Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đoạn 5

04 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8245)
Đoạn 5

TRUYỀN TÂM PHÁP YẾU GIẢNG GIẢI

HT Thích Thanh Từ

ĐOẠN 5

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Thế nào là đạo? Tu hành thế nào?

Đáp: Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành?

Hỏi: Các nơi tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào?

Đáp: Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ.

Hỏi: Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp gì?

Đáp: Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà tìm, tự mình còn không thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Không thấy trong kinh nói: “pháp pháp hình trạng gì”?

GIẢNG:

Câu hỏi thứ nhất: Thế nào là đạo? Tu hành thế nào? Thông thường ai cũng hay hỏi câu này. Đáp: Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành? Ở đây cần phải hiểu chữ đạo cho thật tường tận. Nhiều người cho rằng đạo là phương phápcon đường. Nhưng sự thật, chữ đạo trong nhà Thiền là chỉ cho tâm chân thật của chính mình. Thấy được, nhận được tâm chân thật gọi là thấy đạo hay đạt đạo. Tâm chân thật vốn của mình, đâu phải vật gì bên ngoài mà muốn tu hành. Tu là tu những thứ tạm bợ, giả dối. Nên Tổ trả lời “Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành”. Như vậy chữ đạo ở đây chỉ cho tâm thể chân thật của chúng ta, nó sẵn có, chỉ đừng bị vọng duyên, ngoại cảnh lôi cuốn thì đạo hiện tiền. Tu hành chẳng qua dẹp duyên là đủ.

Hỏi: Các nơi tông sư truyền nhau tham thiền học đạo là thế nào? Đáp: Lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa có thể y cứ. Lâu nay chúng ta nói học đạo, nói thiền là nói với người nào? Nói với người độn căn. Độn căn là người không sáng. Vì vậy chúng ta đừng lấy đó làm chỗ y cứ.

Hỏi: Đây là lời tiếp dẫn kẻ độn căn, chưa biết tiếp dẫn người thượng căn lại nói pháp gì?” Những câu nói tham thiền học đạotiếp dẫn kẻ độn căn, người thượng căn phải dạy làm sao?

Đáp: Nếu là người thượng căn, tại sao lại đến người khác mà tìm, tự mình còn không thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Nếu người thượng căn thì không cần đến người khác tìm. Tại sao? Bởi vì thượng căn thì nhận ngay nơi tánh mình, tâm mình là chỗ y cứ, là chỗ chân thật. Đã có chỗ y cứ còn đi tìm đâu nữa. Chính mình nhận ra còn không có sở đắc, huống nữa có pháp để mình được. Đối với người thượng căn, thượng trí tu là trở lại với tâm tánh sẵn có của mình, đã là sẵn có thì còn tìm đâu nữa. Không tìm thì không có được. Sở dĩ nói được là do tìm, tìm cái bên ngoài chớ không phải cái của mình, vì vậy nói tự mình còn không có thể được huống là riêng có pháp xứng tình. Xứng tình là hợp với mong muốn của mình. Không thấy trong kinh nói: “pháp pháp hình trạng gì”? Tổ dẫn kinh để xác chứng ý này.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Nếu như vậy hoàn toàn không cần tìm kiếm?

Đáp: Nếu mài tới cùng thì sức tâm tỉnh giác.

Hỏi: Như thế thì lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không?

Đáp: Ai dạy kia không? Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia?

Hỏi: Đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”?

Đáp: Nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư khôngtrước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

GIẢNG:

Hỏi: Nếu như vậy hoàn toàn không cần tìm kiếm? Đáp: Nếu mài tới cùng thì sức tâm tỉnh giác. Từ này nghe thật khó hiểu. Nếu mài tới cùng thì sức tâm tỉnh giác nghĩa là sao? Chỗ đó không phải tìm kiếm bên ngoài, nhưng biết mài biết giũa thì tâm tỉnh giác càng sáng. Vậy cái gì mài, cái gì giũa? Thật ra chúng ta không có gì để dụng công, nhưng trên thực tế vẫn hằng dụng công. Nghe như mâu thuẫn. Tại sao? Bởi vì nếu có dụng công, tất nhiên người dụng công và cái bị dụng công khác. Còn ở đây mình tự tỉnh, tự giác. Tất cả vọng tưởng phiền não dấy khởi, mình buông đi không theo, lúc đó dường như thấy có buông bỏ phiền não, mà thật ra phiền não không thật, cái thấy phiền não cũng không thật. Như vậy cả hai đều không thật. Do chúng ta tự tỉnh thấy nó không thật nên buông bỏ, chớ không phải thấy thật rồi cố mài giũa cho nó sạch.

Trong giai đoạn tu phải dụng công như thế, không thể nói tâm mình sẵn thanh tịnh là ta sống thanh tịnh được. Rõ ràng bây giờ nó không chịu thanh tịnh, luôn nghĩ bậy nghĩ bạ đây. Nếu chúng ta để y nguyên như thế, thì nó nghĩ hoài làm sao dẹp được, nên phương tiện dùng sức tỉnh giác mài giũa nó. Khi nó lặng thì cái tỉnh giác cũng lặng theo. Vì vậy nói “nếu mài tới cùng thì sức tâm tỉnh giác”.

Hỏi: Như thế thì lẫn thành đoạn tuyệt, không thể là không? Câu hỏi này rất có ý. Chúng ta mài giũa tới khi cả hai mòn hết, thì thành đoạn tuyệt, chẳng lẽ tu tới không ngơ?

Đáp: Ai dạy kia không? Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia?

Ai dạy kia không, nghĩa là dạy tới chỗ cuối cùng là không. Kia là cái gì ông nghĩ tìm kia? Đó là cái thật của chính mình, chúng ta không thấy, không nhận là do vọng tưởng điên đảo mờ ám che đậy, buộc lòng phải mài giũa. Mài giũa nó tiêu mòn dần, cái thật hiện ra, đâu nói là không được.

Hỏi: Đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”? Đáp: Nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ông thấy hư khôngtrước mắt, làm thế nào để đoạn nó?

Ở đây hỏi đã không cho tìm, cớ sao lại nói “chớ đoạn kia”, tức là chớ đoạn nó. Đáp nếu không tìm liền thôi, ai dạy ông đoạn? Ngừng tâm đuổi tìm là được, chớ nói gì đoạn. Vì thể tâm chân thật không tướng trạng nên dùng hình thức hư không để ví dụ. Hư không không có hình tướng làm sao đoạn, thể tâm cũng thế, làm sao đoạn được.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Pháp này có thể đồng với hư không chăng?

Đáp: Hư không sớm chiều đến, ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhắm vào nó mà sanh hiểu.

Hỏi: Lý ưng cùng người sanh hiểu chăng?

Đáp: Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về tình, tình sanh thì trí cách.

Hỏi: Ở trong đó chớ sanh tình phải chăng?

Đáp: Nếu không sanh tình ai nói là phải?

GIẢNG:

Hỏi: Pháp này có thể đồng với hư không chăng?

Đáp: Hư không sớm chiều đến, ông nói có đồng có khác với ta chăng? Chỉ tạm nói như thế, ông bèn nhắm vào nó mà sanh hiểu.

Trong hư không buổi sáng mặt trời lên thì thấy sáng, buổi chiều mặt trời lặn thì thấy tối, sáng tối là cảnh bên ngoài. Hư không không sáng tối, như vậy đồng khác với ta chăng? Hư khôngvô tri, tánh giác là thường tri. Cái vô tri với cái thường tri mà hỏi đồng hỏi khác là sao? Đây chẳng qua tạm dùng hư không để thí dụ, ông bèn nhằm vào nó sanh hiểu, tưởng chỗ chân thật giống như hư không. Như vậy không đúng.

Hỏi: Lý ưng cùng người sanh hiểu chăng? Như vậy cho người sanh hiểu chăng?

Đáp: Tôi không từng chướng ông, cốt cái hiểu thuộc về tình, tình sanh thì trí cách.

Câu này đáp rất rõ ràng. Hỏi “như vậy cho sanh hiểu không”, Ngài đáp tôi không từng chướng, không ngăn, không che ông, ông tự muốn hiểu thì cứ hiểu, nhưng cái hiểu thuộc về tình. Cho nên khi các Thiền sư hỏi “hội không” thường đáp “chẳng hội”. Chẳng hội mà được, còn nói hội thì ăn đòn. Chẳng hội là chẳng hiểu, bị vì hiểu tức là tình, mà tình sanh thì trí cách, không còn trí chân thật hiện tiền.

Chúng ta sống thường dùng tình nhiều hơn trí. Cái gì cũng đặt thức tình tìm hiểu, càng tìm hiểu thì trí chân thật càng lặn mất. Tu được định trí chân thật mới hiện ra. Đã định thì tình còn không? Tình hết. Tình hết trí mới hiện. Tìm hiểu thuộc về tình, càng hiểu tình càng sâu nên nói tình sanh thì trí cách.

Hỏi: Ở trong đó chớ sanh tình phải chăng? Đáp: Nếu không sanh tình ai nói là phải? Hỏi có phải không sanh tình chăng? Nếu còn thấy phải thấy quấy là còn tình. Nếu không sanh tình thì đừng nói phải quấy. Đây là chỗ đặc biệt.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Vừa nhằm chỗ Hòa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng?

Đáp: Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái gì là rơi vào?

Hỏi: Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người?

Đáp: Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, tìm thật pháp chỗ nào?

Hỏi: Đã là chỗ hỏi tự sanh điên đảo thì chỗ đáp của Hòa thượng thế nào?

Đáp: Ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động.

GIẢNG:

Hỏi: Vừa nhằm chỗ Hòa thượng nói ra, là tại sao lại rơi vào nói năng? Hòa thượng vừa mới nói, người nghe lập lại, tại sao lại rơi vào chỗ nói năng?

Đáp: Ông tự là người không hiểu lời nói, có cái gì là rơi vào? Ông không hiểu lời nói, chớ có gì rơi vào, chẳng qua là thấy với chưa thấy thôi, không có gì rơi vào hết.

Hỏi: Từ trên đến đây nói nhiều như thế đều là lời phản lại, hoàn toàn chưa từng chỉ bày thật pháp cho người? Đáp: Thật pháp không điên đảo, nay chỗ hỏi của ông tự sanh điên đảo, tìm thật pháp chỗ nào? Thật pháp là không điên đảo mà ông hỏi quanh hỏi co, hỏi phải hỏi quấy, đó là tự điên đảo rồi, làm sao thấy thật pháp.

Hỏi: Đã là chỗ hỏi tự sanh điên đảo thì chỗ đáp của Hòa thượng thế nào? Hỏi điên đảo thì chẳng lẽ Hoà thượng đáp cũng điên đảo luôn sao.

Đáp: Ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, chớ xem xét người khác. Chỉ giống như con chó ngu thấy có tiếng động là sủa, không phân biệt gió thổi hay cây cỏ động. Ở đây Ngài dạy, ông hãy tự lấy gương soi mặt mình, đừng chạy theo lời nói, mạch văn của người. Nếu chạy theo người ta thì giống như con chó ngu thấy tiếng động là sủa, không biết gió hay cây.

CHÁNH VĂN:

Về Thiền tông tôi đây từ các bậc tiền bối trao truyền đến nay, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ nói “học đạo” là lời để tiếp dẫn. Nhưng, đạo cũng không thể học, còn nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Đạo không có chỗ nơi gọi tâm Đại thừa. Tâm này không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết.

GIẢNG:

Đứng về mặt Thiền tông, các bậc tiền bối trao truyền từ trước đến giờ, không từng dạy người cầu hiểu cầu biết, chỉ dạy người nhận ra, thấy liền thấy, không thấy thì thôi, chớ không cho cầu hiểu biết. Học đạolời nói để tiếp dẫn người sau thôi. Nhưng đạo cũng không thể học. Còn nghĩ học hiểu trở thành mê đạo. Tại sao? Lẽ ra học hiểu thì thông đạo, tại sao mê đạo? Vì càng học, càng hiểu càng trở thành trí suy luận, so sánh, đối chiếu. Mà so sánh đối chiếu thì xa đạo rồi.

Đạo không có chỗ nơi gọi tâm Đại thừa. Vì đạo không có chỗ nơi nên đạo chỉ cho tâm Đại thừa, tâm thênh thang rộng lớn của mình.

Tâm này không ở trong, ngoài, chặng giữa, thật không có chỗ nơi, hay nhất là không được khởi hiểu biết. Tâm này không có chỗ nơi và đặc biệt muốn thấy, muốn gần nó là đừng khởi hiểu biết. Vừa khởi hiểu biết liền cách xa.

Ngài nói đi nói lại, rốt cuộc cũng chỉ cho chúng ta thấy nơi mọi người có tâm thể chân thật, không cho suy luận hiểu biết để mình nhận ra tâm ấy. Bởi vì phải lặng dừng tất cả suy luận tâm ấy mới hiện. Vì vậy chúng ta tu muốn tâm chân thật hiển hiện phải dừng tất cả niệm lăng xăng, đối đãi, phân biệt.

CHÁNH VĂN:

Chỉ nói với ông chỗ tình lượng hiện nay, tình lượng nếu hết thì tâm không chỗ nơi. Đạo thiên chân này vốn không danh tự. Bởi vì thế gian không biết, mê ở trong tình. Cho nên chư Phật ra đời nói để phá việc này, sợ e các ông không rõ, quyền lập tên “Đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nôm”. Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm, đạt nguồn cội hiệu là Sa-môn.

GIẢNG:

Chỉ nói với ông chỗ tình lượng hiện nay, tình lượng nếu hết thì tâm không chỗ nơi. Tình lượng tức là tâm suy luận hiểu biết. Nếu hết tâm suy luận hiểu biết thì tâm chân thật trùm khắp. Tâm suy lượng hiểu biết luôn đặt trên danh tướng. Khi chúng ta phân biệt tên đó, chữ đó, nghĩa đó… là danh. Phân biệt hình này, tướng kia đẹp xấu… là tướng. Tất cả tình lượng phân biệt đều nằm trên danh tướng. Nếu danh tướng tình lượng lặng thì tâm thênh thang bủa khắp, đó là đạo.

Cho nên ở đây dùng chữ “đạo thiên chân” này vốn không danh tự. Tại sao nói đạo thiên chân? Thiên chân có hai cách hiểu. Thứ nhất, thiên chân là cái chân nghiêng một bên. Thường thường nói thiên chân là chỗ đạt được của Nhị thừa, chỉ mới có một bên, chưa viên mãn. Thứ hai, thiên chân ở đây là cái chân thật sẵn có. Đạo sẵn có chân thật này vốn không danh tự. Nên đạo thiên chân tức là đạo sẵn có chân thật. Người thế gian không hiểu nên mê trong tình.

Cho nên chư Phật ra đời thì nói để phá việc này, sợ e các ông không rõ quyền lập tên đạo. Chúng ta sẵn có đạo chân thật, không tên tuổi, không danh tự, người thế gian không biết mê lầm trong tình chấp. Cho nên chư Phật ra đời để phá chấp này, quyền lập tên “đạo”. Không thể nhận tên sanh hiểu, nên nói “được cá quên nôm”. Chúng ta tu phải nhận ra chỗ chân thật, không nên sanh thêm hiểu biết phân biệt nào, vì vậy nói “được cá quên nôm”. Như người cầm nôm đi nôm, cốt được cá chớ không phải được nôm. Cho nên khi được cá thì quên nôm. Chúng ta cũng vậy, nhận ra đạo thì quên hết danh tự, dù danh tự đạo cũng không còn. Nếu còn bám vào danh tự là còn giữ nôm mà không giữ cá.

Thân tâm tự nhiên đạt đạo, biết tâm đạt nguồn cội hiệu là Sa-môn. Sa-môn là gì? “Thức tâm đạt bản nguyên danh vi Sa-môn.” Hiểu được tâm, đạt được nguồn cội gọi là Sa-môn. Người tu mà không hiểu tâm, không thấu suốt được nguồn cội thì chưa xứng là người tu. Vì vậy Tổ dẫn kinh Tứ Thập Nhị Chương nhắc câu này.

CHÁNH VĂN:

Quả Sa-môn là dứt duyên lự mà thành, không phải từ học mà được.

GIẢNG:

Quả của Sa-môn có nhiều bậc. Thí dụ như Tứ quả Sa-môn là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Riêng quả Sa-môn ở đây là quả đạt đạo tuyệt cao, không phải do tâm phân biệt so sánh đối đãi mà thành. Cho nên nói không phải học mà được.

CHÁNH VĂN:

Ông nay đem tâm cầu tâm, bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy, có khi nào được.

GIẢNG:

Nếu đem tâm cầu tâm, có khi nào được. Muốn được tâm chân thật tự mình phải buông hết mọi thứ phân biệt vọng lự, thì tâm chân thật hiện tiền. Bên cạnh nhà người chỉ toan học lấy là đến nhà các bậc thầy cầu mong chỉ dạy, như thế trọn chẳng thể được.

CHÁNH VĂN:

Người xưa tâm lanh lợi vừa nghe một câu bèn dứt học, cho nên nói là “tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân”.

GIẢNG:

Người xưa nghe một câu bèn dứt học, gọi là tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân. Ngài Huyền Giác nói câu này để nhắc chúng ta đến chỗ chân thật rồi không còn học là tuyệt học, vô vi là không còn mọi động tác, mọi suy luận. Được như thế gọi là nhàn đạo nhân, đạo nhân thảnh thơi không còn bận bịu việc gì.

CHÁNH VĂN:

Người thời nay chỉ muốn được biết nhiều hiểu rộng, rộng cầu văn nghĩa, bảo là tu hành, không biết biết nhiều hiểu rộng trở thành bít lấp.

GIẢNG:

Tại sao biết nhiều, hiểu rộng lại trở thành bít lấp? Bởi vì chúng ta học nhiều, nhớ nhiều thì càng che cái chân thật của chính mình, cho nên gọi là bít lấp. Nếu tâm trống rỗng không còn gì che đậy, tâm chân thật sẽ hiện ra.

CHÁNH VĂN:

Chỉ cần biết nhiều sánh với trẻ con ăn tô ăn sữa, trọn không biết tiêu cùng chẳng tiêu.

GIẢNG:

Người muốn biết thật nhiều, thuộc lòng Tam Tạng kinh điển, giống như mấy đứa bé thích ăn bơ, ăn sữa. Nó không biết ăn nhiều không tiêu sẽ thành bệnh. Chúng ta cũng vậy, cứ ngỡ rằng học nhiều, hiểu rộng là hay, không ngờ chính học nhiều hiểu rộng lại trở thành bít lấp.

CHÁNH VĂN:

Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”. Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chân như trọn không có việc này. Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”. Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt tức là Không Như Lai Tạng.

GIẢNG:

Người học đạo tam thừa đều giống như thế, chung gọi là ăn không tiêu, học nhiều quá tiêu hóa không nổi gọi là ăn không tiêu. Nên nói “hiểu biết không tiêu đều là thuốc độc”, tất cả hiểu biết nhiều mà không tiêu hóa nổi thì trở thành thuốc độc.

Hoàn toàn nhằm trong sanh diệt mà lấy, trong chân như trọn không có việc này, học hiểu tìm kiếm phân biệt… tất cả những thứ ấy đều nằm trong sanh diệt, không phải thể chân như.

Nên nói “trong kho vua của ta không có đạo như thế”, trong kho vua không có đạo như thế, không có học lăng xăng như vậy.

Từ trước có tất cả chỗ hiểu biết cần phải dẹp sạch, khiến không, lại không phân biệt tức là Không Như Lai Tạng. Sao gọi là Như Lai Tạng? Sao gọi là Không Như Lai Tạng? Khi không còn dính chấp, không còn khởi phân biệt gọi là Không Như Lai Tạng. Như Lai là Phật, Tạng là kho. Như Lai Tạng là kho của Phật. Kho của Phật chứa gì? Kho của Phật trống rỗng thênh thang, cho nên gọi là Không Như Lai Tạng.

Còn kho chúng ta chứa gì? Chứa đủ thứ bá nạp, tốt xấu hay dở không thiếu thứ gì. Bởi vậy nên gọi là tạng hay tàng thức. Tàng thức đối với Duy Thức học gọi là thức thứ tám, chứa tất cả chủng tử thiện ác, đó là những thứ phân biệt nên gọi là thức. Khi ta dẹp hết tất cả chủng tử thiện ác rồi gọi đó là Không Như Lai Tạng.

CHÁNH VĂN:

Như Lai Tạng lại không một mảy bụi có thể có, tức là vị Pháp vương phá hữu xuất hiệnthế gian, cũng nói rằng: “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được.”

GIẢNG:

Như Lai Tạng không một mảy bụi có thể có, nghĩa là không còn một mảy bụi mới gọi là Như Lai Tạng. Nếu không còn một mảy bụi thì gọi là vị Pháp vương phá hữu xuất hiệnthế gian. Pháp vương phá hữu là gì? Là ông vua pháp dẹp hết những cái có ở thế gian. Cũng nói rằng “Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có một chút pháp có thể được”, đây dẫn kinh Kim Cang để nói đức Phật là vị Pháp Vương Phá Hữu xuất hiệnthế gian.

CHÁNH VĂN:

Lời nói này chỉ là không. Tình lượng hiểu biết của ông cần được tiêu dung, trong ngoài tình hết, trọn không y chấp là người vô sự.

GIẢNG:

Những lời dẫn từ trước đến đây, cốt chỉ cho chúng ta thấy là không, không một pháp, như vậy tất cả tình lượng, hiểu biết cần phải tiêu dung. Tiêu dung là dọn dẹp tiêu hoá hết, không còn gì lợn cợn nữa. Trong ngoài tình hết, ở trong ở ngoài đều không còn tình chấp. Trọn không y chấp là người vô sự, tức không có gì để dính mắc nữa là người vô sự. Người vô sự là người thế nào? Chắp tay ra sau đi tới đi lui thong thả, ngó trời ngó mây là người vô sự chăng? Ngó trời ngó mây mà trong đầu lăng xăng, có phải vô sự chưa? Thân thì thấy như vô sự mà thực tâm chưa vô sự. Vô sự là tất cả tình chấp không còn, trong ngoài đều dứt sạch, chính chỗ đối cảnh vô tâm mới là người vô sự.

CHÁNH VĂN:

Cương yếu giáo lý tam thừa chỉ là thứ thuốc hợp cơ, tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng, chỉ cần rõ biết thì không bị mê hoặc là hay bậc nhất. Không được bên một cơ, một giáo chấp văn nhận hiểu. Tại sao như thế? Thật không có pháp nhất định Như Lai có thể nói.

GIẢNG:

Ở đây Ngài muốn nói cho chúng ta hiểu, sở dĩ Phật giảng dạy có chia ra tam thừa Phật giáo, hoặc ngũ thừa Phật giáo là vì đối bệnh cho thuốc, chớ chưa phải chỗ cứu kính. Bởi hợp cơ cho nên tùy nghi nói ra, tạm thời lập bày, mỗi mỗi không đồng nên pháp này khác pháp kia. Chỉ cần rõ biết thì không mê hoặc, chúng ta cần biết những pháp ấy Phật phương tiện tùy cơ mà thuyết. Biết rành rẽ như vậy, không lầm lẫnhay bậc nhất.

Gần đây tôi có một cái nhìn, như hàng Thanh văn lấy pháp Bát chánh đạo làm căn bản, Duyên giác lấy Mười hai nhân duyên làm căn bản. Trong Bát chánh đạo thứ nhất là Chánh kiến, kế đến là Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, tới Chánh định thì dừng. Còn Đại thừa lấy Lục độ làm căn bản. Lục độ gồm Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ. Như vậy hai bên khác nhau chỗ nào?

Theo Thanh văn, bước đầuChánh kiến, nhận định đúng với Chánh pháp, đúng với lý Tứ đế. Muốn thế phải có trí tuệ mới Chánh kiến được. Trí tuệ ở đâu ra? Phật dạy “các ngươi hãy thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Trí tuệ đó từ học mà được. Các hàng Thanh văn nhờ nghe, nhờ học kinh Phật mà có nhận định đúng, thành ra trí đó là trí hữu học. Từ trí hữu học đi lần lần lên thấy đúng, nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng, tu hành đúng tới chánh định thì dừng. Tại sao? Bởi vì Thanh văn tu muốn cầu Niết-bàn, cứu kính Niết-bàn của Thanh vănDiệt tận định, cho nên dừng lại ở định.

Bồ-tát bắt đầu từ Bố thí, kế đến là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ. Với tinh thần Đại thừa, trước hết dùng lòng Từ bi, do dùng Từ bi nên bố thí. Bố thí dẹp cái gì? Dẹp tham. Kế đến Trì giớibảo vệ cho chúng ta tránh những lỗi lầm. Nhẫn nhục để trừ sân. Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ diệt hết si. Như vậy trí tuệ của Lục độ từ đâu ra? Từ Thiền định mà được, nên trí tuệ đó là trí tuệ vô sư. Bồ-tát ban đầu đi từ tâm từ bi, lần lần tới diệt tham, sân, si, cuối cùng trí tuệ chân thật hiện. Phân biệt sự khác nhau trên pháp tu của hai bên Thanh văn và Bồ-tát, chúng ta mới thấy hai giáo lý sai biệt nhau ở mục đích cứu kính.

Người tu Bồ-tát đạo khi được trí tuệ rồi, biết trí tuệ ấy đâu phải riêng mình có, ai cũng sẵn vì nó là trí vô sư. Do đó mọi người đều có khả năng thành Phật, vì vậy các ngài không nhập Niết-bàn mà chấp nhận đi trong sanh tử để độ chúng sanh. Còn các vị Thanh văn tu học từ Tứ đế được Diệt tận định, nên muốn ra khỏi sanh tử nhập Niết-bàn. Một bên hết duyên nhập Niết-bàn. Một bên nhận ra trí tuệ vô sư, lăn lóc vào đời độ chúng sanh. Đó là chỗ khác biệt giữa Tiểu thừaĐại thừa.

Hiểu vậy mới thấy giáo lý của Phật có từng chặng, nên nói giáo lý Tam thừa chỉ là phương pháp khế cơ thôi. Ở đây chỉ thẳng cho chúng ta biết tới chỗ cuối cùng không còn tất cả những suy nghĩ luận bàn. Nên nói “thật không có pháp nhất định Như Lai có thể nói”, chẳng qua chỉ là phương tiện.

CHÁNH VĂN:

Tông môn của tôi đây chẳng bàn việc này, chỉ biết dứt tâm liền thôi, không cần suy trước tính sau.

GIẢNG:

Tổ bảo tông môn của Ngài chỉ cần dứt tâm, không cần suy trước tính sau. Chỗ này đơn giản mà khó. Ví dụ như người bị bệnh ái nặng, Phật dạy họ quán thân bất tịnh. Quán đến khi nào gớm nó thì bớt ái, như vậy dễ trừ. Còn ở đây không nói bệnh gì hết, miễn niệm dấy lên liền bỏ. Chúng ta bỏ hoài mà không thấy hết nên nói khó. Càng đơn giản càng khó. Cũng thế, chân lý rất đơn giản cho nên khó tìm. Cái gì màu sắc hoa hòe tô điểm bên ngoài, dễ tìm nên người ta thích, nhưng nó không phải chân lý. Chân lý là lẽ thật, rất đơn giản. Hiểu vậy chúng ta thấy lối tu chỉ biết dứt tâm liền thôi là quá đơn giản, vì thế nên khó. Đó là con đường tắt. Khó mà bền chí tu cũng sẽ thành tựu. Còn dễ là con đường quanh, đi không khéo lòng vòng mãi không biết bao giờ mới về đến nhà. Như người leo núi, đi thẳng lên khó, còn đi vòng vòng dễ hơn. Việc tu của chúng ta cũng giống như vậy. Hiểu rồi mới bền chí, mới quyết tâm tu. Nếu không hiểu thì tu lâu thấy mệt mỏi sanh ra chán ngán. Người khéo tu biết buông bỏ những gì dính mắc, che lấp thì tự sáng thôi.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật?

Đáp: Ông có bao nhiêu thứ tâm?

Hỏi: Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm Thánh là Phật?

Đáp: Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi: Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hoà thượng đâu được nói không?

Đáp: Trong tam thừa rõ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp tình phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác, Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm, trở lại mê tâm mình, vì thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Một niệm tình sanh liền sa vào cõi khác, từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay. Không có pháp khác nên gọi thành Đẳng Chánh Giác.

GIẢNG:

Hỏi: Từ trước đến nay đều nói “tức tâm là Phật”, chưa biết tức tâm nào là Phật?

Đáp: Ông có bao nhiêu thứ tâm? Hỏi tâm nào là Phật, Ngài hỏi lại ông có bao nhiêu thứ tâm?

Hỏi: Tức tâm phàm là Phật hay tức tâm Thánh là Phật?

Đáp: Ông chỗ nào có tâm phàm thánh?

Hỏi: Nay trong tam thừa nói có phàm thánh, Hoà thượng đâu được nói không? Tam thừa nói rõ ràngphàm thánh, nếu người tu Thiền từ Sơ thiền tới Tứ thiền thuộc về Phàm phu thiền. Từ Tứ thiền trở lên bước qua Thánh quả, có phàm có thánh. Còn Bồ-tát từ thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng thuộc về Hiền, từ sơ địa cho tới thập địa… thuộc về Thánh. Rõ ràng từ giáo lý Nhị thừa tới giáo lý Đại thừa đều nói có phàm thánh. Tại sao Ngài nói không phàm thánh.

Đáp: Trong tam thừa rõ ràng nói với ông “tâm phàm thánh là vọng”, trong tam thừa giáo lý cũng nói tâm phân biệt phàm, tâm phân biệt thánh là tâm vọng. Nay ông không hiểu trở lại chấp là có, đem không làm thật, đâu không phải là vọng, vọng nên mê tâm. Vì ông còn chấp hai bên phàm thánh, đó là vọng nên còn mê tâm. Ông chỉ trừ dẹp tình phàm cảnh thánh, ngoài tâm không có Phật khác, bây giờ hai bên phàm thánh đều dẹp hết. Nói dẹp phải quấy hơn thua thì dễ, chớ dẹp phàm thánh hơi khó. Dẹp được phải quấy hơn thua cũng là hạng khá, huống nữa là dẹp tình phàm cảnh thánh. Nếu dẹp được tình phàm cảnh thánh thì không còn Phật nào khác nữa, đó là Phật rồi. Cho nên nói ngoài tâm chân thật không có Phật khác.

Tổ sư từ Ấn Độ đến, chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm, trở lại mê tâm mình, vì thế nên đến ông nói “tức tâm là Phật”. Ở đây dẫn lời của Tổ Đạt-ma chỉ dạy. Ngài chỉ thẳng mọi người toàn thể là Phật. Nay ông không biết chấp phàm chấp thánh, nhằm ngoài chạy tìm tức chạy ra ngoài tìm phàm tìm thánh, trở lại mê tâm mình tức quên tâm, vì thế buộc lòng phải nói với ông “tức tâm là Phật”. Nói thế để nhớ tâm mình là Phật, không thể bỏ nó tìm Phật bên ngoài được.

Một niệm tình sanh liền sa vào cõi khác, từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay, thể chân thật hay tâm Phật của mình từ xưa đến giờ không đổi thay tí nào hết. Nếu người có niệm phân biệt suy tính liền rơi vào cõi khác.

Không có pháp khác nên gọi thành Đẳng Chánh Giác. Đẳng là ngang nhau, được Chánh giác bằng nhau chớ không có cao thấp riêng khác.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Hoà Thượng nói “tức” là đạo lý gì?

Đáp: Tìm đạo lý gì? Vừa có đạo lý bèn tức tâm khác.

Hỏi: Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lý này thế nào?

Đáp: Chỉ vì tìm nên ông tự khác người, ông nếu không tìm thì chỗ nào có khác?

Hỏi: Đã là không khác sao lại phải nói “tức”?

Đáp: Ông nếu không nhận phàm thánh thì ai đến ông nói “tức”? Tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào tìm?

GIẢNG:

Hỏi: Hoà Thượng nói “tức” là đạo lý gì?

Đáp: Tìm đạo lý gì? Vừa có đạo lý bèn tức tâm khác. Vừa thấy có đạo lý là tâm khác, chớ không còn tức tâm là Phật nữa.

Hỏi: Trên nói “từ vô thủy đến giờ không khác ngày nay”, lý này thế nào?

Đáp: Chỉ vì tìm nên ông tự khác người, ông nếu không tìm thì chỗ nào có khác?chúng ta chạy tìm nên thành khác. Nếu không tìm kiếm thì có gì khác.

Hỏi: Đã là không khác sao lại phải nói “tức”?

Đáp: Ông nếu không nhận phàm thánh thì ai đến ông nói “tức”? Tại ông nói tâm này là phàm, tâm kia là thánh, nên nói tức phàm là thánh.

Tức như không tức, tâm cũng chẳng tâm, nên trong ấy tâm tức đều quên, người nào lại nghĩ, nhằm chỗ nào tìm? Tới chỗ cuối cùng chữ tức cũng phải buông, chữ tâm cũng phải bỏ, cả hai đều hết. Như vậy không cần tìm kiếm ở đâu.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Vọng hay chướng tâm mình, chưa biết nay nên lấy cái gì dẹp vọng?

Đáp: Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có, ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”.

Hỏi: Đã không y chấp thì truyền trao thế nào?

Đáp: Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi: Nếu tâm truyền nhau tại sao nói tâm cũng không?

Đáp: Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rõ tâm này tức là không tâm không pháp.

GIẢNG:

Hỏi: Vọng hay chướng tâm mình, chưa biết nay nên lấy cái gì dẹp vọng?

Đáp: Khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vọng vốn không gốc, chỉ nhân phân biệt mà có, ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”. Nói khởi vọng dẹp vọng cũng thành vọng. Vừa thấy vọng chúng ta khởi dẹp nó, như vậy cái khởi dẹp cũng là vọng. Nhưng nếu vọng khởi mình không dấy niệm bỏ, làm sao nó hết, cho nên giai đoạn đầu phải phương tiện dùng cái này bỏ cái kia.

Nhưng khi chúng ta tu sâu rồi, vọng vừa dấy mình nhìn nó mất. Quí vị đừng cố đè, đừng cố dẹp, chỉ thấy nó buông thôi, đừng theo là được. Tại sao đừng đè đừng dẹp? Bởi vì nó có thật đâu mà đè, có thật đâu mà dẹp, chẳng qua biết nó hư dối không theo là được rồi. Vọng vốn không gốc, không thật, chỉ nhân phân biệt mà có. Cho nên Tổ dạy ông chỉ nên đối hai chỗ phàm thánh tình chấp hết, tự nhiên không vọng. Tất cả hai bên: phải quấy, hơn thua, tốt xấu, đúng sai, phàm thánh… đều không dính bên nào thì vọng tự hết. Ngược lại, nếu kẹt một bên, bên này hoặc bên nọ thì vọng không bao giờ hết.

Nếu vì dẹp nó trọn không được có một mảy y chấp, gọi là “ta bỏ hai cánh tay ắt sẽ được Phật”. Tổ dẫn hình ảnh Bồ-tát chặt hai cánh tay để cúng dường, đây là để nói ý bỏ hai bên. Hai bên không còn dính, không còn kẹt, không còn chấp, đó là Phật. Có người bảo khởi nghĩ là vọng, dừng nghĩ là chân, cho nên bỏ vọng cầu chân. Bỏ vọng cầu chân thì còn hai bên hay một bên? Cũng là hai bên. Nói vọng nói chân là phương tiện, chớ không phải thật. Chỉ vọng lặng hết tự nó là chân, cái chân cũng không còn chân, vì đối với vọng nên gọi chân. Vọng hết thì còn gọi là gì? Nó là tâm thể chân thật hiện tiền, không nói vọng, nói chân gì hết.

Cúng dường hai cánh tay là bỏ chấp hai bên. Kinh Đại thừa có những hình ảnh người ta dễ hiểu lầm. Nói Bồ-tát bố thí hai cánh tay, ta tưởng đâu bỏ hai cánh tay được Phật thọ ký. Thích quá hôm nào ta cũng chặt tay để được Phật thọ ký. Nhưng mình chặt tay rồi thì thành người cụt tay, chớ không ai thọ ký cho đâu.

Hỏi: Đã không y chấp thì truyền trao thế nào?

Đáp: Lấy tâm truyền tâm.

Hỏi: Nếu tâm truyền nhau tại sao nói tâm cũng không?

Đáp: Không được một pháp gọi là truyền tâm, nếu rõ tâm này tức là không tâm không pháp.

Truyền tâm là người không còn dính chấp nào, tâm thể hiện tiền, nghe người kia trình bày chỗ không còn dính mắc của họ, hai bên thông cảm nhau gọi là lấy tâm truyền tâm. Tổ Đạt-ma truyền pháp cho Tổ Huệ Khả. Tổ Huệ Khả nói “ngày nay con dứt hết các duyên”, nghĩa là không còn chút dính mắc nào. Tổ Đạt-ma sợ dứt hết các duyên lại chấp không, nên nói “coi chừng rơi vào không”. Tổ Huệ Khả nói “rõ ràng thường biết, làm sao không được”. Dứt hết các duyên mà tâm vẫn rõ ràng thường biết, làm sao không. Tổ Đạt-ma nói “ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế”, đó là truyền tâm. Như vậy có truyền gì không? Thường nói truyền trao là đem gậy, đem bát, đem y trao cho gọi là truyền. Còn ở đây ông thấy như vậy đúng với cái thấy của ta, ta thấy đúng với cái thấy của Phật. Đó là thừa nhận chỗ hợp nhau, gọi là truyền, chớ không phải đem cái gì ra truyền cho người.

CHÁNH VĂN:

Hỏi: Nếu không tâm không pháp, thế nào là truyền?

Đáp: Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết.” Việc này nếu đem dạy, ông đâu kham lãnh hội.

Hỏi: Như hư khôngtrước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp: Tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, cho dù thấy được mày mắt rõ ràng, nhưng thật ra chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ gì việc của ông?

Hỏi: Nếu không nhân chiếu khi nào được thấy?

Đáp: Nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”.

Hỏi: Nếu người hiểu rồi chiếu cũng không vật sao?

Đáp: Nếu là không vật thì cần gì phải chiếu, ông nếu mở mắt thì nói hết ngủ.

GIẢNG:

Hỏi: Nếu không tâm không pháp, thế nào là truyền?

Đáp: Ông nghe nói truyền tâm bèn cho là có khả đắc. Sở dĩ Tổ sư nói: “Khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết.” Việc này nếu đem dạy ông, đâu kham lãnh hội.

Nói truyền tâm là sao? Ngài dẫn Tổ sư nói khi nhận được tâm tánh nên nói không nghĩ bàn, nhận được chỗ không còn nghĩ bàn, rõ ràng không sở đắc, khi được không nói biết. Khi được cũng không nói tôi biết nó, vì nó rõ ràng hằng biết, đâu thể nói biết được nó. Nếu biết nó thì nó là vật bị biết. Việc này nếu đem dạy ông, đâu kham lãnh hội. Tôi có dạy ông cũng không lãnh hội được.

Hỏi: Như hư khôngtrước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm?

Đáp: Tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Giả sử ông thấy được chỉ là cái tâm chiếu cảnh. Như người dùng gương soi mặt, cho dù thấy được mày mắt rõ ràng, nhưng thật ra chỉ là bóng dáng, đâu quan hệ gì việc của ông?

Người hỏi nói rằng như hư khôngtrước mắt, thật không phải cảnh, sao không chỉ cảnh để thấy được tâm. Như hư khôngtrước mắt, ta có thể nhìn biết, sao không lấy đó mà chỉ? Ngài nói tâm gì mà dạy ông nhằm trên cảnh thấy? Tâm đó không phải ngoài cảnh mà có, nó có ngay nơi ông. Giả sử mình thấy được nó, chỉ là thấy tâm chiếu cảnh, chớ không phải thấy tâm thật. Như lấy gương soi mặt, mặt mày trong gương chúng ta thấy được là cái bóng, chớ không phải mặt mày thật. Mặt mày thật không thể thấy, như con mắt không thể thấy con mắt. Vì vậy những gì chúng ta tìm thấy chỉ là bóng dáng thôi, không phải cái chân thật.

Hỏi: Nếu không nhân chiếu khi nào được thấy?

Đáp: Nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, có khi nào được liễu ngộ. Ông không thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”. Ở đây hỏi nếu nói không nhân chiếu khi nào được thấy? Ngài đáp nếu vậy liên hệ đến nhân thường phải nhờ vật, nhân tức là nhân chiếu. Muốn chiếu thì phải có vật mới chiếu được, như vậy chừng nào liễu ngộ. Đây dẫn lời các Tổ nói ông thấy người đến ông nói: “buông tay tợ người không một vật, luống công dối nói mấy ngàn điều”, dù nói mấy ngàn điều chỉ là chuyện luống công, chớ gốc là buông tay không dính một vật. Đó là chủ yếu, còn nói đông nói tây chỉ phương tiện thôi.

Hỏi: Nếu người hiểu rồi chiếu cũng không vật sao?

Đáp: Nếu là không vật thì cần gì phải chiếu, ông nếu mở mắt thì nói hết ngủ.

Đơn giản vô cùng. Hỏi “nếu người hiểu rồi chiếu soi cũng không vật sao”, Ngài đáp “nếu là không vật thì cần gì phải chiếu”. Vì chiếu là soi lại, mà cái ấy không có, lấy gì soi. Bây giờ chỉ nói nếu ông hết mê tức là giác, giống như người mở mắt thì không ngủ. Thức ngủ khác nhau ở chỗ mở mắt với nhắm mắt thôi, sáng tối khác nhau ở chỗ tỉnh hay mê thôi.

CHÁNH VĂN:

Ngài thượng đường bảo:

Biết nhiều trăm thứ, chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy. Đạo nhân là người vô sự, thật không có những tâm nhiều ấy, cũng không có đạo lý gì có thể nói. Vô sự giải tán đi.

GIẢNG:

Ngài bảo “biết nhiều trăm thứ chẳng bằng không cầu, tột bậc nhất vậy”, chỗ không cầu là tột bậc nhất, còn biết nhiều trăm thứ không phải là hay.

Đạo nhân là người vô sự, thật không có những tâm nhiều ấy, cùng sự không có đạo lý gì có thể nói, nói đạo nhân là chỉ cho những người vô sự, vô sự thì không có tâm lăng xăng lộn xộn, chỗ tột cùng sự không còn đạo lý gì để nói nữa. Cuối cùng Ngài nói một câu dễ dàng nhất: Vô sự giải tán đi, không còn chuyện gì nữa thì giải tán đi, học nhiều làm chi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25633)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19565)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18654)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14253)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9492)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14352)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35556)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10645)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23190)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13352)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10740)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10593)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9951)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14858)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17647)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17587)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13181)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31148)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25731)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13971)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17493)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10959)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12274)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10458)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12255)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11749)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9608)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12347)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9191)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8486)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9947)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9752)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12026)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14411)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9896)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11202)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8290)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10962)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14078)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9902)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15199)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13032)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23069)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23969)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12558)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15417)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17769)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15045)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16541)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16083)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17628)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11579)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11611)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17815)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10768)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10510)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11314)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12073)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11032)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36395)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8950)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9668)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34700)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17258)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10230)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10466)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12193)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13624)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14645)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9142)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24796)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11627)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10305)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15930)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15560)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14510)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12992)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12437)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14564)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18345)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9563)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18505)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18572)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19004)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18823)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11823)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13331)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47974)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11060)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13544)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13029)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11056)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12544)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11044)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31759)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11656)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant