Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bài tụng Sandōkai (Tham đồng khế)

06 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 19174)
Bài tụng Sandōkai (Tham đồng khế)
BÀI TỤNG SANDOKAI
(THAM ĐỒNG KHẾ)

Tâm Thái

Trong mỗi buổi lễ hàng ngày, các thiền viện thuộc tông Tào Động (Sōtō Zen) Nhật Bản đều có tụng bài Sandōkai, như vậy cho thấy rõ tầm quan trọng của bài tụng này trong tông phái Tào Động. Nhiều thiền sư Nhật đã giảng và viết về bài đó một cách kỹ lưỡng để các thiền giả hiểu rõ ý nghĩa.

Nguồn gốc bài tụng Sandōkai 

Bài tụng Sandōkai, 參同契 (Cantonqi, Tham đồng khế), do thiền sư Trung hoa Thạch Đầu Hy Thiên sáng tác. Bản chữ Hán gồm 220 chữ, mỗi dòng 5 chữ. Vì tầm quan trọng của bài này nên nhiều tác giả Nhật đã dịch ra tiếng Nhật và tiếng Anh. 

Sau đó khoảng 100 năm, Động Sơn Lương Giới (Nhật: Tōzan Ryōkai, 807-869), đệ tử đời thứ ba của Thạch đầu, và là một trong hai vị khai tổ của tông Tào Động, viết bài tụng "Động sơn ngũ vị", cùng một ý hướng với bài Sandōkai. Hai bài tụng này được coi là căn bản của tông Tào Động. Tổ Động Sơn còn trước tác bài "Bảo kính tam muội" (宝 鏡 三 昧 Nhật: Hōkyō zanmai, Precious mirror samadhi) và bài này cũng được các thiền viện tông Tào động tụng mỗi ngày cùng với bài Sandōkai. Bài Bảo kính tam muội đã được HT Thích Thanh Từ dịch trong cuốn Thiền sư Trung Hoa, tập 2. Cùng nên lưu ýđạo Lão cũng có một bài tên Tham đồng khế, cùng tên với bài này.

Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên

thamdongkhe-tamthai-01Thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên (tên Trung hoa: Shitou Xiqian, tên Nhật: Sekitō Kisen, 700-790, có nơi ghi là 695-785), lúc mới xuất gia đã đến xin thọ giáo Lục tổ Huệ Năng, tuy được chấp nhận nhưng không bao lâu thì Lục tổ tịch nên theo lời chỉ dẫn của Lục tổ, đến thọ giáo thiền sư Hành Tư tại núi Thanh nguyên.

"Thiền sư Hành Tư hỏi Thạch Đầu:
- Ngươi phương nào đến?
Thạch Đầu thưa:
- Con từ Tào Khê đến.
- Đem được cái gì đến?
- Chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.
- Mặc tình dùng đi, đến Tào Khê làm gì?
- Nếu không đến Tào Khê đâu biết chẳng mất." 

"Sau đó sư đến Hoành Nhạc tại Nam Tự, cạnh chùa phía đông có gộp đá cao giống như cái đài, Sư lên đó cất am tranh ở. Thời nhân kính trọng Sư nên gọi là Hòa thượng Thạch Đầu

Sư dạy chúng: "Pháp môn của ta do Phật trước truyền trao, không luận thiền định tinh tấn, chỉ đạt Tri kiến Phật, tức tâm tức Phật. Tâm, Phật, chúng sanh, Bồ đề, phiền não tên tuy khác mà thể vẫn đồng. Các ngươi nên biết, thể tâm linh của mình lìa tánh đoạn và thường, không phải nhơ sạch, lặng lẽ tròn đầy, phàm thánh ngang bằng nhau, ứng dụng không lường, lìa tâm ý thức, ba cõi sáu đường chỉ do tâm mình hiện, như trăng đáy nước, bóng trong gương, đâu có sanh diệt. "(Thiền sư Trung hoa, tập 1)

Sư có trước tác bài "Tham đồng khế" (Sandōkai) và bài "Thảo am ca". 

Thời đó thuộc nhà Đường và được coi là thời kỳ hoàng kim của thiền tông Trung hoa. Kể từ khi tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Hoa cho đến cuối thế kỷ thứ 7 nhờ có Lục tổ Huệ Năng nên thiền tông có một nền tảng vững chắc và phát triển mạnh mẽ. Lục tổ có 43 đệ tử đắc pháp, đến đời đệ tử thứ hai thì có 2 vị xuất sắc và đã khai mở 2 dòng phái khác nhau là Thạch ĐầuMã Tổ. Trong khi Thạch Đầu Hy Thiên khai hóaHồ Nam thì Mã tổ Đạo Nhất truyền dạy ở Giang Tây, đó là hai cột trụ thời đó. Các thiền giả thường đến tham vấn cả hai vị đó để học hỏi. Thí dụ điển hình là cư sĩ Bàng Uẩn theo học cả hai vị đó và đã chứng ngộ.

"Ông (Bàng Uẩn) đến yết kiến Hòa Thượng Thạch Ðầu, hỏi: "Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?"
Thạch Ðầu lấy tay bụm miệng ông. ông bỗng nhiên tỉnh ngộ.
Một hôm Thạch Ðầu hỏi: "Từ ngày ông thấy lão tăng đến nay, hàng ngày ông làm việc gì?". Ông thưa: "Nếu hỏi việc làm hàng ngày tức không có chỗ mở miệng". 
Ông liền trình bài kệ :

Hàng ngày không việc khác
Chỉ tôi tự biết hay
Vật vật chẳng bỏ, lấy
Chỗ chỗ nào trái bày
Ðỏ tía gì làm hiệu
Núi gò bặt trần ai
Thần thông cùng diệu dụng
Gánh nước, bổ củi tài.

Thạch Ðầu hứa khả, bảo: "Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia?". 

Ông thưa: "Xin cho con theo sở nguyện, không cạo tóc xuất gia."

Sau buổi tham vấn đó, hòa thượng Thạch Ðầu ấn chứng ông Bàng Uẩn đã ngộ đạo. Sau đó ông theo học với Mã Tổ:

"ông đến tham vấn Mã Tổ, hỏi: "Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?". Mã Tổ bảo: "Ðợi miệng ông hút hết nước sông Giang Tây, ta sẽ nói với ông". Ngay câu nói này, ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở chỗ Mã Tổ hai năm."
(Thiền sư Trung Hoa, tập 1)

Mã Tổ nổi tiếng vì ba câu: "Tức tâm tức Phật", "Phi tâm phi Phật" và "Phi vật".

Thạch đầu đã khai mở tông Tào Động, còn đệ tử của Mã Tổ đã lập nên tông Lâm Tế, là hai tông phái phát triển mạnh cho đến ngày nay. Tổng số đệ tử chứng ngộ của hai vị này lên tới 150 người nên đã đóng góp lớn lao cho việc phát triển Thiền tông đời Đường. (Book of Serenity, Tụng cổ bách tắc).

"Đến ngày rằm tháng chạp niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ sáu (785 T.L.), sư Thạch Đầu viên tịch, thọ chín mươi mốt tuổi, sáu mươi ba tuổi hạ. Vua sắc ban là Vô Tế Đại sư, tháp hiệu Kiến Tướng."

Theo cuốn Denkōroku (The record of the Transmission of the Light, Truyền Quang Lục) do thiền sư Keizan viết, thì Thạch Đầu được ghi là vị tổ Thiền tông thứ 35 theo bảng truyền thừa Phật pháp, kể từ đức Phật Thích Ca, và tính từ vị tổ thứ nhất của Thiền tôngMa Ha Ca Diếp. Thiền sư Keizan (Oánh Sơn, 1268-1325) là vị tổ thứ tư của tông Tào Động Nhật nên bảng truyền thừa đó lập theo tông Tào Động, vì vậy không ghi về các tổ của tông Lâm Tế. Cuốn này quan trọng trong việc tu học vì ghi rõ tiến trình tu chứng của từng vị tổ, nên rất hữu ích.

Bài tụng Sandōkai (Tham đồng khế): 
(Thượng tọa Tuệ Sỹ phiên âm và dịch Việt)

Phiên âm  
Trúc độ Đại Tiên tâm 
Đông tây mật tương phú 
Nhân căn hữu lợi độn 
Đạo vô Nam Bắc Tổ 
Linh nguyên minh hạo khiết 
Chi phái ám lưu chú 
Chấp sự nguyên thị mê 
Khế lý diệc phi ngộ 
Môn môn nhất thiết cảnh 
Hồi hỗ bất hồi hỗ 
Hồi nhi cánh tương thiệp 
Bất nhĩ y vị trụ 
Sắc bản thù chất tượng 
Thanh nguyên dị lạc khổ 
Ám hiệp thượng trung ngôn 
Minh minh thanh trược cú 
Tứ đại tánh tự phục 
Như tử đắc kỳ mẫu 
Hỏa nhiệt phong động dao 
Thủy thấp địa kiên cố 
Nhãn sắc nhĩ âm thanh 
Tỉ hương thiệt hàm thố 
Nhiên y nhất nhất pháp 
Y căn diệp phân bố 
Bản mạt tu quy tông 
Tôn ty dụng kỳ ngữ 
Đương minh trung hữu ám 
Vật dĩ ám tương ngộ 
Đương ám trung hữu minh 
Vật dĩ minh tương đổ 
Minh ám các tương đối 
Tỉ như tiền hậu bộ 
Vạn vật tự hữu công 
Đương ngôn dụng cập xử 
Sự tồn hàm cái hợp 
Lý ứng tiến phong trụ 
Thừa ngôn tu hội tông 
Vật tự lập quy củ 
Xúc mục bất hội đạo 
Vận túc yên phi lộ 
Tiến bộ phi cận viễn 
Mê cách sơn hà cố 
Cẩn bạch tham huyền nhân 
Quang âm mạc hư độ 
Dịch Việt 
Tâm Đại Tiên Tây Trúc
Mật truyền Đông và Tây
Căn tính có bén lụt Đạo 
không có Tổ Bắc, Nam.
Nguồn linh sáng trong veo
Chi phái thầm tuôn trào
Chấp sự vốn mê muội
Khế lý đã ngộ đâu.
Cửa cửa và mọi cảnh
Giao hỗ không giao hỗ
Giao hỗ dẫm lên nhau
Chẳng thế, y chỗ đứng.
Sắc vốn khác tượng, chất 
Thanh cùng phi khổ lạc 
Ngầm hợp lời thượng, trung 
Sáng tỏ câu trong đục.
Hoàn nguyên tính bốn đại
Như con tìm được mẹ
Lửa nóng, gió động lay
Nước ướt, đất cứng dày.
Mắt, sắc, tiếng với tai
Mũi hương, lưỡi mặn chua
Nhưng y mỗi mỗi pháp
Y gốc, lá phân lớp.
Gốc ngọn phải về tông
Tôn, ti, dụng ngữ riêng
Ngay chỗ sáng có tối
Chớ để tối gặp nhau.
Trong tối có ánh sáng
Chớ để sáng nhìn nhau
Sáng và tối, đối nhau
Như bước chân trước sau.
Vạn vật công riêng
Ngay lời, là chỗ dụng
Sự lưu, như hộp đậy 
Lý như mũi tên ghim.
Nương lời thấu rõ tông
Chớ tự lập quy củ 
Mắt chạm không rõ đường 
Vần bước nào hay lối.
Tiến bước chẳng gần xa
Mê thì cách núi sông
Cẩn bạch người theo học lẽ huyền
Chớ để thời gian luống trôi qua.

Ý nghĩa bài tụng

Tên bài tụng

Bài tụng này ý nghĩa sâu xa nên khi các tác giả dịch ra Anh văn, thường chỉ dịch tên bài tụng theo ý chứ không dịch hẳn danh từ Sandōkai. Nhiều tên đã được dùng như: Sự hòa hợp giữa sai biệt và đồng nhất, Sự hòa hợp giữa sai biệtbình đẳng, Sự hợp nhất giữa sai biệt và đồng nhất, Tánh tương tức giữa tương đốituyệt đối vv...

D.T. Suzuki viết: "Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học Viên Dung Vô Ngại do Hoa nghiêm chủ xướng, và họ cố gắng kết nạp nó vào trong những bài giảng của mình. Chẳng hạn, Thạch Đầu (699-790) trong Tham đồng khế, miêu tả tính cách tương giao của Sáng và Tối như là hạn chế lẫn nhau và đồng thời hòa hợp nhau. Động Sơn (806-859), trong một đoản văn chỉnh cú gọi là Bảo kinh tam muội ca, giảng giải về tính cách tương giao của thiên (lệch) và chính (ngay), phần lớn có công dụng như của Thạch Đầu, vì cả Thạch ĐầuĐộng Sơn đều thuộc về phái Hành Tư (tịch 740) được gọi là phái Thiền Tào động. (Thiền luận, quyển hạ).

Như vậy cho thấy bài tụng Sandōkai đã theo tư tưởng kinh Hoa Nghiêm, với những lời giảng qua quan niệm của Thiền tông. Để hiểu rõ hơn về tinh thần bài tụng Sandōkai xin trích dẫn các bài giảng của hai thiền sư thời nay thuộc tông Tào động Nhật để biết về việc tu hành của tông này qua tư tưởng của bài tụng.

*

Thiền sư Shunryu Suzuki

Thiền sư Nhật Shunryu Suzuki (1904-1971) là đệ tử của thiền sư Gyokujun So-on. Sư đến Mỹ năm 1959, ngụ tại San Francisco và lập nên Trung tâm Thiền tại đó. Đến năm 1969 sư lập Thiền viện đầu tiên ở Mỹ tại Tassajara Springs, California. Sư giảng dạy theo tông Tào Động của Dōgen (Đạo Nguyên) (1200-1253) là sơ tổ tông Tào Động Nhật. Sư có trước tác cuốn "Zen Mind, Beginner's Mind" (Thiền tâm, Sơ tâm) rất nổi tiếng, đã bán được hơn một triệu cuốn. 

Cuốn sách được giới thiệu sau đây là: "Branching streams flow in the darkness, Zen talks on the Sandōkai", gồm mười hai bài giảng của sư về bài tụng Sandōkai trong sáu tuần lễ của mùa hè 1970 tại Tassajara. Các thiền sinh đã thâu băng và viết lại thành cuốn sách đó. Tên cuốn sách được lấy từ câu: "Chi phái ám lưu chú" (Những dòng suối chảy trong bóng tối).

Trước hết thiền sư Suzuki giảng về tên của bài tụng: 

"San", (tiếng Nhật) có nghĩa là 3, nhưng ở đây có nghĩa là "vật, pháp". "Dō" là đồng nhất, cũng có nghĩa là "chân tâm". Như vậy có thể hiểu là: "chân tâm bao gồm vạn pháp" và "vạn pháp đều ở trong chân tâm". Để nói thêm về sự tương giao giữa chân tâmvạn pháp nên dùng chữ "kai". Kai là hai bàn tay nắm lấy nhau, chứng tỏ sự thân thiết giữa hai người như một. Chẳng những chứng tỏ chân tâmvạn pháp như một mà vì chúng bản nguyên là một." 

nhấn mạnh là Thiền (Zen) tức là phải thấy vạn pháp như thật.

"Chúng ta chỉ "thấy" với cái tâm phân biệt tốt/xấu, đầy thành kiến, suy tính cho nên đức Phật chỉ rõ là cần phải buông bỏ cái tâm đó thì mới thấy vạn pháp như thật được. Nhưng "buông bỏ" không có nghĩa là diệt chúng, hay dẹp bỏ chúng, mà có nghĩa là phải coi chúng như là những dữ kiện (data) để thấy "như thật". Khi tọa thiền là ngồi với cái Tâm bao gồm muôn pháp đó. Tọa thiền không phải là mong cầu đạt mục đích gì, chỉ biết ngồi (just sit) mà không bị phiền não vì bất cứ chuyện gì xảy ra. Cũng như khi có chim bay trong bầu trời thì bầu trời coi đó như thường, không có phiền não, bực tức

“Khi tọa thiền dù có những ý nghĩ tự nhiên xuất hiện thì cũng vẫn biết, nhưng không chạy theo chúng là đủ, không cần cố công trừ diệt chúng. Còn nếu có ý định dẹp bỏ hoặc cố gắng để không có nghĩ gì hết, cũng như cố gắng để không có nghe thấy gì hết, là điều không thể được. Khi có những ý nghĩ tự chúng nổi, chỉ coi đó là những hoạt động của bộ óc, không có nghĩa gì hết, mặc kệ chúng."
Sư cho rằng ý của bài tụng Sandōkai là để giảng về thực tại từ hai bên.

"Như trên đã nói: "san" có nghĩa là nhiều, "dō" có nghĩa là một. Thế nào là nhiều? Thế nào là một. Nhiều là một, một là nhiều, nhiều sự vật không tự có biệt lập, chúng đều liên hệ với nhau, nên là một. Dù chúng là một, nhưng một đó lại hiện ra nhiều. Cho nên "nhiều" là đúng, mà "một" cũng đúng." "Đó là sự đồng nhất giữa một và tất cả."

giải thích thêm về tánh đồng nhất giữa "một" và "tất cả". Người ta thường giải thích là "thực tại" (reality) chỉ là một. 

"Có một cách khác để giải thích thực tại là dùng sự "khác biệt". Khác biệt là bình đẳng, mỗi sự vật đều có giá trị như nhau, vì chúng khác nhau. Người nam khác người nữ, người nam có giá trị của người nam, người nữ có giá trị của người nữ. Như vậy mỗi vật đều có giá trị bình đẳngtuyệt đối. Vì mỗi vật khác nhau nên mỗi vật có giá trị cá biệt. Cái giá trị đó là tuyệt đối. Không thể nói là "núi" cao nên có giá trị hơn "sông", "sông" tuy thấp nhưng không phải kém giá trị. Núi cao nên nó là núi, nó có giá trị tuyệt đối; nước thấp chảy ở thung lũng nên nước là nước, nó cũng có giá trị tuyệt đối."

"Theo đạo Phật, bình đẳng tức là khác biệt, và khác biệt tức là bình đẳng. Thế thường cho rằng "khác biệt" là trái ngược với "bình đẳng", "một" là trái ngược với "tất cả". Nếu chỉ thấy như vậy là quá thiên về vật chất và phiếm diện."

"Nguồn" (source) là cái gì huyền diệu ngoài sự diễn tả, ngoài văn tự. “Nguồn” đó ngoài sự phân biệt hai bên, như đúng hay sai. Những điều mà ta suy nghĩ, quan niệm thì không phải cái Nguồn đó. Chỉ có đức Phật mới thấy được. Chỉ khi nào chúng ta tọa thiền mới thấy được. Tuy vậy dù chúng tahành trì hay không, dù có giác ngộ hay không, thì ngay cả trước khi giác ngộ chúng ta vẫn sẵn có cái Nguồn đó." Sư dùng danh từ "nguồn" là dịch từ câu: "linh nguyên minh kiểu khiết" trong bài tụng.

giải thích về "sự" và "lý".

"Sự" là các pháp, không những là các vật mà chúng ta nhìn thấy được, mà kể cả những ý nghĩ trong tâm nữa. 

"Đạo Phật không phân biệt những gì ở ngoài hoặc ở trong chúng ta. Chúng ta có thể nói hay cảm nhận là vật nào đó ngoài chúng ta, như vậy là không đúng với lẽ thật. Khi ta nói "Đây là dòng sông", thì dòng sông đã ở trong tâm ta. Khi ta nói: "Kia là dòng sông", nếu ta suy nghĩ kỹ thì ta sẽ thấy là "dòng sông" đó chỉ là ý nghĩ trong tâm ta. Vì vậy nên khi cho rằng có những sự vật ngoài ta thì đó là sự hiểu biết nông cạn, nhị nguyên, thô thiển về sự vật."

"Cái Nguồn chân thật, cũng được gọi là "lý", ở ngoài ngôn từ, nó thanh tịnh và không ô nhiễm. Khi ta muốn diễn tả nó, là ta đã đặt giới hạn và làm nó bị ô nhiễm rồi. Như Bát nhã tâm kinh có ghi: "vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp". Đó là "lý".

"Những gì mà ta nhận biết qua nhận thức là "sự" (Nhật: ji), những gì ngoài nhận thức mới là "lý" (Nhật:ri). 

"Dù có nhận ra rằng: "tất cả là một" cũng chưa phải là đã giác ngộ. Người giác ngộ không gạt bỏ mọi pháp và không dính mắc các pháp, ngay cả cái pháp gọi là lẽ thật.

"Có tu tập thì mới kinh nghiệm được thế nào là Lý. Không phải chỉ có học hỏi mà biết được Lý. Có tu tập mới chứng được Lý, thấy được Lý. Nhưng theo thiền sư Thạch Đầu thì dù có tọa thiền và cho rằng đó là Lý hoặc cho rằng đã đạt được Lý, không phải lúc nào cũng đúng như vậy." (câu: Khế lý diệc phi ngộ)

"Người ta không hiểu được tại sao việc tọa thiềncần thiết. Hồi xưa khi mới theo đạo, Dogēn (Đạo Nguyên, sơ tổ tông Tào Động Nhật) cũng đã đặt ra câu hỏi là nếu tất cả đều có Phật tánh thì tại sao phải tu tập. Dogēn đã thắc mắc vì không giải đáp được vấn đề đó bằng tri thức."

"Khi ta nói "Mỗi người đều có Phật tánh", họ cho rằng Phật tánh giống như viên kim cương ở trong tay áo. Nhưng Phật tánh không phải như vậy. Kim cương chỉ là Sự, không phải Lý. Chúng ta chỉ thấy Sự mà không thấy được Lý. Chúng ta nói về Tánh Không và nghĩ rằng mình đã hiểu được điều đó; nhưng dù cho chúng tagiảng nghĩa rành mạch điều đó, thì cũng vẫn chỉ là Sự, chưa đạt được Lý. Tánh Không chỉ có thể chứng nghiệm được bằng tu tập."

"Chúng ta thường hỏi: "Thế nào là chánh phápđức Phật đã dậy?" rồi ra sức tìm tòi để hiểu. Đó là sự sai lầm. Đó là còn chấp vào Sự. Phật phápvượt qua Sự, qua khỏi các tư duy, qua khỏi mọi vật. Cái sự thậtchúng ta có thể hình dung hoặc suy luận được chỉ là Sự."

"Càng tu tập tọa thiền thì chúng ta càng thấy dễ dàng chấp nhận bất cứ sự vật nào cũng là chính mình. Đó là điều "sự sự vô ngại" (Nhật: jiji muge) đã nói trong kinh Hoa Nghiêm. Vì mọi vật đều liên hệ với nhau nên không thể nói: "đây là con chim sẻ, đây là tôi." Cho nên khó mà tách rời con chim sẻ và tôi. Đó là "sự sự vô ngại".

"Trong bài tụng sandōkai có câu: "môn môn nhất thiết cảnh, hồi hỗ bất hồi hỗ", nghĩa là mọi vậtliên hệ với nhau nhưng chúng vẫn biệt lập. Chúng ta cần hiểu sự vật qua cả hai khía cạnh, chúng đều liên hệ nhưng chúng vẫn hoàn toàn biệt lập.

"Như vậy tất cả sự vật mà ta nhìn thấy và nghe thấy đều liên quan với nhau, và đồng thời chúng cũng hoàn toàn biệt lập và có giá trị riêng của nó. Cái giá trị riêng đó gọi là Lý. Lý là cái làm cho vật gì có ý nghĩa. Dù cho ta không giác ngộ, ta vẫn thấy là có giác ngộ. Giác ngộ đó gọi là Lý."

"Ta hiểu sự vật bằng hai bên: tối và sáng, và ta cho là vật này tốt hoặc xấu. Vật tự nó không có tốt hoặc xấu, chỉ là vì ta thấy và phân biệt cho nó là tốt hoặc xấu. Như trong chỗ tối thì ta không thấy gì để cho chúng là tốt hoặc xấu. Do nơi sáng nên có sự phân biệt nhị nguyên là tốt hay xấu."

"Các bạn có biết công án nổi tiếng này không? Có một ông tăng hỏi thầy, "Trời nóng quá, có cách gì thoát khỏi nóng không?" Ông thầy đáp, "Sao không đến nơi không nóng không lạnh?" Tăng hỏi tiếp, "Nơi nào không nóng cũng không lạnh?" Ông thầy đáp, "Khi lạnh thì hãy thành ông Phật lạnh. Khi nào nóng thì thành ông Phật nóng." Đừng nghĩ rằng nếu tu tập tọa thiền thì đạt được trạng thái không nóng, không lạnh hoặc không vui, không khổ. Các bạn có thể hỏi, "Nếu chúng tôi tọa thiền thì có thể đắc được trạng thái đó không?" Nếu là một ông thầy chân thực thì sẽ trả lời, "Khi các ông khổ thì các ông cứ khổ. Khi các ông vui thì các ông cứ vui." Cái vui sướng này không giống như những vui sướng thường tình, có một khác biệt là những người giác ngộthái độ tự tại, không bị xáo trộn dù vui hay khổ.

"Khi các bạn tọa thiền mà không có chút tâm mong cầu giác ngộ, hoặc mong cầu bất cứ điều gì thì đó mới là giác ngộ thực sự.

"Mồi người đều biệt lập, nhưng vẫn đều liên hệ với nhau. Mặc dầu các bạn liên hệ với nhau nhưng các bạn vẫn biệt lập. Chúng ta nói cách nào cũng được. Nhưng thường thì khi ta nói "biệt lập" ta không có nghĩ đến sự "liên hệ". Nhưng đạo Phật không như vậy, khi nói về thực tại, đạo Phật thường hiểu một cách tường tận để tránh không lẫn lộn. Khi có người nói "Mọi vật đều biệt lập", chúng ta nói "Đúng vậy". Và nếu có người nói "Mọi vật đều liên hệ", đó cũng đúng. 

Chúng ta luôn hiểu vấn đề qua cả hai khía cạnh. Nếu người nào chấp chặt vào ý niệm "biệt lập" thôi, thì chúng ta nói với họ, "Không phải thế, bạn lầm rồi."
"Khi chúng ta nghĩ về một cái gì với ý niệm nhị nguyên, tức là chúng ta thấy và hiểu bằng tri thức. Dù vậy, cần thiết đừng có chấp chặt vào những ý nghĩ đó.
"Mắt, mũi, lưỡi, tai, nhãn thức, tỉ thức, thiệt thứcnhĩ thức đều là pháp, và mỗi pháp đều gốc từ tuyệt đốiPhật tánh. Khi nhìn vật gì, ta cần nhìn vượt khỏi cái tướng của chúng và biết được tại sao chúng hiện hữu. Bởi vì từ gốc mà chúng ta hiện hữu, vì từ Phật tánh tuyết đối mà chúng ta hiện hữu. Biết như vậy thì tất cả chỉ là một.

"Không có ý nghĩ nào về chứng đắc, không có ý nghĩ nào về việc tạo tác, không có ý nghĩ nào về tu tập nghiêm chỉnh, chỉ cần biết ngồi thiền, đó là pháp tu của chúng ta. Hoàn toàn chú tâm vào việc ngồi thiền, đó là tọa thiền.

""Minh" là sáng, "ám" là tối. "Sáng" có nghĩa là thế giới tương đối, nhị nguyên của văn tự, của tâm suy nghĩ, thế giới nhìn thấy được mà ta đang sống. "Tối" tượng trưng cho cái tuyệt đối, nơi mà không có giá trị vật chất, ngay cả giá trị tâm linh- thế giớingôn ngữ và tâm suy nghĩ không đạt tới được. Dù sống trong thế giới nhị nguyên nhưng ta phải luôn hiểu rõ về tánh tuyệt đối.

" Trong "sáng" có "tối", và trong "tối" có "sáng". Sáng hoặc tối đều ở trong tâm ta. Khi nói "tối" không có nghĩa là không có vật gì ở trong đó, khi có "sáng" thì ta thấy rõ vạn vật. Khi ta nói "tối" hoặc "thế giới tuyệt đối" ngoài sự suy nghĩ, thì lại tưởng là có thế giới khác hẳn thế giới loài người, đó là sự sai lầm.

"Chúng ta không nên chấp chặt vào vấn đề Sáng hoặc Tối, không nên chấp chặt vào vấn đề bình đẳng hoặc sai biệt. Là Phật tử thì chúng ta phải biết chuyển tâm từ tốt qua xấu, từ xấu qua tốt. Làm được như vậy thì "xấu" không có nghĩa là xấu, "tốt" không có nghĩa là tốt. Nhưng đồng thời, tốt là tốt, xấu là xấu.

" Câu "bỉ như tiền hậu bộ" trong bài tụng có nghĩa là Sáng và Tối, Tuyệt đối và Tương đối- là những cặp đối đãi, như chân trước và chân sau khi ta bước đi. Đây là một thí dụ rất hay để giảng nghĩa cái Nhất thể (oneness) hoặc ý nghĩa về cặp đối đãi. Chúng ta có thể áp dụng ý kiến đó cho những cặp: vọng tưởnggiác ngộ, thực tại và khái niệm, tốt và xấu, yếu và mạnh.

"Như vậy sáng và tối, mặc dầu là cặp đối đãi, nhưng cũng như nhau, giống như khi bước đi, chân này trước thì chân kia sau. Khi ta bước đi thì chân trước lại thành chân sau, nên coi như không có chân nào trước, chân nào sau. Nếu đứng lại thì có khi chân phải là trước và chân trái là sau. Nhưng khi thực sự bước đi, cũng như khi ta thực sự tu tập, thì không có sáng hoặc tối, chân trước hoặc chân sau.Nếu tôi nói khi tọa thiền không suy nghĩ, thì các bạn có thể lại cho rằng không được cho ý nghĩ nào khởi lên. Đó là các bạn mắc kẹt vào vào ý nghĩ cho rằng chân phải là trước, chân trái là sau. Rồi các bạn không bước đi được nữa.
"Câu "thừa ngôn tu hội tông" tức là khi nghe lời phải hiểu nghĩa. Thường ta chỉ bám vào lời mà không hiểu nghĩa của lời đó, cho nên thường lấy thí dụ ngón tay chỉ mặt trăng. Mỗi thiền sư thường giảng theo sự hiểu biết riêng của mình cho đệ tử, và như vậy có khi thiền sinh mắc kẹt vào lời giảng của thầy của mình và không biết đâu là chánh đạo nữa. Vì vậy các thiền sinh cần phải hiểu phật pháp từ gốc do lời Phật dậy, để thấu qua lời dậy của ông thầy mà tu tập đúng theo Phật đạo.

" Câu "tiến bộ phi cận viễn" rất là quan trọng. Khi ta tu tập theo cái "ngã" của mình thì thường có ý nghĩ làm sao để chứng đắc. Khi ta cố gắng đạt mục đích nào đó, ta thường cho rằng "còn xa lắm mới tới đích" hoặc "gần tới đích rồi". Nhưng theo pháp tu ở đây thì giác ngộ ở ngay đây. Điều đó có vẻ khó hiểu, nhưng nếu ta tọa thiền mà không trụ vào ý nghĩ là để giác ngộ, thì đó chính là giác ngộ. "Tu tập" là một pháp trong pháp giới, "giác ngộ" cũng chỉ là một pháp trong pháp giới. Vì chúng cùng là pháp trong pháp giới nên không giác ngộ chẳng có gì thất vọng, có giác ngộ cũng chẳng có gì là vui mừng, chúng đều như nhau, không khác biệt. Nếu cho giác ngộ là quan trọng thì tu tập cũng quan trọng. Khi hiểu được như vậy là đã giác ngộ, nhưng cũng chẳng vì vậy mà say mê. Cho nên thiền sư Thạch Đầu nói "phi cận viễn" (không gần hay xa).

*
Thiền sư Tetsugen Bernie Glassman

Trong cuốn sách Infinite Circle (Hình tròn vô hạn) thiền sư Bernie Glassman cũng có giảng kỹ về bài tụng Sandōkai.

Sư là người Mỹ, đậu bằng Tiến sĩ Toán học ứng dụng tại đại học UCLA. Năm 1960 sư làm việc cho hãng McDonnell- Douglas ở California. 

Năm 1967 sư theo học thiền sư Nhật Taizan Maezumi, tông Tào Động, tại Trung tâm Zen ở Los Angeles và được công nhậnđệ tử nối pháp năm 1976. Sư có pháp danh là Tetsugen. Năm 1980 sư thành lập Zen community of New York tại Riverdale. Sư là vị Chủ tịch đầu tiên của Soto Zen Buddhist Association tại Mỹ.
Trong phần giới thiệu cuốn sách sư viết, "lần đầu tiên khi tôi hiểu được thiền sư Dōgen, vị tổ sáng lập tông Tào Động Nhật, là năm 1968 tôi đọc bài "Hữu thời" (Being Time). Lúc đó tôi đang hoàn tất luận án tiến sĩ về Toán ứng dụng và tôi sửng sốt khi thấy Dōgen diễn tả về không gianthời gian. Đó là thế kỷ thứ mười ba mà thuyết gia đó đã viết được những điều mà bây giờ chúng ta mới khởi đầu nghiên cứu về tân vật lý và toán! Sau đó không lâu, tôi may mắn được theo học vị tôn sư của tôi là Taizan Maezumi và tôi bắt đầu khám phá thế giới mà Dōgen diễn tả."

Vì pháp tu theo tông Tào Động Nhật có phần khác với các pháp tu thiền khác nên sư chú ý tới sự giải thích thêm. Sư viết, "Chúng ta không tu tập để được giác ngộ hay đắc được bất cứ gì khác, nhưng chúng ta tu tập bởi vì chúng ta đã giác ngộ. Cũng như chúng ta không ăn để mà sống; mà bởi vì chúng ta sống nên chúng ta ăn. Chúng ta thường nghĩ theo lối ngược lại, là phải ăn và thở để sống, mà không nghĩ rằng vì chúng ta sống nên mới thở, ăn và hoạt động. Nói rằng chúng ta tu tập để đạt đạo thì không đúng, vì như vậy là cho rằng nhờ có sự tu tập nên đắc được cái gì đó, có thể là đắc đạo. Cũng với lý luận đó nên cho rằng vì có thở thì mới sống, và sự sống là do có thở. Không, cả hai điều đó xảy ra cùng lúc. Ở đây không áp dụng lý luận theo đường thẳng (linear); nhân và quả là một, không rời nhau.

"Nếu chúng ta ngưng thở thì dĩ nhiên không sống. Hơi thở là một chức năng của đời sống, không thể nào không thở mà sống. Nhưng thở không tạo ra sự sống, chúng không rời nhau. Hơi thở là sự sống.

Vì vậy nên tông Tào Động thấy rằng "tu tập" và "giác ngộ" là một, không nên nghĩ rằng tu tập để được giác ngộ

Sư dịch tên bài tụng Sandōkai là "The Identity of Relative and Absolute" (Tương tức giữa Tương đốiTuyệt đối). Sư giảng nghĩa tên bài:

"Trong tên bài Sandōkai, chữ "san" chỉ cho sự sai khác, tương đối. Chữ "dō" là như nhau, bình đẳng. Chữ "kai" chỉ sự tương hợp giữa như nhau và khác biệt, tượng trưng bằng hình ảnh hai bàn tay nắm nhau. Khi ta bắt tay nhau là hai bàn tay hay một? Chúng không phải là một, không phải là hai.

"Chữ "kai" rất khó định nghĩa. Nhưng tôi nghĩ rằng có thể dùng thí nghiệm của David Bohm để diễn tả (David Bohm, Wholeness and the implicate order, 1996). Ông dùng hai cái ống mà một cái có thể đặt vào trong ống kia và di động dễ dàng. Khoảng cách giữa hai ống trong suốt để có thể quan sát được. Ông đổ chất lỏng dẻo vào hai ống, và nhỏ mực vào đó. Mực hợp lại thành nhiều viên nhỏ, có thể quan sát được. Khi Bohm chuyển cái ống trong thì những giọt mực rã ra cho đến khi không còn thấy được nữa. Nhưng khi ông kéo ống đó lại như cũ thì những giọt mực lại hiện ra. Như vậy khi kéo ống về một chiều thì làm như sự sai biệt giữa hai chất đó biến mất và chỉ còn lại có một chất thôi, nhưng khi kéo ống ngược lại thì sự sai biệt lại hiện ra, như vậy những giọt mực không hề biến mất. Bohm dùng thí nghiệm đó để suy ra điều mà ông gọi là "sự lộ bày của đời sống". Ông nói rằng mọi sự việc –quá khứ, hiện tại, vị lại- đều có mặt ngay đây, ngay lúc này, nhưng chỉ thể hiện tùy theo mọi sự chuyển hiện. Vài sự việc nào đó hiển lộ, và vài sự việc không hiển lộ. Nhưng căn bản thì chúng vẫn có đó nhưng chúng ta không thấy được.

“Tôi cho rằng thí nghiệm đó được coi như một mô hình trung thực cho sự đồng nhất giữa tương đốituyệt đối. Khi gặp duyên thuận tiện, như khi quay ống tròn như thế nào đó, thì sự việc hiện ra. Sự việc đó có hiện ra, hay không hiện ra, thì lúc nào nó cũng vẫn có đó.

Sư cho rằng 4 câu: “Linh nguyên minh kiểu khiết, chi phái ám lưu chú, Chấp sự nguyên thị mê, khế lý diệc phi ngộ “ là 4 câu quan trọng nhất trong bài tụng. 

“Trong bài tụng này và các bài khác trong Thiền tông, thường nhắc đến “sáng” và “tối”. Có khi “sáng” để nói về cái tuyệt đối, và “tối” về tương đối. Nhưng cũng có khi có ý nghĩa ngược lại, như “tối” chỉ cho tuyệt đối, “sáng” chỉ cho tương đối
Nếu ta tắt hết đèn, hoặc vào một chỗ hoàn toàn tối thì ta không nhìn được thấy gì hết, (mọi vật đều bình đẳng như nhau, không còn gì để phân biệt), còn khi bật đèn lên thì ta phân biệt được mọi sự vật khác nhau. Một mặt khác, ta lại nói “sáng” để chỉ cho người có trí huệ, còn “tối” để chỉ người mê muội.

“Điều quan trọng của hai câu đầu là: tuyệt đốitương đối không phải là một, mà cũng không phải là hai. Tuyệt đối tức là tương đối, mà tương đối tức là tuyệt đối.

Trong phần luận về Bát nhã Tâm kinh, tới câu: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, sư viết:

“Sắc chỉ cho các pháp, các hiện tượngthế gian, nói về tánh đa dạng, những khác biệt của sự sống, những hình tướng mà ta nhìn thấy. “Không” chỉ cho tánh Nhất thể (oneness) của sự sống, nghĩa là sự sống nó như vậy, không có sự khác biệt. Kinh nói rằng sắc, nghĩa là tất cả các vật, chỉ là Không, chỉ là Nhất thể (One Body). Tôi là nhà toán học, và trong toán học, một vấn đềchúng tôi nghiên cứu là đồng hình (isomorphism), tánh tương quan giống nhau giữa hai nhóm vật khác nhau. Sự liên hệ đồng hình gợi ý là hai thế giới khác nhau, hoặc có vẻ khác nhau, nhưng thực sự chỉ là một. Cũng tương tự như vậy, “sắc bất dị không, không bất dị sắc” gợi ý là Sắc và Không có liên hệ đồng hình với nhau.
“Như vậy có nghĩa là nếu ta thấy được “tất cả là một” thì ta hiểu được mọi vấn đề. “Không” là cái gì? Đó là cái còn lại khi ta bỏ hết mọi khái niệm và suy tư.

“ Trong câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” chữ quan trọng nhất là chữ “tức”, cái đó chỉ mối tương quan giữa Sắc và Không. Sắc và Không, tánh tương đốituyệt đối, tương nhập nhau mà không có gì ngăn ngại. Nếu mắc kẹt vào một trong hai bên - vào Sắc hoặc vào Không- là sai lầm, vì sự sống chỉ là tiến trình nhịp nhàng giữa hai điều đó. Chúng ta không gì khác hơn là sự tương nhập thường xuyên giữa tuyệt đốitương đối. Đó chính là yếu chỉ của Bát nhã Tâm kinh.

Trở về bài tụng Sandōkai, sư giảng hai câu: "Chấp sự nguyên thị mê, Khế lý diệc phi ngộ", dịch: "Chấp sự vốn mê muội, Khế lý đã ngộ đâu."

"Mê muội là gì? Mê muộichấp Sự. Chấp Sự là điều mê muội nguyên thủy.
"Thấy biết với cái tâm phân biệt thì không phải là sai lầm, nhưng sai lầm chính là vì chấp vào tâm phân biệt đó, mà không thấy rằng các pháp tương đối đó tức là tuyệt đối, là "linh nguyên" (nguồn linh). Đó là mê muội nguyên thủy. Mặt khác nếu ta gạt bỏ những pháp tương đối, thì lại chấp chặt vào tuyệt đối. Đó cũng là sai lầm mà bài tụng chỉ rõ: "Khế lý diệc phi ngộ", ý nói chấp vào tuyệt đối thì chưa phải là ngộ. Vấn đề là ta thường hay chấp vào bên này hoặc bên kia, vào tương đối hoặc tuyệt đối.

"Không cần phải vượt quá cả hai điều tương đốituyệt đối, nhưng là cần buông bỏ cả hai ý niệm về tương đốituyệt đối. Điều này cũng áp dụng cho cả việc thế nào là kinh nghiệm giác ngộ. Thấy rõ tuyệt đối chưa phải là giác ngộ. Khi ta đắc được một kinh nghiệm giác ngộ, dù cạn hay sâu, nếu còn thấy đó là giác ngộ thì vẫn là sai lầm. Lúc mà ta nghĩ về giác ngộ, lúc ta gọi kinh nghiệm nào đó là giác ngộ, thì đã là xa giác ngộ rồi.

"Ta cần phải thấy được cả hai điều tương đốituyệt đối cùng một lúc, rồi sống và hành động với cả hai thái độ đó cùng một lúc. Đó là giải thoát. Chấp chặt vào bất cứ bên nào đều là mê muộichấp trước.

"Một lỗi lầm lớn trong việc hành Thiền là cho rằng trí phân biệt nhị nguyên là điều sai lầm, cần phải được vượt qua hoặc dẹp bỏ. Trái lại điều phải làm không phải là dẹp trừ hoặc vượt khỏi nhị nguyên, mà là phải hoàn toàn dấn thân vào đó. Hoàn toàn dấn thân có nghĩa là phù hợp không những về khía cạnh tương đối mà cả về khía cạnh tuyệt đối.

* *
*

Tông Tào động được khởi đầu từ Trung Hoa do hai vị thiền sư Động sơn Lương giớiTào sơn Bổn Tịch sáng lập tư đầu thế kỷ thứ 9. Sau đó thiền sư Nhật Dōgen (Đạo Nguyên) (1200-1253) qua Trung hoa tu học và được thiền sư Trung hoa là Thiên Đồng Như Tịnh ấn chứng và nhận làm đệ tử truyền pháp. Dōgen trở về Nhật và được coi là sơ tổ tông Tào Động của Nhật. Tông Tào Động hiện nay rất được phát triển tại Nhật và truyền bá mạnh qua các nước phương Tây. 
Bài tụng Sandōkai (Tham đồng khế) tuy do thiền sư Trung hoa Thạch Đầu viết trước khi tổ Động sơn sáng lập tông Tào Động gần 100 năm, nhưng được tông này đọc tụng trong mỗi khóa thiền, chứng tỏ tầm quan trọng của ý nghĩa bài tụng đối với đường lối tu hành của tông này. Sau đó thiền sư Động sơn có viết bài Bảo kính tam muội cũng cùng đường lối đó.

Ý chính của bài tụng là giảng về mối tương tức giữa Sáng (minh, light) và Tối (ám, dark) theo danh từ dùng trong bài. Những danh từ đó được dùng để mô tả những cặp đối đãi như chân lý tuyệt đốitương đối, thánh đếthế đế, giác ngộmê muội, bình đẳngsai biệt, vô ngã và ngã, vô niệm và niệm ... 
Các nhà luận giải như thiền sư Shunryu Suzuki, Glassman, giáo sư D T Suzuki đều nhấn mạnh về ảnh hưởng của kinh Hoa Nghiêm trong bài này. 

Tất cả là một

Như đã trích dẫn ở trên, S. Suzuki cho rằng câu: "Môn môn nhất thiết cảnh, Hồi hỗ bất hồi hỗ" phù hợp với ý của câu "sự sự vô ngại" trong kinh Hoa Nghiêm. Hòa thượng Thích Trí Tịnh có giảng về "sự sự vô ngại" trong kinh Hoa Nghiêm như sau: "Tất cả sự đã toàn đồng một thể tánh mà thể tánh thời dung thông, không phân chia riêng khác, nên bất luận là một sự nào cũng đều dung nhiếp tất cả sự, và cũng đều tức là tất cả sự, một sự nhiếp và tức tất cả sự, tất cả sự nhiếp và tức một sự. Thế là sự sự vô ngại tự tại, nên gọi là “Sự sự vô ngại pháp giới”. Người chứng được Sự sự pháp giới này là bực pháp thân Bồ Tát thành tựu nhứt thiết chủng trí. Viên mãn trí này chính là Ðấng Vô Thượng Giác (Phật Thế Tôn)."

Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra. Cho nên nói rằng: "Một là tất cả, tất cả là một".

Lục tổ Huệ Năng có nói: "Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp", tất cả các pháp đều do "tự tánh" sanh ra, nên "tất cả là một". Cái "Một" này có nhiều tên khác nhau như chân như, Phật tánh, niết bàn, nhất thể, nhất tâm ... Thiền sư Hoàng Bá nói: "Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng... Duy một tâm nầy tức là Phật. Phật cùng chúng sanh không riêng khác." (Truyền tâm pháp yếu- Thích thanh Từ). 

Trong kinh "Văn Thù Sư Lợi nói về Cảnh giới bất tư nghị của Phật": 
"Bồ tát Văn Thù Sư Lợi thưa : - Bạch đức Thế tôn, tự tánh cảnh giới của Phật chính là tự tánh của các phiền não. Bạch Thế tôn! Nếu tự tánh cảnh giới của Phật khác với tự tánh của các phiền não thì đức Như Lai chẳng phải bình đẳng chánh gíác. Vì không khác cho nên đối với tất cả pháp bình đẳng chánh giác mới gọi là Như Lai.

Khế lý diệc phi ngộ 

Nhiều thiền gia cho rằng khi thấy được chỗ "tất cả là một" này thì coi như đã đắc đạo, chỗ rốt ráo của Thiền tông, vì vậy nên cố gắng tu tập để thấy được Phật tánh, chân như ... bằng cách dẹp bỏ, trừ diệt những vọng tưởng, phiền não để cho Phật tánh hiển hiện. Nhưng Thạch đầu viết trong bài tụng: "Khế lý diệc phi ngộ", đạt được lý chưa phải là ngộ. Khi đã đạt được Lý rồi mà nếu chỉ biết trụ vào đó thôi, thì chưa hoàn tất việc tu hành.

Trong kinh "Văn Thù Sư Lợi nói về cảnh giới bất tư nghị của Phật" có viết về việc tu hành của các Bồ tát:

"Tuy biết sâu về vô ngã nhưng luôn hóa độ chúng sanh. Tuy quán tự tánh các pháp giống như hư không, nhưng siêng tu công đức, thanh tịnh quốc độ của đức Phật. Tuy nhập vào pháp giới, thấy pháp bình đẳng, nhưng vì trang nghiêm thân, khẩu, ý của Phật nên không bỏ tinh tấn. Tuy quán các pháp là không, vô sở đắc mà vì hóa độ chúng sanh nên thường hành tinh tấn. Tuy biết các pháp không y cứ, không tạo tác, không thể thủ trước, mà hằng tùy theo các điều nghe được, như lý tư duy." (Thích chánh Lạc dịch).

Trong việc tu hành cần phải ứng dụng Tuyệt đốiTương đối cùng với nhau. Không nên chỉ trụ vào một pháp này mà bỏ qua pháp kia. Như các vị bồ tát tuy đã thấy các pháp là "không" nhưng vẫn tinh tấn tu hành, không buông bỏ thế đế.
Các vị thiền sư cũng vậy, khi mới khởi công tu hành thì thấy "núi sông là núi sông" với tâm phân biệt đủ tình tiết, nhưng sau vài chục năm tu tập mới thấy "núi sông không phải là núi sông", vì thấy tánh không, tánh huyễn cũng như "nhất thể" của muôn pháp, nên coi như đã đạt được Lý. Nhưng sau một thời gian tu tập lâu dài hơn nữa lại thấy "núi sông là núi sông", nhưng cái thấy này khác hẳn cái thấy ban đầu, vì thấy rằng mọi pháp nó chỉ như vậy thôi, mà không bị dính chấp vào đó. Trong mười hình chăn trâu, tượng trưng cho tiến trình tu hành của Thiền tông, bức hình cuối là sau khi thấy người chăn trâu và trâu đều không còn nữa và trở về với bổn nguyên thì đến đó rồi các thiền sư quay trở lại thế gian, dĩ nhiên không phải để tiếp tục hưởng thụ mà là tìm cách độ người.

Đương minh trung hữu ám Vật dĩ ám tương ngộ 
Đương ám trung hữu minh Vật dĩ minh tương đổ 

Bốn câu trên được coi như là trọng tâm của bài tụng để diễn tả mối tương giao giữa những cặp đối đãi.

Tông Tào Động Nhật dịch ra tiếng Anh như sau:
"In the light there is darkness, but don't take it as darkness;
In the dark there is light, but don't see it as light.
 nghĩa: "Trong Sáng có Tối, nhưng đừng cho đó là Tối
Trong Tối có Sáng, nhưng đừng thấy đó là Sáng"

Trong bài tụng "Sáng /Tối" không có nghĩa là buổi sáng, buổi tối hoặc có đèn, có mặt trời thì sáng, không có thì tối, mà dùng để chỉ cho những ý đối nghĩa như Tuyệt đối /Tương đối, Thánh đế /Thế đế, Lý /Sự ... Thạch Đầu viết tiếp: "Sáng và Tối, đối nhau, Như bước chân trước sau." Lúc nào cũng cần quán sát mỗi pháp theo cả hai khía cạnh đối nhau, như chân lý Tuyệt đối luôn đi cùng chân lý Tương đối, kkhông nên trụ vào một bên nào. Trong Bát nhã Tâm kinh, đức Phật giảng "Sắc tức thị Không", nhưng không nên chỉ chấp chặt vào Không, mà phải cùng thấy "Không tức thị Sắc".

Trong kinh Kim Cang, đức Phật cũng giảng theo điều đó, thí dụ: "Này Tu-bồ-đề, chúng sanh, chúng sanh ấy, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh." Đứng về phương diện tuyệt đối, đệ nhất nghĩa đế, thì tất cả là một thể bình đẳng, nên nói "chẳng phải chúng sanh", nhưng về phương diện tương đối tức thế đế, thì có Phật, có chúng sanh, cho nên có câu "ấy gọi là chúng sanh" đi kèm ngay sau đó.

Thừa ngôn tu hội tông 

Tức là phải nương vào lời nói để hiểu rõ tông chỉ. Đó cũng giống như câu nói "nương theo ngón tay để thấy mặt trăng". Nhưng có nhiều người nương vào lời nói của Phật, Tổ và hiểu rồi giảng dậy theo ý của mình, có khi khác hẳn tông chỉ của Thiền tông. Thí dụ như về pháp "vô niệm" mà Lục tổ đã nói thì có người lại cho rằng như vậy phải tu tập sao cho dứt tiệt các niệm khởi. Tổ Huệ Năng đã giảng rõ rằng "nếu chỉ trăm vật chẳng nghĩ, niệm phải trừ hết" thì đó là điều lầm lớn. D.T. Suzuki viết: "vô niệm mà được hiểu là trạng thái “không tư tưởng” chắc chắn sẽ là một tâm trạng quá nhàm tởm đối với mục đích của Thiền học, hay với mục đích của bất cứ thực tập tâm linh nào." (trích "Thiền luận" quyển hạ, Luận một: "Từ Thiền đến Hoa Nghiêm" do Tuệ Sỹ dịch). Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật chỉ rõ sáu căn là gốc khiến chúng sanh lưu chuyển trong vòng luân hồi, nhưng cũng do sáu căn mà chứng quả giải thoát. Như vậy nếu cho rằng tư tưởng khởi lên thì phải trừ diệt hết, có nghĩa là ý căn phải đóng lại, mới đạt được giác ngộ thì sai lầm. Thí dụ đó cho thấy nếu lời nói của Phật, tổ mà không được giảng giải đúng nghĩa thì kết quả rất là sai lạc. Cho nên trong bài tụng này Thạch Đầu còn nhắc nhở là "Vật tự lập quy củ" có nghĩa là chớ tự theo ý nghĩ của mình mà lập ra nghĩa này, điều kia để rồi: "mê cách san hà cố", mê muội thì còn xa đạo như bị ngăn cách bởi núi và sông.

Bài tụng Sandōka (Tham đồng khế) này tuy ngắn nhưng ý nghĩa rất súc tích, nên được coi như nền móng của tông Tào Động Nhật bản, vì vậy nên tông này thường đọc tụng mỗi ngày. Sau đây là bài do các thiền sư Nhật dịch ra tiếng Anh để các thiền giả ngoại quốc đọc tụng:

參同契 Harmony of Difference and Equality

竺土大仙心 The mind of the great sage of India 
東西密相付 is intimately transmitted from west to east. 
人根有利鈍 While human faculties are sharp or dull, 
道無南北祖 the Way has no northern or southern ancestors. 
靈源明皎潔 The spiritual source shines clear in the light; 
枝派暗流注 the branching streams flow on in the dark. 
執事元是迷 Grasping at things is surely delusion;
契理亦非悟 according with sameness is still not enlightenment.
門門一切境 All the objects of the senses
迴互不迴互 interact and yet do not.
迴而更相涉 Interacting brings involvement.
不爾依位住 Otherwise, each keeps its place.
色本殊質像 Sights vary in quality and form,
聲元異樂苦 sounds differ as pleasing or harsh.
闇合上中言 Refined and common speech come together in the dark,
明明清濁句 clear and murky phrases are distinguished in the light.
四大性自復 The four elements return to their natures
如子得其母 just as a child turns to its mother; 
火熱風動搖 Fire heats, wind moves, 
水濕地堅固 water wets, earth is solid. 
眼色耳音聲 Eye and sights, ear and sounds,
鼻香舌鹹醋 nose and smells, tongue and tastes;
然於一一法 Thus with each and every thing,
依根葉分布 depending on these roots, the leaves spread forth.
本未須歸宗 Trunk and branches share the essence;
尊卑用其語 revered and common, each has its speech.
當明中有暗 In the light there is darkness,
勿以暗相遇 but don't take it as darkness;
當暗中有明 In the dark there is light,
勿以明相睹 but don't see it as light.
明暗各相對 Light and dark oppose one another
比如前後歩 like the front and back foot in walking.
萬物自有功 Each of the myriad things has its merit,
當言用及處 expressed according to function and place.
事存函蓋合 Phenomena exist; box and lid fit;
理應箭鋒拄 principle responds; arrow points meet.
承言須會宗 Hearing the words, understand the meaning;
勿自立規矩 don't set up standards of your own.
觸目不會道 If you don't understand the Way right before you,
運足焉知路 how will you know the path as you walk?
進歩非近遠 Progress is not a matter of far or near,
迷隔山河故 but if you are confused, mountains and rivers block your way.
謹白參玄人 I respectfully urge you who study the mystery,
光陰莫虚度 do not pass your days and nights in vain.
(Translation/Compilation copyright Soto Shumucho 1997)

* * *
Xin đọc thêm một tài liệu về võ đường Sandokai- Kobudo Shugyokai tại Montreal, Canada, áp dụng bài tụng Sandokai vào việc tu luyện võ thuật.

Võ sư người Nhật là Yanagiya Kosan đã sáng lập ra võ đường này cách đây 24 năm, hiện nay người lãnh đạo là Réal Genest.

đường chủ yếu lấy bài Sandokai làm đường lối tu tập. Trang web đã giải thích như sau:

"Hiểu được Sandokai là hiểu được Võ thuật cổ truyền của Nhật Kobudo. Những võ sinh Kobudo cũng có cùng mục đích như các thiền sư Zen là đạt được sự giác ngộ (satori). Sandokai không phải là một kỷ luật đặt ra, mà là một phương tiện, một hải đăng trên đường Đạo.

"Qua việc học tập và thực hành tại võ đường, các võ sinh khảo sát về các khía cạnh tâm lýtâm linh được soi sáng bởi bài Sandokai.

"Chúng ta cho rằng có ta và có người. Có sự khác biệt, có khoảng cách giữa những người khác và ta. Chúng ta tin rằng chúng ta là một thực thể trong một vũ trụ gồm nhiều thực thể khác. Từ nhận thức đó chúng ta đánh giá thế giới và mối liên hệ của chúng ta với thế giới.

"Chúng ta thường cho rằng có sự sai biệt giữa chúng ta và những bạn thực tập, hoặc giữa chúng ta và vũ khí trong tay như cây kiếm hoặc cây côn. Tất cả sự luyện tập là cốt để thấy rằng vũ khí cũng là một phần của thân thể ta. Chúng ta phải thấy rằng vũ khí là "một" với chúng ta. Trong giây phút ngắn ngủi chúng ta không còn khái niệm là mình đang dụng công và đang cầm vũ khí trong tay. Lúc tột đinh đó được thể hiện bằng tiếng hét. Tiếng hét biểu hiện cho việc hợp nhất giữa tinh thần, vũ khí và thân thể.

"Trong lúc tột đỉnh đó những sai biệt đều tan biến. Không còn sai biệt giữa thân, ý thức hoặc năng lực cử độngmục tiêu nữa. Tất cả như được gom lại thành một điểm nhỏ.

"Việc tu luyện là cốt để sửa soạn và đạt đến điều kiện để phá vỡ cái vỏ cá nhân và để cho năng lực tâm linh thể hiện.

* * *

Tài liệu trích dẫn:
- Shunryu Suzuki, Branching streams flow in the darkness- Zen talks on the Sandōkai (University of California Press, 1999.)
- Bernie Glassman, Infinite Circle- Teachings in Zen. (Shambala, 2002)
- Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền luận, quyển hạ- do Tuệ Sỹ dịch.
- Hubert Nearman, The Denkōroku or The record of the Transmission of the Light by Keizan Zenji, (Shasta Abbey, 1993)
- Kinh Hoa Nghiêm, Thích Trí Tịnh dịch
- Thích thanh Từ, "Truyền tâm pháp yếu - Thiền sư Hoàng Bá", 
- Kinh "Văn Thù Sư Lợi nói về Cảnh giới bất tư nghị của Phật", Thích chánh Lạc dịch
- Thích thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa, tập 1 và 2
-Từ điển Phật học, Chân Nguyên và Nguyễn tường Bách
- Tự điển Hán-Việt, Thiều Chửu - trên mạng Internet:
 http://perso.orange.fr/dang.tk/langues/hanviet.htm
- Trang web của võ đường Sandokai- Kobudo Shugyokai:
 http://www.sandokaikobudo.org/html/sandokai_1.html

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22898)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 13953)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12900)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 54956)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9062)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14345)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14084)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14123)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13812)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36154)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19784)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18096)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19102)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19045)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20193)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17547)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31384)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15849)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 14895)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14613)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46044)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35797)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 20951)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21473)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23250)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34172)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19405)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18822)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22835)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20086)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18271)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19738)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19453)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33303)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34309)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54360)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37552)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21046)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17798)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63456)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17280)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49480)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27262)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20172)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 22896)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18816)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16253)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17797)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20853)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17272)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14389)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16785)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16286)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15926)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17388)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21858)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15012)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13409)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14301)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15306)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14909)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12588)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13277)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27316)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12425)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13115)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14405)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16131)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12327)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15311)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12807)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12131)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13114)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21509)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11205)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22574)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 14942)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14861)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46045)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22322)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14381)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12521)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18799)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14631)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43708)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56810)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13759)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47344)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13568)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14466)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 28878)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33172)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38252)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15330)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31100)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12418)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40214)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43249)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46475)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14318)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant