Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Định nghĩa và giải thích

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 10296)
01. Định nghĩa và giải thích

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

VI. Từ ngữ

1. Định nghĩa và giải thích

A Di Đà: Tiếng Nhật ghép chung hai chữ Phạn gồm: vô lượng quangvô lượng thọ.

A Xà Thế (Ajâtasátru): Theo việc kể lại trong kinh Quán Vô Lượng Thọ thì A Xà Thế nghe lời dụ dỗ của Đề Bà Đạt Đa giam cha mình là vua Tần Bà Sa La vào ngục thất và bỏ đói. Bà mẹ là Vy Đề Hy đã đến ngục và mang đồ ăn thức uống cho chồng mình; nhưng bị cản trở và sau đó cũng bị nhốt vào ngục thất. Từ đó A Xà Thế chuyên quyền tất cả; đây là bắt đầu cho một trong năm trọng tội.

Ác đạo: Thế giới của ba đường xấu ác phân chia theo truyền thống. Sự phân chia ấy như là sự tồn tại thực tế, phần khác có hình thức thanh hơn, qua sự diễn tả các thể loại khác khi sống.

Ác thú: Ba cõi thấp, theo quan niệm của Phật Giáo thì con người bị sinh vào đó, những nơi ấy là địa ngục, ngạ quỷbàng sanh. Thân Loan cũng thường nói đến 5 hình thức tồn tại ở thể thức xấu, gồm cả sự tồn tại của con ngườichúng sanh nơi cõi trời.

Báo độ: Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Cõi ấy như là kết quả của tất cả những thiện nhơn. Cõi ấy là nơi do pháp thân của Đức A Di Đà tồn tại, mà kết quả là sự giác ngộ cao tột. Ở nơi ấy tín đồ cũng có thể sanh về và họ hoàn toàn từ bỏ tự lực của mình.

Báo thân:hình tướng của một Đức Phật qua sự thọ nhận của hành động.

Bát giới: 8 giới hay còn gọi là Bát quan trai giới. Gồm 5 giới căn bản là không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và thêm 3 giới khác là: xức dầu thơm, thoa hương phấn sáp vào mình; đeo đồ trang sức, múa hát và nghe âm nhạc đều chối từ cũng như không nằm giường cao và chẳng ăn phi thời.

Bất hồi hướng hạnh: Qua sự biểu lộ nầy Thân Loan diễn tả về sự niệm Phật để chỉ cho quan điểm của sự giới hạn, qua đó là sự nhận được công đức tự lựccuối cùng được sanh về Tịnh Độ.

Bát nạn: Nói chung là những ai không có cơ hội để gặp Phật và nghe giáo pháp của Ngài gồm các việc như: 1) sanh nơi địa ngục, 2) sanh nơi thế giới ngạ quỷ, 3) sanh vào súc sanh, 4) là sanh nơi cõi trời hay, 5) sanh nơi Trường Thọ Thiên, 6) sống như một người mù, câm, ngọng, 7) sống như người thế trí biện thông và 8) cuộc sống thuộc về trước hoặc sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Bất thối, bất thối chuyển: Cấp bậc của vị Bồ Tát, đã thành tựu, không còn sinh vào trong thế giới vô thường nữa. Theo sự chứng minh của Phật Giáo Tịnh Độ về sau nầy thì cấp bậc ấy sẵn sàng đạt được là qua việc niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà.

Bình đẳng pháp thân: sự hiện thân của một vị Bồ Tát và khi đạt đến quả vị cuối cùng thì cũng giống như Đức Phật.

Bồ Đề Tâm: Tâm giác ngộ; nghĩa là với tâm thức qua sự tỏ ngộ, những gì đã trải qua sự tỏ ngộ cao cả với tâm thức của một vị Bồ Tát.

Bổn nguyện: Đây là một tư tưởng quen thuộc của Phật Giáo Đại Thừa, là một vị Bồ Tát với lòng từ quảng đại qua sự thệ nguyện của vị ấy. Điều nầy đòi hỏi sự quán chiếu trở lại, để giúp đỡ cho những chúng sanh khác. Trong lời thệ nguyện nầy là sự kết tinh cả về năng lượng, điều mà vị Bồ Tát ấy đặc biệt mong mỏi, lời thệ nguyện tự thể đã trở thành một thực thể. Với Phật Giáo Tịnh Độ ở đây dùng 48 lời nguyện của Pháp Tạng Tỳ kheo, nên gọi là Bổn Nguyện, với Ngài Pháp Nhiênđặc biệt về sau nầy là Thân Loan thường hay nghĩ đến đặc biệt về lời nguyện thứ 18 nầy. Cầu nguyện Đức Phật A Di Đà: Nam Mô A Di Đà Phật.

Chánh định chúng: Đây là một nhóm nhất định được chứng ở điểm cao. Sau kỳ kết tập truyền thống thì nhóm nầy thuộc về cấp bậc cao của sự tái sanh về Tịnh Độ. Theo Thân Loan thì ngược lại, Ngài chỉ tin tưởng nơi lời nguyện của Đức A Di Đà; chỉ trong khoảnh khắc hoàn toàn tái sanhchắc chắn chứng sự giác ngộ cao nhất. Vì thế, Ngài đã chuyển đổi quan niệm trên, tất cả đều qua sự niệm Phật cũng như tin tưởng nơi lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà.

Chánh hạnh: Điều nầy theo Thiện Đạo dùng để chỉ về Đức A Di Đà; nghĩa là tên ấy khi giảng, tương đương với chữ viết, sự kính phục Đức A Di Đà, sự cầu nguyện, niệm danh hiệuxưng tán theo lời nguyện của Ngài. Những người Phật tử khác thực hành rơi vào quan niệm thiểu hạnh (à xem tạp hạnh)

Chỉ: Sự suy nghĩ dừng lại với tự ngã và đối tượng với điều nầy sẽ đạt được sự thanh tịnh tuyệt đối.

Chân như: Biểu lộ của sự thật cao cả có giá trị tuyệt đối.

Chân thật tín tâm: Chí thành tâm, chí tâm. Đây là một trong 3 tâm và ba tâm ấy là sự tin tưởng chân thật và cũng là điều kiện cần thiết theo Thân Loan để vãng sanh.

Chuyên hạnh, chuyên tu: Thực tậptụng niệm; đây là những việc tập trung để đến mục đích giải thoát nhất định và bỏ tất cả những việc khác.

Chuyển luân, chuyển luân vương: Ông vua của thế giới; người ấy mang dấu hiệu tượng trưng cho 32 tướng tốt của Đức Phật và làm chủ trí tuệ to lớn.

Công đức: Tương ưng với thuyết về nghiệp là một vận mệnh tích cực ở tương lai phải tương ứng với những hành động tốt được liên hệ với hiện tại. Công đức là kết quả của những việc làm tốt nhất định, với những “năng lượng tích cực” như vậy cũng là một mục đích có thể chuyển qua đã được chọn lựa (Ví dụ như nơi sinh ra tại thế giới của Phật A Di Đà). Do vậy quan niệm ở đây một phần nào đó cũng được dịch là “kết quả của đạo đức” việc nầy theo ý nghĩa từng chữ của tiếng Nhật lại gần gũi hơn.

Đại Thánh: Ở đây muốn chỉ sự tôn kính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Đại Thừa: Vượt lên các Thừa khác, đây là lý tưởng của Bồ Tát với mục đích cao cả, qua niềm tin; chẳng phải chỉ là tri thức, mà còn giải thoát cho vũ trụ nữa. Thừa ở đây có thể hiểu là lời dạy của Đức Phật cho con người, khiến cho mọi người vượt ra khỏi sự khổ đau của thế giới. Đại Vô Lượng Thọ kinh: Kinh Đại Bản A Di Đà

Đàn Ba La Mật: Đây là một trong lục độ. Bên cạnh đó có trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ.

Đẳng giác: Cấp bậc thứ 51 trong 52 cấp bậc của Bồ Tát. Vị Bồ Tát nầy đứng trước sự giác ngộ cao nhất và hoàn thành tất cả mọi sự thực hành; với những việc nầy gần tương đương với Phật quả.

Đề Bà Đạt Đa: Một người trẻ nguy hiểm đã sát hại Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông ta đã tìm cách quấy phá và giết hại Đức Phật. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọcho biết là Ông ta đã xúi Thái Tử A Xà Thế giam cha vào ngục thất và bỏ đói.

Dị hành: Dùng để chỉ cho việc niệm Phật. Bởi vì những tín đồ ở đây chẳng dùng tự lực siêng năng của mình để được giác ngộ, mà qua tha lực của Đức Phật A Di Đà mới thành tựu. Nguyên thủy của quan niệm nầy được ảnh hưởng bởi Ngài Thế Thân (Vasubandhu). Ngài muốn làm sáng tỏ điều nầy cho một vị Bồ Tát có thể chọn lựa giữa những sự có thể giác ngộ hoàn toàn do tự lực và người kia thì dựa vào sự giúp đỡ của Đức A Di Đà. Thân Loan chỉ rõ cho sự niệm Phật miên mật ấy như là con đường cho tất cả tín đồ.

Di Lặc: Vị Phật trong tương lai. Ngài chờ sự giác ngộ cuối cùng và sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt, Ngài đã lên cõi Trời, ở đó chờ đợi 5.670.000.000 năm sau sẽ trở lại thế giới nầy thị hiện làm Phật.

Diệt độ: Đây là sự giải thích về danh từ Niết Bàn. Ngôn ngữ Nhật Hán gồm hai từ; chữ đầu có nghĩa là: mất, hạ xuống và chữ thứ 2 có nghĩa là: giải thoát, qua khỏi. Việc qua bờ bên kia là một hình ảnh chắc chắn của việc thành tựu sự giác ngộ. Niết Bàn cũng luôn luôn có nghĩa là giác ngộ cao, Phật quả.

Định thiện, tán thiện: Định thiện được hiểu là sự tập trung tâm thức về Đức Phật hay cõi Tịnh Độ (trong sự chú tâm hoặc cũng là căn bản của tâm). Còn tán thiện chỉ cho những việc làm lành, trong khi con người tiếp tục tạo tác với nhiều mặt trong cuộc đời của họ.

Đoạn nầy dịch trên máy bay Thổ Nhĩ Kỳ TK 050 bay từ Istanbul đến Tokyo (ngày 30.5.2011) tham gia cứu trợ động đất và Tsunami tại Nhật Bản đã xảy ra vào ngày 11 tháng 3 năm 2011.

Dục sanh: Đây là một trong 3 việc của tín tâm và với điều kiện nầy để được sanh về cõi Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà.

Đức: Khái niệm nầy ở đây dùng để chỉ với chữ công đức đã được dịch. Trong trường hợp nầy phải để ý rằng đức ấy là sự tự chủ của một sự chuyên chở mạnh mẽ của tính hữu hiệu tích cực, đồng thời chẳng phải nằm ở nghĩa cứng nhắc chủ quan về sự cố gắng của đạo đức.

Gandhara: Triều đại tồn tại khoảng năm 140 trước cho đến năm 150 sau Tây lịch ở vùng Pakistan, Afghanistan và Saiyyid.

Giới: khả năng vượt qua khỏi những điều xấu xa bởi chính mình. Giới nầy nằm trong nhóm của 4 loại giáo pháp, còn gồm thêm bởi: định, sự nhận thứcsự giải thoát. Và đây là nấc thang giải thoát lúc ban đầu (trước định và sự nhận thức)

Hóa độ: Gần như sự thật; đất nước ấy do Đức A Di Đà thiết lập; nhưng chưa hoàn toànTịnh Độ. Theo sự giới thiệu của tín đồ Phật Giáo theo tông phái mới A Di Đà thì tất cả chưa sẵn sàng tin tưởng hoàn toàn theo lời thệ nguyện của Ngài.

Hóa thân: chỉ cho hình dạng của đức Phật và làm sáng tỏ cho chúng sanh ở trong hình tướng tạm bợ nầy và (hóa thân) sẽ giúp đỡ chúng sanh. Ở chừng mực nào đó hóa thân là câu trả lời trực tiếp về vai trò (vị trí) của một chúng sanh. Hóa thân cũng còn gọi là ứng thân.

Hoan hỷ địa: Địa phía trước của Thập Địa thuộc về các vị Bồ Tát.

Hoàn tướng hồi hướng: Một hình thức của sự thể hiện về công đức bởi niềm tin của tín hữu đối với lời nguyện của đức Phật A Di Đà và qua đó, kẻ kia có thể đạt đến địa vị cao nhất của Bồ Tátcõi Tịnh Độ và hướng lại những chúng sanh khác, đồng thời trở về lại thế giới khổ đau kia, để ở nơi ấy thực hiện cho việc giải thoát vũ trụ.

Hoằng nguyện: Đây là một cách nói khác để chỉ cho đức Phật A Di Đà, cũng gọi là Bổn Nguyện, ở đây đặc biệt nhấn mạnh rằng lời thệ nguyện nầy được nghĩ là cho tất cả và đạt đến tất cả mọi chúng sanh.

Hoành siêu: Con đường giải thoát qua sự trợ lực của Đức Phật A Di Đà. Thành phần đầu tiên của khái niệm nầy nhấn mạnh về cục diện mà con người chẳng thể tự ra khỏi, mà trên cơ sở do sự tác dụng từ bên ngoài để đạt đến sự giác ngộ, Chữ “siêu” có nghĩa trong trường hợp nầy là đột nhiên vượt lên trên tất cả những chướng ngại, ngược lại với sự chiến thắng liên tục, như qua việc tu khổ hạnh.

Hồi hướng: theo giáo lý của đạo Phật thì công đức ấy được mang đến một mục đích thánh thiện nhất định, thông thường theo truyền thống của Phật Giáo Tịnh Độ (A Di Đà) thì tất cả những công đức được tập trung lại và hồi hướng về việc vãng sanh đến thế giới Tịnh Độ. Ý tưởng ấy được mở rộng ra với một mục tiêu nhất định và điều ấy cũng có thể là công đức kia hồi hướng đến kẻ khác được. Như vậy có thể hiểu rằng Đức Phật A Di Đà với công đức vô lượng ấy dùng lợi lạc đem đến cho mỗi chúng sanh. Ngài Thân Loan giải thích về sự hồi hướng kia như thế và qua đó, chính là đức Phật A Di Đàtín đồ đã hướng công đức ấy về Ngài (ngay cả cho tín đồ nữa).

Kim Cang Tâm: Một trạng thái của tâm thức; với tâm ấy không còn bị ảnh hưởng hay chi phối và cứng cỏi trong sáng, không bị chi phối bởi vô thường.

Kinh A Di Đà: Tên khác của kinh Tiểu Bản A Di Đà.

Lợi ích: Đây là khái niệm không những dùng để chỉ cho công đức mà một Đức Phật hay một vị Tăng sĩ thể hiện được với sự hiện hữu kia, mà còn là kết quả của ân đức ấy và ân đức kia con người được mang đến do lòng nhân từ của chư Phật.

Lợi tha nhứt tâm: Với sự diễn tả và được hiểu ở đây là tâm từ bi của Đức A Di Đà; trong đó chứa đựng lời thệ nguyện của Ngài. Thân Loan định nghĩa với một tâm nầy; thế nhưng cũng là niềm tin với Đức Di Đà, bởi vì Ngài cũng gọi chung là “tâm trong tâm” sau khi đã nhận được sự gia hộ của Đức Phật.

Lục căn: là những cơ quan như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (thức). Từ những nơi nầy liên hệ, tiếp xúc với thế giới, theo cái nhìn của Phật Giáo là sự quay về và sự dính mắc vào chúng.

Lục đạo: Đây là sáu đườnghình tướng, trong đó những chúng sanh có thể bị sanh vào. Chúng gồm những sự hiện hữu của trời, A tu la, người, súc sanh, ngạ quỷđịa ngục.

Mạt pháp thời đại: Quan điểm nầy thuộc về một dạng tương đương với những thời kỳ khác nhau, trong ấy nơi thị hiện của một vị Phật, dựa theo sự thị hiện Niết Bàntiếp tục lệ thuộc vào giáo lý ấy. Tư tưởng nầy ảnh hưởng rất mạnh nơi Ngài Pháp Nhiên. Thời đầu là thời đại chánh pháp; giáo lý tồn tại, thực hànhgiác ngộ giải thoát nơi thế giới nầy. Sau 500 năm thì bắt đầu thời kỳ thứ hai. Đó là tượng pháp, trong thời kỳ nầy giáo lý, sự thực hành vẫn còn; tuy vậy con người chẳng thể thành đạo trong cuộc sống nầy. Thời gian nầy kéo dài 1.000 năm và tiếp theothời kỳ mạt pháp. Giáo lý tuy còn; nhưng trong ngu muội và việc thực tập chẳng còn và sau 10.000 năm nầy thì pháp sẽ diệt. Trong thời gian nầy Đức Phật cũng như giáo lý của Ngài không còn tồn tại nữa. Theo tư tưởng của Pháp NhiênThân Loan đã hết thời tượng pháp và bắt đầu thời mạt pháp. Cho nên giáo lý cũng như con đường qua ngõ thiền địnhtự lực; đối với hiện tại không còn có ý nghĩa nữa, vì sự thực hành tương tự như thế, con người đã chẳng có thể làm được.

Nam Mô A Di Đà Phật: “Cầu nguyện nơi Đức Phật A Di Đà”. Đây là thể thức cầu nguyện thông thường của những người theo Tông Tịnh Độ. Trong câu Phật hiệu ấy được nghĩ rằng người tin tưởng vào sự niệm Phật sẽ được sự trợ lực của Đức Phật A Di Đà qua sự quy kính, như Ngài đã phát ra lời thệ nguyện ấy.

Nan hạnh: Quan niệm nầy dùng để chỉ cho những người thực hành của Tịnh Độ Tông, họ thường tự lực để giải thoát, trong khi việc dễ làm là tin tưởng cầu nguyện đức A Di Đà, với lực của Ngài có thể giải thoát được.

Nan tư nghì vãng sanh: sự vãng sanh về Tịnh Độ qua lời nguyện căn bản thứ 18 của Đức Phật A Di Đà.

Nan tư vãng sanh: Theo Ngài Thân Loan thì sự vãng sanh nầy theo lời nguyện thứ 20. Nghĩa là tích tụ công đức qua việc niệm danh hiệu Phật. Sự niệm Phật ấy theo Thân Loan chỉ ở bên cạnh của Tịnh Độ, bởi vì công đức ấy chính họ chưa đầy đủ.

Ngũ ấm, ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Đây là sự phân tích theo Phật Giáo về con người.

Ngũ chúng: Đây là 5 loại được tạo nên nơi con người gồm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Những điều nầy giúp cho sự ước muốn và lòng dục của con người; chính chúng đã mang con người vào thế giới sanh tử.

Ngũ dục: tham muốn về sắc, thanh, hương, vị và xúc.

Ngũ giới: Năm giới căn bản của người Phật tử. Đó là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng những chất say.

Ngũ nghịch: Giết cha, giết mẹ, sát hại một vị A La Hán, phá hòa hợp Tăng và làm cho thân Phật ra máu.

Ngu ngốc: chỉ cho chính Ngài Thân Loan nhằm nhấn mạnh rằng Ngài không có thể tự phát sinh trí tuệ hoặc làm chủ được sự giác ngộ. Ngu nghĩa là đần độn, thiếu hiểu biết. Với điều nầy chính Thân Loan đã phân biệt với bậc trí của Phật Giáo và phân loại thành loại bình thường cũng như những chúng sanh không giác ngộ. Chữ nầy cũng còn có nghĩa đặc biệt nhấn mạnh hơn, bởi vì một sự thông minh nhất định với chiếc đầu tròn đã là một dấu hiệu của một kẻ bị lưu đày. Ở đây cần nên để ý rằng Thân Loan đã phải sống trong thời điểm lâu dài trong một hoàn cảnh bị lưu đày và với Ông không được thừa nhận là một Tăng sĩ. Thân Loan đã dùng qua tên nầy cũng là một sự nhấn mạnh rằng Ông ta dựa theo cái nhìn của Thầy Ông, cũng đã chẳng phải tự mình chứng ngộ khác hơn. Tuy nhiên cũng là cấp bậc đồng đẳng như những cấp khác, với những ai tin tưởng Đức Di Đà.

Ngũ thông: Thần thông với trạng thái trí tuệ đầy đủ, còn có nghĩa là nhớ lại tất cả những kiếp trong quá khứ; tất cả đều nghe được, thấy được, suy nghĩ khi đọc và có thể biến hóa được.

Ngũ thú: Trong những thế giới nầy; chúng sanh còn bị vòng luân hồi chi phối. Đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và người cũng như Trời.

Ngũ trược: Dơ nhớp, tệ hại là tình trạng của hầu như của thế giới gặp phải và là khoảng cách thời gian để một Đức Phật vào đời. Gồm những hình thức dơ bẩn của thế giới bên ngoài như: (thiên tai, đói khát v.v…) và sự dơ nhớp ấy là trạng thái của sự nhận thức, đạo đức, vật lý cũng như thể chất của con người, đồng thời cũng để chỉ cho cảm giác của cuộc sống liên hệ với cuộc đời của họ.

Nhị thừa: Đây thuộc hai con đường của Tiểu Thừa để đi đến sự giác ngộ trực tiếp qua sự nghe giảng dạy của đức Phật và qua sự phá vỡ các đẳng cấp của tất cả những nghiệp xấu ác.

Nhơn vị:thời gianĐức Phật A Di Đà phát ra lời thệ nguyện trong kinh Đại Bản A Di Đà, lúc Ngài còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo (Bồ Tát). Ngài có thể cứu vớt chúng sanh để về cảnh giới của Ngài qua 48 lời nguyện cách đây khoảng 5 kiếp; như là phương tiện tốt đẹp nhất cho mục đích nầy.

Như Lai: (Tathâgata) Đây là một trong những danh xưng tôn kính Đức Phật. Như Lai nghĩa là: như thế ấy, như là. Và để chứng minh về điều ấy, đức Phật đã tự làm chủ cho phần giác ngộ sau cùng cao tột nhất và như thế sẽ chẳng còn rơi vào sanh tử nữa.

Nhứt như: Dùng để chỉ cho sự tuyệt đối, sự chân thật cao cả.

Nhứt niệm: Trong nầy chữ niệm cũng đồng nghĩa trong việc niệm Phật; theo Thân Loan là một niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà

Nhứt tâm: Một khái niệm để chỉ cho trạng thái thanh tịnh của tâm, tâm ấy vượt lên trên sự chân thật tuyệt đối. Theo Thân Loan là niệm cảm ơn về việc mang đến niềm tin qua tâm thức của Đức A Di Đà, ngay cả tâm thức của Đức Phật cũng như tâm của những tín đồ, mà họ là những người hoàn toàn tin tưởng về Ngài.

Nhứt thừa: Nhấn mạnh đến giáo lý cao thâm, khó nắm bắt được. Đối với Ngài Thân Loan thì việc niệm danh hiệu Phật A Di Đàý niệm căn bản theo lời thệ nguyện thứ 18 của Ngài.

Niệm Phật: Nguyên thủy có nghĩa là: quán niệm niệm Phật; như trong những bài được trích dẫn thường được dùng như là: thinh niệm niệm Phật.

Niết Bàn: Trạng thái của người đạt được sự giác ngộ cao nhất.

1/ Phạm vi của chúng sanhthân thể và tình thức (Dục giới)

2/ Phạm vi của chúng sanhthân thể nhẹ nhàng (Sắc giới)

3/ Phạm vi của chúng sanh không có thân thể (Vô sắc giới)

Pháp: Khái niệm nầy có thể dùng để chỉ cho những sự thật toàn hảo, tư cách đứng đắn của tất cả sự hiện hữu và trong pháp ấy ở đây cũng chỉ cho đối tượng của sự hiện hữu ấy nữa.

Pháp Tạng Bồ Tát: Tên của Đức Phật A Di Đà khi Ngài còn là vị Bồ Tát ở kiếp cuối cùng dưới thời Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai. Ngài đã phát ra 48 lời thệ nguyện trong kinh Đại Bản A Di Đà (Vô Lượng Thọ kinh) như là một con đường bao la cho việc giải thoát.

Pháp tánh: sự thật và là định luận của mọi sự kiện.

Pháp thân: Đức Phật như là sự hiện thân của chân lý tối hậu.

Phát nguyện hồi hướng: Ở đây Thân Loan muốn chứng minhdiễn tả rằng Đức Phật A Di Đà qua những lời thệ nguyện của Ngài cùng với tất cả những công đức kia đã sẵn trao cho tín đồ và với điều ấy sự vãng sanh về Tịnh Độ cũng đã sẵn có giá trị.

Phổ Hiền Bồ Tát: Vị Bồ Tát đã được nói đến giống như vị Phật có đức hạnh. Hạnh nguyện đặc biệt của Ngài, theo Thân Loan luôn luôn nhắc đến, là trở lại thế giới tội lỗi nầy để cứu độ chúng sanh.

Phương tiện: Với khái niệm được hiểu rằng: Đức Phật đã dùng giả danh để dạy, mà nội dung chẳng phải chẳng trực tiếp đi vào sự thật. Tuy nhiên những lời dạy ấy qua giáo lý giả danh để tiếp tục con đường. Sự giới thiệu nầy giúp cho giáo lý của Đại Thừa về sau nầy, công khai ngược lại giữa giáo lý cao cả và những lời dạy khác của Đức Phật.

Phương tiện pháp thân: Đây là sự trái ngược lại với pháp tánh bình đẳng. Việc nầy khế hợp với hình thức của thế gian tội lỗi nầy qua pháp thân phi vật chất.

Quán: Nhìn vào sự vật, phải thấy vật ấy là thực thể và tất cả qua sự gạn lọc.

Quán Âm, Quán Thế Âm: Một vị Bồ Tát, dịch theo chữ của tên là “nghe tiếng kêu của thế giới”. Trong kinh Pháp Hoa diễn tả rằng: như vị Bồ Tát nầy mau cứu tất cả, sau tiếng gọi Ngài. Ngài được biết là vị trợ thủ của Đức Phật A Di Đàcõi Tịnh Độ.

Quán kinh: Đây là chữ viết tắt của kinh Quán Vô Lượng Thọ.

Sanh tử hải: Nói chung tất cả những thế giớihình thức tồn tại, mà chúng bị bủa vây bởi vòng luân hồi.

Sơ quả: Đây là một trong bốn bậc thang giác ngộ. Ở trong ấy chấm dứt những tư hoặcmở mắt ra với sự chân thật.

Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng

Tam bối: Trong kinh Đại Bản A Di Đà (Vô Lượng Thọ) có chỉ dẫn về 3 cấp bậc khác nhau của việc vãng sanh gồm 3 phần chính và chín tầng. Thượng phẩm dành cho những vị Tăng sĩ và những vị thực hành Bồ Tát hạnh. Trung phẩm dành cho những người không sống hoàn toàn cho đời sống Tôn Giáo; nhưng họ làm lành, đạo đức, đồng thời tin theo bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Cuối cùnghạ phẩm gồm những người được giác ngộ theo lời nguyện của Đức Phật A Di Đà; thế nhưng không thể tự mình thực hiện được.

Tam độc: Tham, sân và si

Tam giới, tam hữu: Ở đây muốn nói về trạng thái hoặc vật chất của chúng sanh như:

Tam nghiệp: là những hành động về sự suy nghĩ, lời nóiviệc làm.

Tam nhẫn: Hỷ, định và niệm trong niềm tin (vui vẻ, giác ngộchắc chắn).

Tam phước: Nói chung là: kết quả về đạo đức trong xã hội; thực hành giới luật của Tôn Giáothể hiện tinh thần của một vị Bồ Tát; theo tín ngưỡng Di Đà gồm 3 điểm như sau: Tôn trọng cha mẹ; quy hướng về Tam Bảo và nguyện sanh về Tịnh Độ.

Tam tâm: Ba điều căn bản của tâm, được biết như là những niềm tin chân thật. Đó là: Tâm chí thành, chân tâm và tâm phát nguyện vãng sanh. Ba tâm nầy là những tâm căn bản trong kinh Vô Lượng Thọ, như là điều kiện để được sanh về thế giới của Đức Phật A Di Đà. Trong khi theo giáo lý Tịnh Độ cũ thì điều kiện để được vãng sanh là phải cần đầy đủ sự cố gắng, thế nhưng theo Pháp NhiênThân Loan thì chỉ cần tin tưởng vào Đức Di Đà là đủ. Đồng thời theo Thân Loan, cuối cùng chính mình phải niệm ân Đức Di Đà. Vì thế tâm phát nguyện vãng sanh (tâm hồi hướng) ấy chính là sự giao phó cho niềm tin qua bổn nguyện của Đức A Di Đà để được sanh về Tịnh Độ.

Tam Tạng: Tập hợp lại tất cả những văn tựuy tín. Ba giỏ ấy gồm có Kinh, Luật và Luận.

Tam thập nhị tướng: 32 tướng tốt, qua đó để thấy sự khác biệt giữa con người bình thường và một vị Phật.

Tam thế: Quá khứ, hiện tạivị lai

Tam thừa: Ba con đường truyền thống đi đến sự giác ngộ: gồm có Thanh Văn Thừacon đường hay nghe biết; những người nầy do nghe lời giáo huấn của Đức Phật được giác ngộ. Duyên Giác Thừa (pratyeka – Buddha) nghĩa là nghiệp lực tốt hơn để chính họ tự mang lại sự giác ngộ cho mình và Bồ Tát Thừacon đường giải thoát rộng lớn cho tất cả chúng sanh.

Tam tín tâm: Gồm chân thật tín tâm, tín lạc (nhạo) và dục sanh. Theo Thân Loan thì cả ba nầy là một. Theo Ngài định nghĩa tam tâm ấy là một tâm và tâm ấy chính là kim cang tâm.

Tạp hạnh, tạp tu: những lễ nghi và sự hành trì không tập trung vào sự vãng sanh theo lời nguyện của đức Phật A Di Đà. Có nơi còn dịch là làm sai sự thật, thực hành sai sự thật. Thực hành nghi lễ và không tập trung vào lời thệ nguyện của đức Phật A Di Đà. Dịch nghĩa khác là làm trộn lẫn, thực hành không đúng cách.

Tha lực: Ngược lại với niềm tin tự lực qua sự cứu giúp của Đức Phật A Di Đàlúc ấy theo Ngài Thân Loan là giúp cho được giải thoát và còn chính mình tạ ân nơi niềm tin tưởng Đức A Di Đà nữa. Đây là một phương pháp hướng dẫn có kết quả tuyệt đối qua tha lực, là giáo lý đặc biệt và mới mẻ của Thân Loan.

Thai sanh biên địa: là một hình thức không tự nhiên có, để chuẩn bị cho việc vãng sanh về Tịnh Độ, như là ở nơi thai tạng của việc sanh ra trong đời nầy. Trong khi theo truyền thống thì họ được sanh ra tại đó, những chúng sanh ấy có cuộc đời tội lỗi sai quấy, chưa đúng với vị trí đầy đủ thánh thiện. Việc nầy theo Thân Loan cũng tin rằng tìm con đường giải thoát cho họ; những người nầy vì thế, chính họ chỉ có thể sanh về nơi biên địa của Tịnh Độ.

Thâm tâm: Theo Thân Loan thì điều nầy đồng ý nghĩa với nhất tâm.

Thánh đạo, Thánh đạo môn: Trong Phật Giáo Tịnh Độ là dấu hiệu để chỉ cho tất cả con đường đi đến sự giác ngộ và trên sự cố gắng tự thể của con người được an lạc.

Thập ác: Đây gồm có: sự giết hại sinh mạng của chúng sanh, trộm, cướp, tà dâm, nói lời không thật, nói dối, nói lưỡi đôi chiều, nói xuyên tạc (ác khẩu), tham, sân và si. Ở đây rõ ràng dựa vào thân thể, lời nói và hành động của ý để nhận biết, những điều nầy trong Phật giáo có nghĩa là ba phạm viảnh hưởng đến đạo đức.

Thập thiện giới: đã nói trong 10 hành động lành.

Thật tướng: Diễn tả về sự thật cao cả tột bực, tuyệt đối, Niết Bàn.

Thích Ca Mâu Ni: Đức Phật lịch sử sinh ra khoảng 450 đến 370 năm trước Dương Lịch.

Thiện Thệ: Là một trong 10 danh hiệu của Đức Phật lịch sử; nghĩa là vị nầy chưa bao giờ rơi vào trong thế giới sai quấy cả.

Thừa: Như trong cuộc sống khổ đau theo Phật Giáo, thường bị lặn hụp trong biển sanh tử; cho nên giáo pháp của Đức Phật tượng trưng cho một chiếc xe; với xe ấy có thể vượt qua khỏi biển. Tương ưng với việc nầy vẫn thường gọi Đức Phật là vị “bờ bên kia”. (So sánh Đại ThừaTiểu Thừa).

Tiểu Thừa: Đây dùng để chỉ cho truyền thống Thượng Tọa Bộ, truyền thống ấy qua sự giác ngộ tự thân, sau khi thành lập Đại Thừa thì việc tự giác ngộ còn rộng lớn hơn như thế nữa.

Tín nhạo: Đây là một trong 3 tín tâm, tâm ấy chắc chắn tin tưởng nơi Đức A Di Đà và cảm nhận kết quả tự tại của sự hạnh phúc an lạc.

Tịnh Độ: Nói chung là cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà theo như những bản văn được dịch ở đây, trong ấy tất cả đều tin tưởng Ngài để có thể đạt được giác ngộ.

Trợ hạnh: Theo Thân Loan đây là 4 trong 5 loại thuộc về chánh hạnh. Đó là chữ viết, thiền định, cầu nguyệnhòa tán. Việc nầy vì thế đóng vai trò nổi bật của sự niệm Phật và với Thân Loan chữ nghĩa sẽ làm trở ngại.

Tứ an lạc hạnh: Hạnh ở đây có nghĩa là sự tương ưng dẫn đến trạng thái an lạc của tâm thức. Việc nầy nối kết với 4 lãnh vực của hành động, lời nói, sự đánh giáý muốn. Nơi ấy đều chẳng giữ lại tham, ghen ghét, sự kiêu hãnh và sự ganh tị và tâm kia an ổn như chẳng hề thiên vị với lòng nhân đức mà còn tương ưng nữa. (hãy xem phẩm 14 của Kinh Pháp Hoa)

Tứ bạo lưu: Một là dòng của sự tham dục. Nghĩa là với sự mưu mô quỷ quyệt của sự khổ đau. Hai là dòng của sự tồn tại, việc nầy kéo dài sự đánh lừa thể theo sự tồn tại của một cõi. Thứ ba là dòng của quan điểm, mà sự trói buộc ở trong tự thể, nhằm để tự bảo vệ cho cái ta. Bốn là dòng của vô minh, việc nầy chính là sự vô minh đóng con mắt lại, trước trí tuệ của chư Phật.

Từ bi: Danh từ nầy nối liền với hai từ của chữ Ấn Độ là maitri (nghĩa là chiếu rọi tình thương, việc năng động để cứu giúp bạn bè khác) và karuna (tức là lòng thương) dùng để chỉ cho những hành động và tư tưởng đạo đức và đây chính là trung tâm luân lý của Phật Giáo Đại Thừa.

Tứ đại: Đất, nước, lửa, gió, không khí.

Tứ sanh: Đây chính là bốn hình thức của sự sanh: sự sanh ra từ bụng của người mẹ, sự sinh ra từ trứng, sự sinh ở dưới nước, ví dụ như trứng cá và sự sinh bằng sự biến hóa trong một thế giới siêu việt, ví dụ như là trong sự ảo tưởng hay giấc mộng.

Tứ trọng: những hành động đặc biệt trái lại với bổn phận của người đệ tử đối với giáo lý của Đạo Phật, đó là sát sanh, trộm cướp, tà dâm và thấy biết sai quấy.

Tứ tu: Đây là bốn việc thực tập lâu dài không gián đoạn với đầy sự cung kínhhoàn toàn không còn sót lại sự giao tiếp, thực hành sự cầu nguyện lễ bái như trong hình thức cũ về lễ nghi của Phật Giáo Tịnh Độ (A Di Đà).

Tứ y: những điều mà đệ tử của đức Phật sau khi viên tịch cần phải giữ gìn: Đó là y vào pháp (không nương theo người dạy), y vào ý nghĩa (không nương theo lời nói), y vào trí (không nương theo sự hiểu biết phải trái đúng sai) và nương vào giáo lý cao thượng trong sạch để hiểu.

Tuyển trạch bổn nguyện:lời nguyện thứ 18 của đức Phật A Di Đà, theo sự giản lược của Ngài Pháp Nhiên và Ngài Thân Loan về sự thực hành pháp môn Niệm Phật. Đặc biệttuyển trạch chọn cho con đường giải thoát cả vũ trụ.

Uế độ: Tên khác của thế giới vô thường, trong ấy những chúng sanh nhìn thấy sai về sự trói buộc, mà nguyên nhân chính là sự khổ đau.

Ứng thân: Dùng để chỉ hình tướng của một Đức Phật, để cuối cùng là giúp cho chúng sanh và hợp với những vị trí khác.

Vãng sanh: Tái sanh về cảnh giới Cực Lạc.

Vãng tướng hồi hướng: Việc nầy theo Thân Loan suy nghĩ là những người đầy đủ công đức có thể sanh về cảnh Tịnh Độ theo lời thệ nguyện của Đức Di Đà.

Vi Đề Hy:hình ảnh chính của Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Bà là mẹ của vua A Xà Thế; người đã nghe lời dụ dỗ của Đề Bà Đạt Đa đã giam cha mình vào ngục thất. Qua sự thỉnh cầu của Bà, Đức Phật đã làm sáng tỏ trong kinh nầy về những trí tuệ khác nhau của việc tưởng nhớ đến thế giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Là một mệnh phụ không có khả năng làm chủ tâm mình được, mà những gì đã xảy ra trong đời thường đã không được trợ giúp gì cả và kinh nầy đã được giới thiệu cho Bà để làm gương mẫu cho con người và được chuyển qua lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà. Bà đã được Đức Phật thuyết pháp và qua đó những hình ảnh đã được chiếu sáng, đồng chứng vào cảnh giới Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà và Bà đã được giải thoát khỏi khổ đau.

Vô minh: Được hiểu là tối tăm, nằm trong ý nghĩa luôn luôn mờ mịt. Vô minh theo Phật Giáo là chẳng rõ biết xấu hổ; ngoài ra cũng còn nghĩa khác là nguyên nhân của thế giới bị vây bủa bởi khổ đau.

Vô minh ám: Màn vô minh.

Vô vi: Đây là dấu hiệu dùng để chỉ cho trạng thái giác ngộ, nhập Niết Bàn.

Xiển Đề, nhứt Xiển Đề: con người bị quên đi, chẳng có việc gì tốt, để giác ngộ cho cái nghiệp cũ; hoặc giả kẻ ấy chẳng một lần ước vọng ít nhất là được giác ngộ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25624)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37854)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19555)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18645)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14231)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20082)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9491)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14346)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35544)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10640)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19675)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23179)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13347)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10737)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20191)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10591)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9946)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14853)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17641)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17582)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13167)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31131)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25722)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13969)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17490)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10958)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12270)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10456)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12253)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11743)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9605)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12342)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9171)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8470)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9944)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9748)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12012)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14398)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9893)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11198)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8287)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10954)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14072)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9893)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15194)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13026)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23061)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23962)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12553)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15415)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17764)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15038)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16538)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16078)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17620)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11574)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11602)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17807)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10767)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10508)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11300)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12069)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11027)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36391)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8948)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9663)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34682)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17246)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10226)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10454)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12190)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13618)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14643)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9136)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24790)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11624)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10304)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15922)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15557)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14497)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12979)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12424)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14559)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18331)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9558)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18502)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18566)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18997)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18814)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11812)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13316)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47965)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11054)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13539)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13027)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11051)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12540)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11042)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31752)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11651)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant