:

Người học đạobản tâm mình không nhận là Phật, bèn hướng ra ngoài tìm cầu khởi công dụng hạnh, y thứ lớp chứng, nhiều kiếp cần cầu hằng không thành đạo.

GIẢNG:

Ở trên là ví dụ, đến đây hợp pháp. Người học đạo quên mất bản tâm giống như chàng lực sĩ quên hòn ngọc. Không nhận mình là Phật, chàng lực sĩ không nhận ngay nơi trán có hòn ngọc. Chạy ra ngoài tìm cầu, dùng đủ thứ công, đủ thứ hạnh để tu, nhiều kiếp cần cầu mà hằng không thành đạo, vì cầu bên ngoài làm sao được.

CHÁNH VĂN:

Không bằng thẳng đó vô tâm, quyết định biết tất cả pháp vốn không sở hữu, cũng không sở đắc, không y không trụ, không năng không sở, không động vọng niệm, liền chứng Bồ-đề.

GIẢNG:

Như vậy chi bằng chúng ta được vô tâm, vô tâm thì quyết định tất cả pháp vốn không có sở hữu, không năng, không sở. Không sở hữu thì không sở đắc, không chỗ y trụ, không động vọng niệm, đó là Bồ-đề. Bồ-đề không phải chuyện ở xa, mà Bồ-đề là giác, là Phật của mình.

CHÁNH VĂN:

Đến khi chứng đạo, chỉ là chứng bản tâm. Phật nhiều kiếp dụng công đều là tu suông, như lực sĩ khi được châu chỉ được hạt châu sẵn trên trán, không quan hệ gì sức chạy ra ngoài tìm cầu.

GIẢNG:

Lực sĩ chạy cả ngày cả tháng cả năm tìm hạt châu. Nhưng tới chừng rờ lại thì thấy hạt châu sẵn trên trán. Như vậy anh có kể nhờ công chạy đầu này góc nọ mà được châu không? Chạy chỉ uổng công phí sức thôi, chớ thật hạt châu trên trán sẵn. Chúng ta cũng vậy, chạy nơi này, tìm nơi kia cho thấy Phật, thấy đạo. Thật ra Phật, đạo ngay nơi mình không ở đâu xa hết. Chịu khó nhận thì được, muốn nhận ông Phật của mình phải làm sao? Phải vô tâm.

Ở đây nói vô tâm, song tôi nói khác một chút là “nhớ tâm”. Nói vô tâm với nói nhớ tâm có mâu thuẫn không? Vô là vô tâm nào? Nhớ là nhớ tâm nào? Vô tâm là không có tâm lăng xăng điên đảo vọng tưởng. Nhớ tâm là nhớ nhận ra mình có ông Phật sẵn. Chúng ta vô mà không phải vô, vẫn có tâm chân thật hiện tiền. Nhớ tâm chân thật hiện tiền, đó là chúng ta nhận ra ông Phật của chính mình.

CHÁNH VĂN:

Cho nên Phật nói: “Ta đối với A-nậu Bồ-đề thật không sở đắc.” Sợ e người không tin nên dẫn ngũ nhãn đã thấy, năm câu đã nói, chân thật không dối là đệ nhất nghĩa đế.

GIẢNG:

Đây dẫn trong kinh Kim Cang. Phật vì sợ người không hiểu hoặc hiểu lầm nên nói: “Ta đối A-nậu Bồ Đề thật không sở đắc”, vì cái đó đã sẵn rồi còn gì sở đắc. Nhưng sợ người không hiểu nên Phật nói về ngũ nhãn v.v… cho tới năm câu, chân thật không dối là đệ nhất nghĩa.

CHÁNH VĂN:

Người học đạo chớ nghi tứ đại làm thân, tứ đại không ngã (không thường còn và làm chủ), ngã cũng không chủ, cho nên biết thân này không ngã cũng không chủ. Chớ nghi năm ấm làm tâm, năm ấm không ngã cũng không chủ, cho nên tâm này không ngã cũng không chủ. Sáu căn, sáu trần, sáu thức hòa hợp sanh diệt cũng lại như vậy. Mười tám giới đã không thì tất cả đều không, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch.

GIẢNG:

Ngài chỉ cho chúng ta phân biệt thân này do tứ đại giả hợp nên không có ngã, tức không có chủ thể. Nhưng đa số người đời không chịu như thế, vì thấy thân ràng ràng đây mà nói vô ngã làm sao chấp nhận. Bởi chúng ta mê nên lời dạy của bậc giác ngộ khó nhận được. Tứ đại là đất nước gió lửa, thân này do bốn chất đó kết hợp lại thành. Đã bốn chất kết hợp thành, làm sao có chủ. Nói tứ đại là nghiêng về sắc thân, nói ngũ uẩn thì gồm cả thân và tâm. Sắc thuộc về thân, thọ tưởng hành thức thuộc về tâm.

Xét thân năm uẩn, đứng về mặt sắc chất nó không có chủ thể, không có ta. Đứng về tâm, thọ tưởng hành thức cũng không có chủ. Hai thứ thân và tâm đều không có chủ thể. Nói tâm tôi đang nghĩ thế này thế kia, đó đều là thọ tưởng hành thức mà ra. Thân và tâm chúng ta đang chấp đây đều không có chủ thể, không thậtchúng ta bám vào đó cho là thật. Ở đây có người nào can đảm dám nói tôi tin chắc thân này không phải tôi và tâm lăng xăng không phải tôi không? Chỉ nói tôi hiểu mang máng, tin sơ sơ vậy, chớ không dám tin chắc, không dám hiểu thật. Bởi vì không can đảm nhận nó giả dối, tạm bợ, cứ ngỡ nó là thật mình. Cho nên nghe nói nó giả dối tạm bợ đau lắm, không ai chịu nổi.

Người mê mà chỉ cái thật cho, họ chịu nhận không? Không chịu nhận. Họ không chịu nhận, người chỉ có buồn có giận không? Chỉ bao nhiêu lần, nhắc bao nhiêu phen mà cứ nói thật hoài, có tức không? Nếu phàm phu thì tức, còn Phật không tức. Phật thương chúng sanh ngu mê nhiều đời, nghe tai bên này lọt qua tai bên kia. Bởi vậy nên cứ lạy Phật khóc hoài, Phật làm sao được bây giờ.

Sáu căn, sáu trần, sáu thức hòa hợp sanh diệt cũng lại như vậy. Mười tám giới đã không thì tất cả đều không, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch. Mười tám giới tức sáu căn, sáu trần, sáu thức. Sáu căn là thân, sáu trần là cảnh, sáu thức là tâm. Ba cái này đều là nhân duyên hòa hợp, là tướng sanh diệt. Như vậy mười tám giới không thật, chỉ có bản tâm thênh thang trong sạch mới thật thôi. Mười tám giớinhân duyên hòa hợp mà sanh nên nó giả hợp, còn tâm thênh thang trong sạch đó biết được mười tám giới giả hợp, nó mới là thật, thênh thang, trong sạch. Biết sáu căn, sáu trần, sáu thức như vậy nhưng cả ngày chúng ta đuổi theo căn trần thức mà không chịu nhận ra cái chân thật của mình.

Chư Tổ rút gọn chỉ thẳng, nghe hơi khó hiểu nhưng thấm được thì thấy đơn giản vô cùng. Ngồi lại học lời giảng của chư Tổ thế này mới thấy ba tạng kinh quá nhiều công phu, còn ở đây thật là đơn giản. Các ngài đem hết tâm can chỉ thẳng cho mình thấy, không để chúng ta phải lang thang trong Tam Tạng giáo điển mất thời giờ. Đôi khi nhiều quá, rộng quá chúng ta không biết pháp nào chỉ thẳng cội nguồn cho mình nhận ra để tu.

Bây giờ làm sao cho ông Phật của mình hiển lộ ra? Chỉ vô tâm thì Phật hiển lộ thôi. Chỉ cần nỗ lực thực hiện đúng như lời chỉ thẳng của chư Tổ, nhất định chúng ta sẽ thành công.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31567)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10503)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11203)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12709)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10792)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16599)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10789)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22928)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11990)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11469)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10664)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12309)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11183)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9997)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10314)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11893)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10681)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12341)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9785)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11239)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13822)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9568)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12607)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9680)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10437)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10533)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10291)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9880)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11032)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11989)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10131)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9528)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9881)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8754)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9486)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14501)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8759)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12532)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10400)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9057)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10540)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9318)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8778)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10491)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9170)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8346)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12002)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9685)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10203)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10217)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19097)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9379)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8962)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9570)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9008)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14727)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10066)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8338)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8931)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8956)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8728)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9346)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14558)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9019)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8745)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9021)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10506)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8620)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9972)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24252)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10151)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11002)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8986)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9453)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7994)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9227)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15323)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10316)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9558)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17424)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21358)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12142)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10222)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19204)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25987)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7952)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14725)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10614)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11338)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9518)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18622)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12336)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11858)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10722)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13320)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9966)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9256)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9363)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15837)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant