Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

05. Nhất Biến

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8932)
05. Nhất Biến

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

III. Những bản văn dịch (từ tiếng Nhật sang tiếng Đức)

5. Nhất Biến

(dịch từ tiếng Đức có đối chiếu bản tiếng Nhật)

Những lá thư và lời dạy cuối cùng (Trích từ phần đầu của Nhất Biến Thánh Nhơn Ngữ Lục)

5.1 Trả lời về câu hỏi của người em gái tướng quân Saiong

Em gái tướng quân Saiong (mất năm 1318) vào triều đại Konkubine. Bà là thứ phi đứng hàng thứ 3 của Thiên Hoàng Kameyama (1248-1304). Năm 1283 Bà trở thành Ni cô và tên đạo của bà là Ichi Amidabutsu.

Dĩ nhiên đây là cơ hội đã đến sau những kinh nghiệm của chúng ta về sự vô thường, về sự sinh và tử nơi thể xác của chúng ta và đã một lần tham dự trực tiếp buổi lễ cầu nguyện với đức Phật A Di Đà, chúng ta chẳng còn là chính chúng ta nữa. Bởi vì tâm của ta đã là tâm của Phật A Di Đà và hành động của thân thể chúng ta là hành động thân thể của đức A Di Đà và ngay cả lời nói cũng là lời nói của Ngài, như vậy thì cuộc sống nầy khi chúng ta sống cũng là đời sống của đức Phật A Di Đà. Nếu chúng ta thọ nhận nơi lời thệ nguyện, thì chúng ta sẽ vượt qua khỏi tình thương cao cả ấy, ngay cả thập ácngũ nghịch trong quá khứ như chúng đương là, với một hay mười niệm tiêu trừ trong hiện tại; thì chúng ta nhận biết rằng sự vượt ra khỏi 3 cõi và sáu đường chẳng cần lý do, mà điều ấy làm cho chúng ta khổ, tốt và xấu luôn hiện hữu. Chúng ta chắc chắn rằng cuối cùng chỉ có thể giữ lại được câu Nam Mô A Di Đà Phật qua ánh sáng trí tuệ của đức Phật rọi soi cũng như sẽ mang đến chúng ta niệm danh hiệu Ngài cho đến khi nào ngừng thở và đời sống nầy kết thúc.

Nghĩa là sự nhớ nghĩ chân chánh cho đến khi chết, để được vãng sanh về Tịnh Độ “Nam Mô A Di Đà Phật”.

5.2 Trả lời câu hỏi cho vị quan của đức vua trước và vị tu sĩ Tsuchimikado

(mất năm 1286, năm 1270 trở thành người xuất gia và là bạn thân của Ippen). Những gì là ra khỏi vòng luân hồi.

Việc niệm Phật qua tha lực là một việc làm bất khả tư nghì. Lời thệ nguyện của đức Phật A Di Đà đã vượt lên trên tất cả thế giới, là con đường trực tiếp giải thoát tất cả chúng sanh. Điều nầy chứa đựng sâu xa nơi trí tuệ của chư Phật. Để ít ra tâm thức có thể dùng một trong ba thừa, với trí tuệ bên trên được báo hiệu! nếu chúng ta không qua những lời dạy khác nhau, như con đường đạt được, giữ lại, dễ dàng chỉ gióng lên qua cửa miệng danh hiệu của lời thệ nguyện và chẳng có ý nghĩa khác như việc niệm danh hiệu, thì chúng ta sẽ gặp chữ, “không nghi ngờ, không tư duy về sức mạnh của lời thệ nguyện và biết rằng đạt được việc tái sanh”. Chánh niệm trong giờ phút lâm chung khi niệm Phật, trong lúc ý thức không còn. Thế là chúng ta sẽ đến được trước đức Phật thọ ký và sẽ sinh về thế giới Tịnh Độ. Đây chính là việc niệm Phật vãng sanh. Nam Mô A Di Đà Phật.

5.3 Trả lời cho Tướng quân Tonoben khi được hỏi về việc niệm Phật mà tôi được an lạc.

Về việc niệm Phật vãng sanh, chúng ta những con người có cả hằng tá tội lỗi chẳng đếm được trong cuộc sống gồm thập ác, ngũ nghịch và bốn trọng tội. Những điều nầy đã làm cho sai sự thật, giữ lại lòng tham trong cuộc sống sai quấy, phá giớità kiến. Do vậy chúng ta phải tái sanh trong luân hồi, ở tương lai không dừng nghỉ. Rồi chết đi cũng như hiện hữu trong sáu đường, sẽ sinh vào bốn cách sanh và chịu khổ trong hai mươi lăm cõi. Tuy là vậy nhưng với lòng từ của Ngài Pháp Tạng trong năm kiếp trước đã thành tựu trí tuệ, đã biết qua danh hiệu Ngài mà nhận ra rằng sẽ vượt qua khỏi vòng chúng sanh ấy và vượt qua khỏi lời thệ nguyện. Ngài đã thành Phật trước đây mười kiếp và đây chính là hạnh nguyện của Ngài để hướng dẫn chúng sanh được vãng sanh với câu Phật hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật. Bởi vì trạng huống giác ngộ được chiếu rọi qua tên của đức Phật A Di Đà, con người cần phải từ bỏ thế giới khổ đau tục lụy nầy để được sanh về Tịnh Độ chẳng kể là tin hay không tin; sạch hay dơ; tội hay chẳng tội nơi chúng sanh. Họ chỉ hoan hỷ khi họ có thể cảm nhận được sự mầu nhiệm của danh hiệu nầy khi niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Khi hơi thở hết rồi và thân mệnh chấm dứt thì sẽ được Ngài hiện ra để thọ ký, dấu hiệu ấy với chúng sanh kia là có thể đạt được sự sống, chết đây chính là việc niệm Phật vãng sanh.

Nam mô A Di Đà Phật

Ngày mùng 1 tháng 9 từ Ippen gởi cho tướng quân Ben

 

5.4 Lời dạy được viết cho một tướng quân về vấn đề tái sanh.

Bởi vì chúng taduyên nghiệp nối kết trong thế giới nầy qua việc sanh lại lần tới, Ngài chẳng nên chối từ việc sanh ở Tịnh Độ. Ngoài danh hiệu chẳng còn giáo lý nào hay hạnh nguyện nào cả. Ngoài danh hiệu chẳng có sự tái sanh. Tất cả chúng sanh đều là kết quả trong ý nghĩa danh hiệu kia. Nghĩa là sự suy nghĩ về việc tắt hơi thở, qua câu Nam Mô A Di Đà Phật chiếu dọi, thì chúng ta sẽ rõ biết giống nhau về một chúng sanh chân thật của sự sống và sự chết. Việc “chánh niệm trong khi chết” là đó vậy. Đây cũng chính là sự suy nghĩ trước đây mười kiếp về sự giác ngộ chân thật. Nam Mô A Di Đà Phật.

Ngày 9 tháng 3 Ippen

 

5.5 Trả lời cho vị Tăng sĩ Kogan, viết để trả lời về việc niệm Phật mà tâm được an lạc.

Tôi đã nhận được sự yêu cầu của Ngài để giải thích về việc đo lường bên trong khi thực hành niệm Phật, chẳng thể nói gì khác hơn về câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật về việc trải nghiệm của tâm thức cũng như sự an lạc của nội tâm cả. Trên tất cả những lời dạy mà những bậc trí tuệ được nói đến chỉ là những điều sai lầm khác nhau khi tường thuật về những bài giảng trước. Do vậy những ai thực hành niệm Phật thì nên từ bỏ việc nầy và đơn giản chỉ niệm Phật mà thôi, trong soạn tập sau (Senkusho) của Ngài Saigyo (1118-1190) nói về việc có người đến thánh nhơn Kuya và hỏi Ngài rằng: Ngài niệm Phật như thế nào? Ngài đã chẳng trả lời ngoài câu nói: “Hãy buông bỏ đi” và đã chẳng dạy gì thêm nữa cả. Đây chính thật là một lời dạy bằng vàng. Ai thực hành việc niệm Phật người ấy sẽ từ bỏ cả trí tuệ lớn lẫn sự ngu si và ngay cả tốt hay xấu trong thế giới hữu hạn nầy. Phân biệt tốt, bề mặt, cao hoặc thấp đều vượt khỏi. Đồng thời cái quả nơi địa ngục hãy bỏ đi, giống như đến được Tịnh Độ và cũng sẽ giác ngộ qua mọi tông phái. Ngay như việc niệm Phậtvượt qua khỏi mọi vật thì sẽ tương đương với tất cả thế giới qua lời thệ nguyện của đức Phật A Di Đà. Khi người ta niệm với giọng tha thiết thì chẳng còn Phật và ta, và cũng chẳng còn những phần khác nữa. Tịnh Độ là tất cả những thế giới giới hạn của tốt và xấu, ngoài ra điều nầy chẳng có gì để lo sợ cả. Chẳng có cái gì tồn tại trong thế giới nầy như: núi, sông, cỏ, cây cho đến sóng của một làn gió, là chẳng phải niệm Phật; chẳng phải chỉ thế giới của loài người mới được bao trùm qua lời nguyện ấy. Nếu các Ngài trong lời nói còn sót lại nầy được chiếu rọi mà một người già chẳng rõ, chẳng hiểu thì hãy để cho chẳng hiểu, hãy để cho người ấy chẳng biết đó đi, các anh chẳng cần suy nghĩ gì cả, hãy giao phó cho lời nguyện và hãy niệm Phật. Bất kể việc niệm Phật bây giờ với sự an nhiên hoặc chẳng tự tại nơi tâm đi nữa thì việc nầy cũng không ra ngòai thế giới bổn nguyện của tha lực. Chẳng có việc gì thiếu sót nơi lời thệ nguyện của đức Phật A Di Đà hoặc giả có thể hơn như thế nữa. Ngoài ra người ta còn cần phải chuẩn bị cho tâm thức một điều gì đặc biệt nữa chăng?

Người ta hãy trở lại vị trí của người vô minh và hãy niệm Phật. Nam Mô A Di Đà Phật.

Ippen gởi cho Tu sĩ Kogan

 

5.6 Trả lời cho Thánh Nhơn Shinnen ở Yokawa trên núi Tỉ Duệ thuộc Kyoto

Với con người, chúng ta đang sống ở thế giới nầy, nối kết với nhiều tình bạn trong những đời trước. Thật là một niềm vui được cùng nhau quy y với Đức A Di Đà; việc suy nghĩ và chấp vào bản ngãtương ưng với vòng sanh tử. Sự giác ngộ là một tâm thức, tâm ấy có cách xa với tất cả mọi tư tưởng. Sinh và tử điều nầy thật sự chẳng có gì cả, qua sự cố gắng của kiến thức, người ta chẳng thể làm gì được. Sự giác ngộ cũng chẳng phải qua sự thực tập mà được. Đồng thời ai chẳng học thì càng lầm lớn và ai chẳng thực tập thì thường phải tái sanh. Chúng ta phải thực tập, trong đó chúng ta phải dụng công từ bỏ thân thể nầy và trong đó chúng ta phải làm chủ hoàn toàn tâm thức nầy. Sự thật nầy là tông phái của con đường giác ngộ và thống nhất với Tịnh Độ và ngay cả những danh từ có khác đi. Trong kinh Pháp Hoa dạy rằng: Chúng ta chẳng thích đời sống trong sự khổ đau nầy, mà đánh giá con đường cao cả ấy.” Trong khi đó Kinh Thiền Định nói: “hãy buông xả thân của các ngươi và sinh vào với sự hiểu biết trọn vẹn. Kết quả sẽ tự nhiên đến, trên con đường Thánh ấy, cũng thực tập tự lực và phải từ bỏ thân thể trong cuộc sống nầy để đến con đường giác ngộ”. Nơi ấy những tín đồ của Tịnh Độ Tông dựa vào tha lực, tin tưởng rằng cuộc sống khổ đau nầy sẽ được trở thành Phật sau khi chấm dứt tâm thức của Phật Tánh. Vì vậy, con người với thói quen như chúng ta ngoài ra còn cần thực hiện đầy đủ việc niệm danh hiệu để được thành tựu, chẳng còn con đường nào khác để được giải thoát cả. Trong Kinh A Di Đà nói rằng: “Kẻ nào niệm Phật sẽ được hộ niệm bởi tất cả chư Phật trong sáu phương và chẳng còn nghi ngờ, và kẻ kia được chắc chắn sanh về Tịnh Độ. Ngoài sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật ra, chúng ta chẳng còn thân thểtâm thức, tên ấy được truyền đến tất cả chúng sanh với chỉ là một”. Ngoài ra: mây lành và hoa trời là dấu hiệu của việc niệm danh hiệu chẳng thể nắm bắt được, với thể thức hiểu biết theo thói quen có thể rõ được chăng? Chúng ta phải tận lực suy nghĩ để hiểu được những hoa nầy và theo như lời khuyên của Ngài, tôi đã kết duyên, đã tụng kinh A Di Đà một trăm biến. Thành kính. Nam Mô A Di Đà Phật.

Ngày 22 tháng 4.

Từ Ippen gởi cho Thánh nhân Shinnen.

 

5.7 Lời dạy viết cho người hỏi về sự thật sau cánh cửa về việc niệm Phật

Niệm Phật vãng sanh có nghĩa là: việc niệm Phật như là việc chắc thật của việc sanh về Tịnh Độ. Chữ “Nam Mô” có nghĩa là “sự tin tưởng nơi tâm”, A Di Đà Phậtviệc làm mà trong việc ấy tạo ra sự tin tưởng. Điều ấy là sự nhớ nghĩ, trong ấy tâm thức và sự thực hiện thay đổi tương ứng với nhau về sự tái sanh. Ai mà sau khi niệm Nam Mô A Di Đà Phật chẳng còn tốt hay xấu nơi tâm, được hay không, chẳng còn theo sau sự nhớ nghĩ, lệ thuộc vào cái gì đó thì kẻ niệm kia là dấu hiệu cho thấy nắm vững nơi niềm tin. Ngoài việc niệm hồng danh, trong khoảnh khắc ấy chẳng thấy có “sự chết”. Người ta chỉ thuần niệm Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật để chờ phút lâm chung.

5.8 Lời dạy viết trả lời những người hỏi về cánh cửa của sự thật.

Mùa xuân đi thì mùa thu đến, trên con đường buông xả của sự giải thoát thật là khó. Cũng như vậy, nếu chúng ta trải qua mùa hoa rụng và trăng tròn, giống như dễ bị trói buộc chúng ta vào vòng luân hồi. Trên đống núi tội lỗi luôn luôn tiếp tục lăn tròn đám mây tham ái và ánh sáng của đức Phật chẳng dọi vào mắt được. Trên biển tái sanh ấy gió lay động những gì không thật tướng và chẳng một lần lay động mặt trăngthực thể. Sự tiếp nhận của sự sống nối kết với sự khổ đau, khi chúng ta trở về sự chết thì con đường nầy sẽ từ điểm tối nầy đi vào điểm tối khác.

Trong lục đạo chẳng có nơi nào mà chẳng làm cho chúng ta lầm lỗi và 4 cánh cửa của chúng sanh chẳng có mái che, dưới đó chúng ta chẳng có nơi để trở về. Chúng ta nên thay vì gọi cái nầy là vòng luân lưu của một giấc mộng hay là sự chân thật? Chúng ta nên gọi nó như vậy, rồi nó sẽ bay lên như một đám mây và nhả khói ra. Chẳng một người nào có thể giữ lại bóng mây ấy trên khoảng không vô tận. Chúng ta nên nói rằng đó chẳng phải là những cảm giác khổ đau vẫn còn ở nơi chúng ta, khi mà chúng ta chia tay với một người thân, sẽ cắt đứt nội tâm của chúng tatâm thức ấy sẽ mang đến sự đỗ vỡ. Mặc dầu chúng ta, là một nhóm với tình bạn hữu thân thiện, lúc ngọn lửa đốt cháy tử thi, nung đỏ sắt nơi địa ngục thì băng đá của địa ngục “hoa sen đỏ” và “hoa sen đỏ lớn” ấy sẽ không tan ra. Dưới làn da mịn bị đốt cháy hai mắt ràn rụa nước mắt khổ đau, thế nhưng ngọn lửa của địa ngục “đốt cháy mạnh” và “đốt cháy thật mạnh chẳng thể dừng nghỉ”. Kêu cứu, cũng vô ích đau buồn, con người như chúng ta cũng quẩn quanh. Thay vì chúng ta từ bỏ làng xóm thành ấp trong 3 thời, ra đi đến thành phố chính của cửu phẩm liên hoa. Ra khỏi là điều khó, từ thung lũng của thành nầy để vượt khỏi sa mạc của khổ đau. Thế giới của sự giải thoát chẳng cầm giữ thế giới thường tình. Nếu một lần chúng ta qua lời thệ nguyện có thể gặp nhau thành nhân duyên nơi cõi giải thoátchúng ta lại chẳng vội vã cố gắng thay đổi cuộc đời. Vậy chúng ta còn đợi chờ gì nữa? Việc niệm Phật tha lực là một sự thực hành chẳng thể nghĩ bàn. Bổn nguyện ấy đã vượt lên khỏi thế giới, là con đường cần thiết để giải thoát cho tất cả con người thường tình nầy. Hãy quên đi thân thể nầy trong niềm tin của các bạn. Hãy để lại tiếng nói của các bạn và hãy để tiếng Niệm Phật lại. Nam mô A Di Đà Phật.

5.9 Lời dạy được viết trả lời người học trò bị bịnh nhẹ.

Sống và chết khởi nguyên từ thể thức của một tâm thức hiện thời của sự nối kết giữa đàn ông và đàn bà và sự lặn hụp trong 3 cõi mang chiếc xe cảm nhận sai trái của sự tham luyến tánh dục trói buộc. Nếu hình thức của đàn ông và đàn bà được giải thểthế giới trói buộc tự thể chẳng còn thì sự chấm dứt sanh tử, căn bản của không ấy sẽ thể nhập vào và cảm giác sai trái có thể chấm dứt ở đây. Bông hoa thì tuyệt diệumặt trăng thì sáng rỡ, cả hai thường là nguyên nhân của vòng xoay tiếp tục của thế giới. Ngay cả sự nhớ nghĩ đến Phật và kinh điển cũng có thể dẫn đến những ngọn lửa của địa ngục, chỉ có căn nguyên là một tâm thức chẳng ra khỏi chính tự ngã của mình. Kết quả của vô ngã là sự nối kết giữa sự thật với thế giới của chúng sanh. Ngay như một tâm thức trải qua 3000 thế giới là một sự thật và là một loại hình chẳng dấy động. Tuy vậy con người đánh mất đi sự tham vọng của tự ngã tự nhiên, nắm bắt điều mong mỏi cách ly, sai quấy trong sự trống rỗng của sanh tử và kéo đến sự giác ngộ tưởng tượng. Như vậy con người theo thói quen giới hạn nên tin tưởng vào ý muốn từ bỏ thế giới tối tăm tội lỗi nầy để đến được cõi Tịnh Độ và vui mừng khi ra khỏi hơi thở vào lúc cuối đời. Để đợi chờ hình bóng tiếp dẫn của các vị Thánh, các con nên niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, rồi các con sẽ vượt lên khỏi sự sống chết với kinh nghiệm của những chúng sanh chân thật ở bên kia bờ sống chết ấy.

Nam Mô A Di Đà.

Năm thứ 7 của Koan (1284) ngày 29 tháng 5 Ippen.

 

5.10 Cuối cùng để lại lời dạy sau rốt (chép lại bởi người đệ tử, Shokai)

Với thế giới ngũ uẩn được cấu tạo bởi năm loại nầy chẳng có bệnh tật, mà bệnh ấy trói buộc vào cuộc sống của chúng ta. Trong tứ đại ấy chẳng có sự khổ, là nguyên nhân tạo ra khổ đau cho chúng ta. Thế nhưng chúng ta quay lưng với tư tưởng tự tánh căn bản. Trong đó chúng ta đang trú nơi ngũ dục và uống tam độc, chúng ta ra khỏi sự khổ đau của ba con đường thường tình ấy. Đây chính là nguyên tắc mà chính chúng ta gặt hái được kết quả do những hành động của chúng ta. Ngoài ra chúng ta còn đánh thức tâm thức của sự suy nghĩ, chẳng phải gì cả, chẳng phải một lần trong tình thương của tất cả chư Phật trong ba đời cứu vớt chúng ta. Nam Mô A Di Đà Phật.

(Dịch xong phần trên ngày 5 tháng 5 năm 2011 tại chùa Hải Đức Jacksonville, Tiểu bang Florida, Hoa Kỳ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31647)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11222)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12746)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10805)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16652)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10814)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22964)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12019)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11491)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10683)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12336)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11193)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10018)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10327)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11906)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10696)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12373)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9811)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11269)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13840)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12623)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9697)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10456)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10548)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9898)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11052)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12015)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10141)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9542)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9895)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9495)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8776)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12553)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10422)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9083)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10557)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9335)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8796)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10510)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9191)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8364)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12027)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9696)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10226)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19131)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9407)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8985)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9586)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14752)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10093)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8348)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8948)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8974)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8736)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9367)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14593)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9034)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8770)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9045)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10531)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8638)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9990)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24280)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10176)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11024)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8994)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8002)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9264)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15348)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10337)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9577)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17439)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21392)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12159)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10233)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19237)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26038)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7975)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14785)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10632)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11348)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9531)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18677)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12353)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11885)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10750)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13342)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9993)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9267)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9378)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15895)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant