Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 2

23 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 14166)
Phần 2

NGAY TRONG KIẾP SỐNG NÀY
Tác giả: Sayadaw U. Pandita
Dịch giả: Khánh Hỷ

Niết Bàn
Phần II

oo0oo

Nhập Lưu: Chứng Ngộ Niết Bàn Lần Ðầu

Vào lúc chứng ngộ Niết Bàn lần đầu là lúc đạt Tu Ðà Huờn đạo (Sotapatti magga), các nhân đưa đến tái sanh vào các cảnh khổ đều bị loại trừ. Vị Tu Ðà Huờn không bao giờ tái sinh vào bốn ác đạo: súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, địa ngục. Các loại phiền não gây ra sự tái sanh vào các cảnh khổ đều bị tận diệt. Vị đó sẽ không bao giờ tạo các nghiệp khiến tái sinh vào các cảnh này, và nghiệp quá khứ có thể dẫn đến việc tái sinh vào bốn cảnh khổ cũng bị vô hiệu.

Ở mức độ giác ngộ cao hơn, nhiều loại phiền não khác bị tận diệt. Cuối cùng, khi đạt A La Hán đạo thì mọi phiền não, nghiệp và quả, đều bị tận diệt. Vị A La Hán không còn bị tai họa của các phiền não này nữa. Khi vị A La Hán chết, Ngài sẽ an trú Niết Bàn. Từ đó, không còn trở lại vòng luân hồi tam giới nữa.

Ngay ở mức giác ngộ thấp nhất, bạn cũng loại trừ được một số tư tưởng hay hành động bất thiện. Theo Sách Thanh Tịnh Ðạo, thì khi đạt được quả Tu Ðà Huờn bạn sẽ không còn tự trách mình, không bị các bậc thiện trí chê trách, không còn bị hiểm nguy của các hình phạt và không bị rơi vào các cảnh khổ.

Chiếc xe hoàn toàn yên lặng

Người phàm phu chưa đạt quả Tu Ðà Huờn chẳng khác nào kẻ lữ hành theo một hành trình nguy hiểm. Nhiều hiểm nguy đang chờ đợi họ khi họ muốn vượt rừng rậm, sa mạc; bởi thế, họ phải chuẩn bị hành trang thật tốt và đầy đủ. Một trong những thứ cần thiết cho một cuộc hành trình gian nguy như thế là một chiếc xe tốt. Ðức Phật đã cấp cho vị trời tỳ khưu một chiếc xe an toàn, quí báu. Ngài nói: "Ngươi sẽ đi trên một chiếc xe hoàn toàn yên tịnh, tĩnh lặng."

Vừa mới chứng kiến cảnh ồn nào náo nhiệt của thiên cung, vị trời chắc chắn sẽ cảm thấy nhẹ nhàng yên tĩnh khi đi trên chiếc xe mới mẻ vừa được Ðức Phật ban cho. Chúng ta tìm hiểu thêm ý nghĩa của lời dạy này.

Phần lớn các chiếc xe đều ồn ào. Những loại xe vào thời kỳ Ðức Phật đều ồn ào. Xe kêu ken két và cọc cạch vì không được bôi dầu mỡ đầy đủ, hoặc vì làm bằng các loại gỗ xấu, hoặc vì chở nặng, hay chở nhiều người. Những chiếc xe ngày nay cũng vẫn còn có tiếng động. Chiếc xe do Ðức Phật ban là một chiếc xe khác hẳn loại xe bình thường. Xe di chuyển không gây ra một tiếng động dầu có chở đến hàng ngàn hay hàng triệu người. Chiếc xe này chở tất cả mọi người đến nơi an toàn. Xe êm ả vượt qua núi đồi, xuyên qua rừng rậm, băng qua sa mạc, vượt qua bể khổ không chút trở ngại. Ðó là chiếc xe của sự thực hành Thiền Minh Sát, của Bát Chánh Ðạo.

Khi Ðức Phật còn tại tiền, hàng triệu chúng sanh đắc đạo chỉ đơn giản do nghe Ngài thuyết pháp. Nhiều vị chỉ nghe một lầngiác ngộ. Tất cả các chúng sanh này đều cùng đi trên một chiếc xe. Chiếc xe không gây ra một tiếng động, nhưng hành giả thường huyên náo ồn ào, đặc biệt là những vị đã đến bến bờ giác ngộ, cõi An Trú Niết Bàn. Họ hết lời xưng tụng, tán thán: "Chiếc xe thật kỳ diệu làm sao. Nó đã chạy một cách êm thắm, tốt đẹp, và đã đưa tôi đến chỗ giải thoát."

Họ là những bậc thánh Tu Ðà Huờn, Tư Ðà Hàm, A Na HàmA La Hán. Họ ca tụng chiếc xe bằng nhiều cách. "Tâm tôi đã hoàn toàn thay đổi. Tâm tôi tràn đầy đức tin trong sáng như pha lê và khoáng đạt bao la. Trí tuệ đã hiển bày trong tôi. Tâm tôi mạnh mẽ, ổn định, và bền bỉ, an nhiên, tự tại đối diện với những thăng trầm của cuộc đời."

Các bậc thánh nhân ca tụng chiếc xe này vì họ đã tự thân kinh nghiệm sự đình chỉ của tiến trình tâm, tâm sở và tất cả các hiện tượng phát sinh từ tâm. Ðạt được tình trạng này, thân tâm họ tràn đầy hỉ lạc, an vui và thanh tịnh kỳ diệu.

Khi có kẻ thân yêu rời bỏ cõi đời, người ta thường khóc lóc, than van, buồn khổ, thương tiếc. Ðối với các vị A La Hán, các Ngài đã nhổ tận gốc rễ các loại phiền não từ thô sơ cho đến vi tế nên cái chết đối với các Ngài là cái gì tự nhiên. Các Ngài sẵn sàng đón nhận khi nó đến. Các Ngài có thể nói: "Rốt cuộc, cái khối đau khổ này cũng bị tan rã. Ðây là kiếp sống cuối cùng của ta. Ta không còn bao giờ đối đầu với đau khổ nữa mà chỉ An Trú Niết Bàn."

Sự cao quí của một vị A La Hán có thể vượt ngoài khả năng hiểu biết của bạn, nhưng bạn có thể tự biết, tự cảm nhận một vị A La Hán sẽ cảm thấy như thế nào. Hãy xem việc thực hành của chính bạn. Bạn có thể đã từng chế ngự được các chướng ngại căn bản, tham lam, sân hận, dã dượi buồn ngủ, bất anhoài nghi, và có thể thấy một cách rõ ràng bản chất của đối tượng. Bạn có thể đã từng thấy được sự khác biệt giữa thân và tâm hay thấy các hiện tượng sinh và diệt trong từng khoảnh khắc một. Thấy được sự sinh diệt là một sự giải thoátan lạc vui tươi. Sự hỉ lạc, sự trong sáng của tâm này là kết quả của việc thực hành.

Ðức Phật dạy: "Những người chịu ẩn cư để tham thiền, những người đã đạt các tầng thiền sẽ có được một hỉ lạc lớn lao, vượt hẳn mọi hạnh phúc do các dục lạc giác quan đem lại, dầu đó là dục lạc cõi trời hay cõi người".

Các tầng thiền ở đây là các tầng thiền trong thiền chỉ hay sự định tâm trong từng sát na một của Thiền Minh Sát.

Hương vị tuyệt vời

Nếu thiền sinh có thể duy trì Chánh Niệm liên tục thì sẽ kinh nghiệm được niềm hỉ lạc sâu xa của việc hành thiền. Thiền sinh sẽ hưởng được hương vị của giáo pháp mà trước đây chưa từng nếm qua. Thiền sinh có thể tự cảm thán: "Giáo pháp kỳ diệu làm sao. Khó tưởng tượng được rằng mình có được những sự an tịnh, hỉ lạc như vầy." Thiền sinh sẽ tràn đầy đức tin, lòng tự tín, sự thỏa mãnthành đạt. Thiền sinh sẽ bắt đầu nghĩ đến việc chia xẻ những kinh nghiệm mà mình đã có được cho người khác. Thiền sinhthể tham vọng và đặt kế hoạch truyền bá giáo pháp. Ðó là âm thanh trong tâm bạn, một bài ca tán dương ca ngợi chiếc xe yên lặng mà bạn đã được đi.

Lại có những âm thanh khác kém hăng say, thích thú hơn. Ðó là tiếng kêu the thé của các thiền sinh ngồi trên chiếc xe mà không hứng thú hay vui vẻ gì cả. Họ là những thiền sinh không hành thiền tinh tấn. Trong việc hành Thiền Minh Sát, nếu ít tinh tấn thì chẳng có kết quả bao nhiêu. Thiền sinh lười biếng, buông thả sẽ không bao giờ nếm được hương vị của giáo pháp. Họ có thể nghe được sự thành công của người khác, họ có thể thấy người khác ngồi thẳng thắn tĩnh lặng dường như đang thích thú trong sự định tâm và phát triển trí tuệ. Riêng họ, họ bị tràn ngập bởi phóng tâm và chướng ngại. Hoài nghi sẽ bò vào tâm họ. Hoài nghi thiền sư, hoài nghi phương pháp hành thiền và hoài nghi cả chiếc xe. Họ phân vân và tự nhủ: "Ðây là chiếc xe thô kệch, vô dụng, gây ra nhiều tiếng ồn và không đưa ta đi đến đâu được."

Ðôi lúc người ta có thể nghe được những tiếng than van, rên rỉ vọng lại từ phía chiếc xe. Ðó là những tiếng nức nở của các thiền sinhđức tin nhiệt thành vào việc hành thiền và đã nỗ lực Tinh tấn, nhưng vì lý do nào đó, họ chưa đạt được nhiều tiến bộ như họ mong mỏi. Họ bắt đầu mất lòng tin. Họ nghi ngờ không biết mìnhthể đạt được mục tiêu không.

Càng Ði Lạc Ðường, Càng Ðược Nhiều Gạo

Ở Miến Ðiện có một câu nói để khuyến khích những người tận tâm hành thiền nhưng chưa đạt được kết quả mong mỏi: "Người hộ tăng càng đi lạc đường càng có được nhiều gạo." Ở các xứ Phật giáo có những người hộ tăng, hay anẻgẻrika, là những người giữ tám hay mười giới. Họ cạo đầu nhưng không xuất gia như các nhà sư. Họ giúp chư Sư mọi công việc trong chùa như những người đến làm công quả. Một trong những bổn phận của họ là đi quyên góp cho chùa. Ở Miến Ðiện, các vị hộ tăng này thường nhận được gạo từ những người có hảo tâm muốn giúp cho chùa. Vị hộ tăng dùng quang gánh để gánh gạo quyên góp. Có lúc các vị này, có lẽ là mới, nên bị lạc đường. Họ cố gắng đi trở lại con đường cũ để trở về. Các nhà hảo tâm tưởng rằng họ vẫn tiếp tục quyên góp nên tiếp tục ủng hộ. Thế là các vị hộ tăng lạc đường nhận thêm được nhiều gạo.

Những thiền sinh hành thiền Tinh tấn nhưng chưa tiến bộ như mình mong mỏi vì chưa theo đúng lời chỉ dẫn xin đừng thất vọng. Hãy nghĩ đến người hộ tăng lạc đường này. Cuối cùng rồi bạn cũng sẽ được một gánh giáo pháp lớn lao.

Hai bánh xe: Tinh tấn thể chấtTinh tấn tinh thần

Như Ðức Phật đã diễn tả, chiếc xe giải thoát có hai bánh xe. Vào thời Ðức Phật xe được chế tạo như thế nên Ngài dùng thí dụ này để người nghe dễ lãnh hội. Ðức Phật giải thích rằng hai bánh xe là hai sự tinh tấn thể chấttinh tấn tinh thần.

Trong việc hành thiền cũng như trong các công việc khác đòi hỏi phải có sự cố gắng, tinh tấn. Chúng ta phải cố gắng chăm chỉ chuyên cần để thành công. Nếu tinh tấn được duy trì bền bỉ, ta sẽ trở thành một vị anh hùng hay một người dũng cảm. Dũng cảm tinh tấn là điều tối cần thiết trong việc hành thiền.

Tinh tấn thể chấttinh tấn để duy trì thân thể trong tư thế thích đáng trong lúc hành thiền như đi, đứng, ngồi, nằm, v.v... Tinh tấn tinh thầntinh tấn trong việc chánh niệm và tập trung tâm ý để loại trừ phiền não. Hai bánh xe tinh tấn lăn đều để đưa chiếc xe thực hành chạy êm thắm đến đích. Trong khi kinh hành bạn phải dở, bước, rồi đặt chân xuống. Bạn tiếp tục làm đi làm lại dở, bước, đạp. Khi đi như vậy, tinh tấn thể chất giúp bạn di chuyển, trong khi đó tinh tấn tinh thần tạo nên một sự Chánh Niệm liên tục. Sự vận dụng thể chất với một số lượng điều hòa đóng góp vào sự tỉnh thứcnăng lực của tâm.

Một điều quan trọng phải nhớ là tinh tấnyếu tố căn bản trong việc họa kiểu chiếc xe giải thoát của Ðức Phật. Xe cần phải gắn chặt hai bánh. Cũng vậy, chiếc xe Bát Chánh Ðạo cũng cần phải gắn chặt hai bánh xe tinh tấn thể chấttinh tấn tinh thần. Chúng ta không thể tiến bộ nếu khôngtinh tấn thể chất trong lúc ngồi thiền, và cũng không thể có tiến bộ nếu trong khi ngồi thiền ta không tinh tấn ghi nhận đề mục một cách sáng suốt, chính xácliên tục. Nếu hai bánh xe tinh tấn được duy trì chuyển động thì chiếc xe sẽ lăn bánh, tiến thẳng về phía trước.

Cần phảitinh tấn để duy trì tư thế thể chất. Nếu bạn đang ngồi, bạn phải tinh tấn để giữ mình khỏi ngã. Nếu bạn đang đi, bạn cũng phải tinh tấn để di chuyển chân và giữ cơ thể thăng bằng. Chúng ta phải tập quân bình bốn tư thế chính. Quân bình năng lực và tạo điều kiện để có sức khỏe tốt. Ðặc biệt trong một khoá thiền, chúng ta phải có đủ thì giờ ngồi và đi. Thứ đến là giờ đứng, giờ nằm. Giờ ngủ phải hạn chế. Nếu tư thế không duy trì đúng, lười biếng sẽ phát sinh. Chẳng hạn, lúc ngồi nếu không tôn trọng duy trì việc giữ thẳng lưng, bạn sẽ tìm một nơi để dựa lưng. Hay bạn có thể cho rằng đi kinh hành quá mỏi mệt, hay cơ thể cần phải được thoải mái chút đỉnh mới thích hợp cho việc hành thiền... Tất cả những điều trên, như bạn biết, sẽ không được chấp nhận trong lúc hành thiền.

Tương tự như vậy, đối với tinh tấn tinh thần, không nên lười biếng. Ngay từ lúc đầu, bạn phải tâm niệm là phải cố gắng duy trì liên tục tinh tấn tinh thần. Hãy luôn luôn tự nhắc nhở: "Ta không bao giờ để một khoảng hở nào thiếu Chánh Niệm. Ta luôn luôn duy trì Chánh Niệm liên tục". Ðây là một thái độ rất cần thiếtích lợi khiến tâm bạn khai mở để thành tựu mục đích mong ước. Nhiều thiền sinh rất chán ghét việc kinh hành. Họ cho rằng kinh hành làm mệt mỏimất thì giờ. Họ chỉ kinh hànhmiễn cưỡng vâng lời thiền sư mà thôi. Họ không biết rằng khi kinh hành cần phải dùng hai loại tinh tấn, và đây là điều rất ích lợi để giữ cho bánh xe tinh tấn lăn đều. Với sự Tinh tấn kinh hành, bạn có thể đạt đến mục tiêu một cách dễ dàng và thoải mái. Khi tinh tấn tinh thần luôn luôn có mặt trong từng sát na thì phiền não không thể nào len lỏi vào. Tâm Tinh tấn đẩy xa, hất ra ngoài và loại bỏ mọi phiền não.

Một số thiền sinh hành thiền từng hồi từng chặp. Sự tinh tấn rời rạc, thiếu liên tục. Cứ hành thiền được một lúc lại lơ là. Tinh tấn nổ bùng lên rồi lại tắt ngấm sau đó. Phiền não do đó cứ len lỏi vào mãi. Thiền sinh loại này cứ phải bắt đầu tinh tấn hành lại từ đầu. Cố gắng rồi lại nghỉ, cố gắng rồi lại nghỉ, nếu cứ mãi như thế thì thiền sinh sẽ không thể tạo được trớn trong việc hành thiền, vì vậy, không thể tiến bộ.

Bạn cần phải thành thật xem xét lại việc hành thiền của mình. Bạn đã thật sự Chánh Niệm chưa? Bạn có thật sự nghiêm túc kiên trì thực hành Chánh Niệm, nỗ lực Chánh Niệm từ phút này qua phút khác, chẳng lơ là, chẳng buông trôi chưa?

Hiệu Năng của Tinh tấn

Người nào giữ cho bánh xe Tinh tấn tinh thần tiếp tục quay đều thì người đó có nỗ lực tinh tấn. Ðức Phật khen ngợi người nỗ lực tinh tấn. Người có nỗ lực Tinh tấn sống trong an lạc. Tại sao vậy? Vì nỗ lực tinh tấn đẩy xa phiền não, tạo nên một sự mát mẻ, an tịnh, hoan hỉ, thoát khỏi tham dục, hung bạo và si mê.

Tinh tấn nỗ lựchiệu năng vô lường. Ðức Phật dạy: "Thà sống một ngày mà nỗ lực tinh tấn còn hơn sống trăm năm mà thiếu tinh cần." Mong rằng các bạn sẽ có hoan hỉ, hứng khởi trong khi nghe phần giảng giải này để bánh xe Tinh tấn của bạn lăn đều.

Lương Tâm: Chỗ Tựa Lưng

Phần thứ hai của chiếc xe được Ðức Phật mô tả là chỗ tựa lưng. Chỗ tựa lưng ở đây ám chỉ lương tâm hay sự hổ thẹnghê sợ tội lỗi. Ngày xưa xe có chỗ tựa lưng. Nếu không có chỗ tựa lưng, người đánh xe hay hành khách sẽ bị rơi khỏi xe hay ngã về đằng trước khi xe bất thần dừng lại. Chỗ tựa lưng có thể là một bộ phận rất đắt tiền. Hành khách tựa lưng vào ghế ngồi thoải mái như người ngồi trên chiếc ghế bành và để xe đưa tới nơi mình muốn. Trường hợp của chúng ta, chỗ đến là Niết Bàn.

Hổ ThẹnGhê Sợ Chánh Ðáng

Ðể hiểu rõ công năng của "chỗ tựa lưng" của chiếc xe minh sát, chúng ta phải hiểu thế nào là lương tâm. ở đây Ðức Phật chỉ dùng chữ hiri (hổ thẹn tội lỗi), nhưng ottappa (ghê sợ tội lỗi) thường đi kèm với hiri. Bởi vậy ta sẽ đề cập đến cả hai danh từ này mặc dầu trong kinh chỉ nói có một mà thôi. Nhưng hai chữ hổ thẹnghê sợ có nghĩa tiêu cực. Bởi vậy nên dùng chữ lương tâm đạo đức để có một nghĩa chính xác hơn. Hổ thẹnghê sợ ở đây không liên quan gì đến sự sân hận thông thường. Hổ thẹn tội lỗi không phát xuất từ sự từ bỏ đối tượng như bản chất của sân hận. Hổ thẹnghê sợ tội lỗi ở đây là một thiện tâm. Hổ thẹnghê sợ các điều bất thiện. Hai đặc tính này phối hợp tạo nên lương tâm, sự chính trực, chân thành. Người có tâm chính trực, chân thật thì không phải hổ thẹnghê sợ về đức hạnh của mình.

Hổ thẹn là chán ngấy hay ghê tởm phiền não. Khi cố gắng Chánh Niệm, bạn thấy có những khoảng hở. Từ đó, phiền não có thể xen vào và biến bạn thành nạn nhân của chúng. Bạn cảm thấy hổ thẹn khi thấy mình không thể kiểm soát được lục căn.

Ghê sợ là sợ hậu quả của những điều bất thiện, chẳng hạn sợ rằng trong khi hành thiền, nếu tâm bạn bị tràn ngập bởi các tư tưởng bất thiện thì bạn sẽ chậm tiến bộ. Sợ rằng nếu bạn làm những hành vi bất thiện dưới ảnh hưởng của phiền não, bạn sẽ nhận chịu đau khổ. Các điều sợ hãi trên giúp bạn cẩn thận đề phòng, luôn luôn cảnh giác không để cho phiền não đợi chờ cơ hội nhảy vào. Nhờ thế, trong lúc ngồi thiền, bạn sẽ nỗ lực Chánh Niệm khắng khít với đề mục chính.

Hổ thẹn liên quan trực tiếp đến giới hạnh và sự chân chính thành thật của chính bạn. Trong khi đó, ghê sợ liên quan đến giới hạnh của mình và thanh danh của gia đình, thầy tổ, thân quyến, bằng hữu, v.v...

Hổ thẹn thể hiện dưới nhiều cách. Một người sinh trưởng trong gia đình gia giáo thì gặp hoàn cảnh có khó khăn đến đâu, cha mẹ cũng cố gắng cho họ học hành để trở thành người hữu dụng sau này. Người được sanh trưởng và giáo dục trong gia đình như thế, trước khi làm một hành động ác, như giết người chẳng hạn, họ sẽ tự vấn nhiều lần: "Cha mẹ dạy là hãy sống trong tình thương và đối xử tốt với mọi người. Ta phải tự trọng, không để mất thanh danh vì những tư tưởngcảm giác xấu xa, tệ hại như vậy. Ta có nên giết người vì một phút yếu lòng và thiếu từ tâm như thế chăng? Ta đành hy sinh đức hạnh của ta chăng?" Nếu có thể phản tỉnh bằng cách này và quyết định tránh xa sự giết hại thì ta đã có đức hổ thẹn.

Ðức hạnh của sự hiểu biết hay học thức cũng có thể giúp ta tránh xa các hành động bất thiện. Một người có học thức, có văn hoá cao, sẽ có một căn bản luân lý, đức hạnh cao; đó là luân lý, đức hạnh của người có học, người hiểu biết. Khi có ý định làm một hành vi bất thiện, người có học thức, hiểu biết sẽ biết xem xét, thẩm định những gì đang ẩn tàng bên trong họ và có thể dừng tay.

Cũng có thể nhờ tuổi tác cao mà có đức hổ thẹn. Khi trọng tuổi, ta có phẩm hạnh cao. Ðiều này do ở sự tự tỉnh tự nhiên của mình: "Ta là một người đứng tuổi, con cháu đầy đàn, ta đã biết đâu là trái, đâu là phải. Ta không nên làm những điều không thích đáng như vậy. Ta phải tôn trọng phẩm hạnh của chính mình".

Sự hổ thẹn cũng phát sinh nhờ lòng dũng cảm, xác tín. Ta có thể tự suy nghĩ, phản tỉnh rằng: "Hành động thiếu đạo đức là hành động của những kẻ vô lại, ươn hèn, những người sống không nguyên tắc." Một người có tâm dũng cảm và cương nghị sẽ sống theo nguyên tắc, chân chính, thành thật. Không chuyện gì, không áp lực nào có thể khiến họ đánh mất tư cách, phẩm hạnh của mình.

Ghê sợ tội lỗi là một khía cạnh khác của lương tâm. Do nghĩ đến uy tín, danh dự của cha mẹ, họ hàng, gia đình, bạn bè mà một người không dám làm điều bất thiện. Họ nghĩ rằng khi làm điều bất thiện là đã phản bội và làm tổn thương đến các người thân yêu của mình.

Bạn không thể nào dấu diếm được những hành vi bất thiện mình đã làm. Vì làm sao dấu diếm được chính bạn! Có những kẻ có thể đọc được tâm người khác, họ có thể nghe hay thấy chuyện người khác làm. Nếu ý thức được điều này, bạn sẽ do dự khi làm một hành vi bất thiện dầu bạn nghĩ rằng hành vi này kín đáo đến đâu.

Hổ thẹnghê sợ tội lỗi đóng vai trò quan trọng trong đời sống gia đình. Nhờ có hai đức tánh này mà cha mẹ, con cái, anh chị em, có thể sống đời sống trong sạch an vui. Nếu không có hai đức tánh này thì sẽ không có hành vi đạo đức và những người trong gia đình sẽ đối xử với nhau như chó với mèo.

Thế giới ngày nay gặp nhiều tai họacon người đã thiếu mất hai đức tánh hổ thẹnghê sợ tội lỗi, hai yếu tố của lương tâm. Hổ thẹnghê sợ tội lỗi này được gọi là "những người hộ trì thế giới". Hãy tưởng tượng xem, nếu mọi người trên mặt đất này đều có hai đức tính hổ thẹnghê sợ tội lỗi, thì thế giới này sẽ êm đẹp biết bao.

Hổ thẹnghê sợ tội lỗi còn được gọi là tinh pháp (Sukka dhamma), pháp thanh tịnh, pháp trong sạch bởi vì chúng là những pháp thiết yếu để duy trì sự trong sạch, thanh tịnh của chúng sinh trên hành tinh này. Sukka dhamma có nghĩa là màu trắng, tượng trưng cho sự thanh tịnh, thanh khiết. Pháp ngược lại là không hổ thẹn và không ghê sợ tội lỗi, là pháp đen, kanha dhamma. Màu đen thì hấp thụ nhiệt, màu trắng phản xạ nhiệt. Pháp đen là pháp có đặc tính thu hút nhiều phiền não. Khi chúng hiện diện thì tâm bạn sẽ chìm đắm trong phiền não, trong khi pháp trắng hiện diện thì phiền não sẽ bị dội ngược.

Kinh điển có đưa ra thí dụ về hai hòn sắt. Một hòn bị trét đầy phân. Một hòn bị nung nóng đỏ. Một người từ chối hòn sắt thứ nhất vì sợ bẩn tay và không dám sờ vào hòn sắt thứ hai vì sợ phỏng tay. Không sờ vào hòn sắt bẩn cũng giống như tâm hổ thẹn tội lỗi. Người biết hổ thẹn khi làm điều xấu nhờ họ biết so sánh những điều xấu đó với điều tốt. Người không sờ tay vào hòn sắt nóng cũng như tâm ghê sợ tội lỗi. Người ghê sợ tội lỗi vì sợ phải gặp quả xấu do những hành động bất thiện của mình. Họ sợ phải sa vào khổ cảnh. Như vậy, người tránh xa mười bất thiện pháp cũng như người không dám sờ vào hai hòn sắt trên.

Những sự Hổ ThẹnGhê Sợ Vô ích

Có nhiều sự hổ thẹnghê sợ thật ra chẳng có ích tí nào. Tôi gọi đó là sự hổ thẹnghê sợ "không chính đáng." Chẳng hạn như bối rối hay mắc cỡ khi phải giữ năm giới. Mắc cỡ và sợ nghe giáo pháp. Mắc cỡ và e ngại khi đảnh lễ các bậc trưởng thượng. Nhiều người mắc cỡsợ hãi khi phải nói to hay đứng trước công chúng. Nhiều người sợ hãi những dư luận không tốt về mình, nhất là khi những dư luận nói về những hành động xấu xa của mình. Ðó là sự hổ thẹn không chính đáng.

Trong cuộc sống có những điều không nên mắc cỡ hay sợ hãi. Ðây là những điều lợi ích thực tiễn và thuộc về thế tục, không có trong kinh điển. Chẳng hạn như: Không mắc cỡ khi phải làm việc hay kiếm sống, vì nếu mắc cỡ như vậy thì lấy gì để mà ăn? Không mắc cỡ khi phải đến học hỏi với thầy về buôn bán hay về một nghề chuyên môn nào đó. Nếu mắc cỡ như vậy thì làm sao có kiến thức? Không mắc cỡ khi phải ăn, bởi vì nếu không ăn thì phải chết đói. Không sợ hãi khi phải gặp một nhân vật quan trọng khi điều đó cần thiết. Do những sợ hãi không chánh đáng mà nhiều việc không thành.

Nhiều người nhà quê rất sợ hãi khi phải đi xe lửa, xe buýt, qua phà. ở đây tôi muốn nói đến những người thật sự chưa từng thấy và xử dụng phương tiện giao thông công cộng. Những người đơn giản mộc mạc này họ cũng mắc cỡ khi dùng nhà vệ sinh công cộng. Những sự e dè mắc cỡ hay sợ hãi đó chẳng lợi ích gì. Có những người sợ cả chó, mèo, thằn lằn, gián, chuột hay sợ nơi lạ nước lạ cái. Nhiều người lại sợ người khác phái, nhiều người sợ cha mẹ, sợ thầy giáo, nên đứng trước mặt cha mẹ hoặc thầy giáo, họ ấp a ấp úng nói không nên lời, ngay cả đi đứng cũng trở nên mất tự nhiên. Nhiều thiền sinh sợ phải trình pháp với Thiền Sư nên họ cứ đứng lấp la lấp ló ngoài cửa như đợi vào phòng nha sĩ.

Tất cả những sự sợ hãi trên không phải là hổ thẹnghê sợ tội lỗi. Hổ thẹnghê sợ tội lỗi liên quan đến thiện pháp. Người hổ thẹnghê sợ tội lỗi sợ những nghiệp xấu do phiền não đem lại. Khi phiền não hiện diện thì những hành động bất thiện dễ phát sinh.

Suy nghĩ đến hổ thẹnghê sợ tội lỗi là một điều tốt đẹp. Hai yếu tố này càng mạnh bao nhiêu thì thiền sinh càng tinh tấn Chánh Niệm bấy nhiêu. Một thiền sinh sợ sự liên tục Chánh Niệm của mình bị gián đoạn thì sẽ luôn luôn nỗ lực cố gắng trau dồi Chánh Niệm giác tỉnh.

Bởi thế, Ðức Phật đã nói với vị trời mới của chúng ta: "Chiếc xe Bát Chánh Ðạo có chỗ tựa lưng là hổ thẹnghê sợ tội lỗi." Nếu có được chỗ tựa lưng hổ thẹnghê sợ tội lỗi này thì chúng ta sẽ có được một nơi để nương tựa, để dựa lưng và ngồi một cách thoải mái trên suốt hành trình đi đến an lạc Niết Bàn. Giống như người lái xe đời nay, nếu không thận trọng thì cũng xảy ra những nguy hiểm. Cũng vậy, thiền sinh đi trên chiếc xe Bát Chánh Ðạo, nếu thiếu Chánh Niệm thì nguy hiểm cũng chờ chực hai bên đường. Mối nguy hiểm đó cũng là phiền não đang nằm hai bên chánh đạo. Nếu bạn lơ đễnh, lạc tay lái thì bạn sẽ gặp chúng ngay.

Cầu mong cho các bạn có thật nhiều hổ thẹnghê sợ tội lỗi để có đủ tinh tấn trong việc hành thiền. Cầu mong các bạn tiến bước một cách êm đềm và nhanh chóng trên Bát Chánh Ðạo cho đến khi giác ngộ Niết Bàn.

 

Chánh Niệm là Vỏ Sắt Bao Quanh Chiếc Xe

Chiếc xe pháp bảo muốn đi một cách an toàn thì phải có một thân xe chắc chắn. Vào thời kỳ Ðức Phật, xe được làm bằng gỗ hay những vật liệu rắn chắc khác để cung tên và giáo mác không thể đâm thủng. Gần đây hơn, các quốc gia đã bỏ tiền ra để tạo những chiến xa hiện đại. Những chiếc xe hơi ngày nay cũng được chế tạo những bộ phận để bảo vệ an toàn. Có những chiếc xe rất an toàn và đầy đủ tiện nghi. Ngồi trên xe không khác gì đang ngồi trong nhà. Ngồi trong chiếc xe đó có thể tránh được gió máy, nóng lạnh, nắng nôi, mưa tuyết. Cũng vậy, khi thiền sinhChánh Niệm liên tục thì sẽ không bị các loại phiền não tấn công. Chánh Niệm là một thứ giáp sắt giúp cho tâm an toàn thoải máimát mẻ. Bao lâu tâm còn được bảo vệ bởi sự Chánh Niệm thì phiền não không thể xâm nhập.

Không một ai có thể đi an toàn trên chiếc xe Bát Chánh Ðạo mà không được bảo vệ bởi Chánh Niệm. Khi chiến xa xung trận, vỏ sắt của chiếc xe là yếu tố quan trọng bảo vệ chống lại mọi sự xâm nhập của kẻ thù. Trong khi hành Thiền Minh Sátchúng ta đã bước vào mặt trận đối mặt chống lại phiền não; phiền não này đã đàn áp chúng ta từ lâu lắm rồi mà ta không còn nhớ rõ, bởi vậy chúng ta cần phải có một cái giáp sắt để bảo vệ.

Muốn thắng địch thì phải hiểu địch. Cũng vậy, chúng ta thử tìm hiểu xem phiền não phát sinh như thế nào để tiêu diệt chúng. Phiền não phát sinh từ sáu cửa giác quan. Khi sáu cửa giác quan thiếu sự phòng ngự của Chánh Niệm, thì chúng ta sẽ là nạn nhân của tham ái, sân hận, si mê và đủ loại phiền não khác.

Chẳng hạn, khi tiến trình của sự thấy xảy ra, lúc vật thấy tiếp xúc với mắt thì nhãn thức phát sinh. Nếu vật thấy là vật đẹp đẽ và bạn không Chánh Niệm thì tham ái sẽ phát sinh. Nếu vật thấy không đẹp cũng không xấu thì làn sóng si mê sẽ cuốn trôi bạn đi. Nếu vật thấy không vừa ý và bạn không Chánh Niệm thì sân hận sẽ phát sinh. Khi có Chánh Niệm thì phiền não không thể xâm nhập vào luồng ý thức của bạn được. Khi ghi nhận Chánh Niệm các tiến trình của sự thấy thì tâm có cơ hội để hiểu rõ bản chất thật sự của những gì đang xảy ra.

Lợi ích trực tiếp tức thời của Chánh Niệm là tâm được thanh tịnh, trong sáng, an bìnhhạnh phúc. Chính vào thời điểm Chánh Niệm thì phiền não vắng bóng; do đó, tâm thanh tịnh. Tâm không thể ghi nhận hai đối tượng cùng một lúc. Vì vậy khi tâm tinh tấn Chánh Niệm thì phiền não không thể hiện khởi. Tâm thanh tịnh trong sáng, an lạc có thể được dùng để quán chiếu sâu hơn vào bản chất của hiện tượng.

Khi tâm phóng túng, không được kiểm soát thì những tâm sở bất thiện thường xảy ra hơn những tâm sở thiện. Ngay khi tham lam, sân hận, si mê xâm nhập vào tâm, chúng ta bắt đầu tạo nghiệp xấu, và nghiệp xấu này trả quả ngay trong kiếp hiện tại và cả kiếp vị lai. Tái sanhhậu quả của nghiệp, mà có tái sanh thì phải có chết. Trong thời gian giữa sanh và tử, chúng sanh tạo nên nghiệp, cả nghiệp thiện lẫn nghiệp ác, khiến chúng sinh phải luân hồi mãi mãi. Bởi thế, thất niệmcon đường dẫn đến sự chết. Thất niệmnguyên nhân dẫn đến cái chết trong kiếp sống này và các kiếp sống sau.

Bởi thế, Chánh Niệm giống như không khí trong lành luôn luôn cần thiết cho đời sống. Mọi người đều cần phải hít thở không khí trong lành. Nếu không có không khí trong lành hay phải sống trong bầu không khí ô nhiễm thì sớm muộn gì ta cũng bị bệnh và chết. Nếu tâm không có không khí trong lành của Chánh Niệm thì sẽ bị héo úa, hơi thở sẽ khó khăn và tắt nghẽn bởi phiền não.

Một người hít thở không khí ô nhiễm có thể bị bệnh cấp kỳ và phải chịu nhiều đau đớn khổ sở trước khi chết. Khi không Chánh Niệm chúng ta sẽ hít thở khí độc của phiền nãochúng ta sẽ chuốc lấy khổ đau. Nếu đối tượng làm cho hài lòng, thích thú hiện diện thì ta sẽ bị tham ái dày xéo. Nếu đối tượng không làm ta hài lòng, thích thú thì ta sẽ bị sân hận thiêu đốt. Nếu đối tượng làm tổn thương danh dự chúng ta thì lòng kiêu mạn của chúng ta sẽ nổi dậy. Phiền não có thể đến với ta dưới nhiều hình thái: Tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, tật đố, ganh tỵ, bỏn xẻn, v.v... Phiền não nào tấn công cũng đều khiến chúng ta đau đớn khổ sở như nhau. Tâm thanh tịnh, hỉ lạc, an bình, hạnh phúc chỉ có khi nào mọi phiền não bị xua đuổi khỏi tâm ta.

Một vài loại ô nhiễm khiến chúng ta bị chóng mặt, nhức đầu, xây xẩm, buồn nôn, rối loạn các bộ phận trong cơ thể. Một vài loại ô nhiễm như khí độc làm ta thiệt mạng. Phiền não cũng thế. Một số có thể gây ra cho chúng ta những thương tổn nhẹ, một số có thể khiến ta chết. Một số người bị choáng váng hay xây xẩm bởi dục lạc ngũ trần. Một số chết tức tưởi hay chết cấp kỳ bởi phiền não. Tham ái quá mạnh có thể làm chết người. Tham ái tích tụ nhiều năm có thể tạo ra nhiều chứng bệnh kinh niên hay cấp tính. Quá giận hay quá sợ cũng gây ra chết người. Ðó là trường hợp nạn nhân là những người bị đau tim. Phiền não cũng là nguyên nhân của nhiều bệnh tâm thần hay thần kinh.

Thật ra, phiền não còn nguy hiểm hay tai hại hơn bầu không khí bị ô nhiễm nặng nề nhất. Một người bị chết vì hít thở không khí ô nhiễm thì chất độc chỉ nằm trong cơ thể người đó. Nhưng sự tàn độc của phiền não có thể lan truyền đến kiếp sau, đó là chưa kể những ảnh hưởng gián tiếp của phiền não đối với người khác. Khi hít phiền não vào tâm thì phiền não đem đến kết quả là nghiệp, và nghiệp này sẽ chín trong tương lai.

Một người Chánh Niệm liên tục thì tâm sẽ dần dần được rửa sạch giống như phổi của một người nghiện hút đã bỏ thuốc thì dần dần chất độc hay chất nhựa của thuốc lá trong phổi sẽ tan biến đi. Một con tâm trong sạch thì sẽ dễ dàng tập trung tâm ý và trí tuệ sẽ có cơ hội để hiện khởi. Tiến trình chữa lành bệnh phải bắt đầu bằng Chánh Niệm. Nhờ Chánh Niệm được phát triển mà chánh định trở nên thâm sâu hơn, bạn sẽ dần dần đạt các tuệ minh sát. Khi trí tuệ tiếp tục phát triển và chín mùi thì cuối cùng bạn sẽ giác ngộ Niết Bàn. Khi đó, mọi phiền não đều được nhổ tận gốc rễ. Niết Bàn không có ô nhiễm.

Giá trị của Chánh Niệm chỉ có thể nhận biết được do chính người thực hành Chánh Niệm.

Chánh Kiến là Người Ðánh Xe

Dầu chiếc xe có kỳ diệu đến đâu, nếu không có người đánh xe thì cũng không thể đi đâu được. Cũng vậy, Ðức Phật giảng giải rằng Chánh Kiến (sammẻdiÔÔhi) cung cấp sinh lực cũng như chỉ hướng cho hành trình tâm linh của chúng ta. Kinh điển ghi lại sáu loại Chánh Kiến. Trong bài pháp nói về Chánh Kiến này, Ðức Phật đặc biệt đề cập đến Chánh Kiến phát sinh vào lúc thánh đạo tâm phát sinh. Thánh đạo tâm là một trong những tuệ giác cao nhất mà việc hành Thiền Minh Sát đem lại.

Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta

Chánh Kiến đầu tiên là Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta (Kamma sakata ditthi). Nghiệp là hành động thiện hay bất thiện. Nhiều người nghĩ rằng họ có quyền sở hữu hay có thể kiểm soát được các tài sản vật chất. Ðó là một quan niệm sai lầm mang đầy ảo tưởng hão huyền bởi vì mọi vật trên thế gian này đều Vô Thường , không vững bền và bị hủy hoại. Vì mọi vật thoát khỏi quyền kiểm soát nên ta không thể nào làm chủ được chúng. Nghiệp là của sở hữu độc nhất mà chúng ta có thể nương tựa. Phải luôn luôn nhớ rằng mọi hành động tốt hay xấu mà chúng ta làm, đều theo ta suốt hành trình luân hồi trong tam giới để trả quả tương ứng. Nghiệp có hiệu quả trực tiếp trên tâm khiến chúng ta vui hay buồn tùy theo nghiệp tốt hay xấu mà ta đã tạo. Nghiệp cũng có hiệu quả lâu dài. Bất thiện nghiệp dẫn ta tái sinh vào bốn cảnh khổ, và thiện nghiệp giúp ta sinh vào cõi an vui. Thiện nghiệp cao nhất đưa chúng ta ra khỏi vòng luân hồi.

Thấy rõ được rằng "đời sống này do nghiệp điều động" sẽ giúp ta chọn cho mình một lối sống thích đáng. Chánh Kiến thấy rõ nghiệp là tài sản của ta được gọi là ánh sáng thế gian, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể thấy và đánh giá được những gì chúng ta lựa chọn. Chánh Kiến về nghiệp chẳng khác gì một nhà ga chuyển tiếp nơi đó tàu hỏa có thể chọn hướng đi; hay một phi trường quốc tế, phi cơ có thể giao lưu nhiều nước trên thế giới. Bởi vì chúng ta cũng như mọi chúng sanh khác đều mong muốn hạnh phúc, sự hiểu biết về nghiệp sẽ giúp cho ta có nhiệt tâm trong việc phát triển những việc thiệnlánh xa các việc ác. Nhờ thế, chúng ta được hưởng an vui hạnh phúc và tránh những tai hại sau này.

Thực hành bố thítrì giới là tạo cơ hội cho mình tái sanh vào nơi có những điều kiệnhoàn cảnh tốt. Những nghiệp thiện quí giá này sẽ giúp chúng ta đi trên đường tiến đến Niết Bàn.

Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh

Sau khi có Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta thiền sinh thực hành thiền định. Thiền định hay thiền chỉlợi ích trước mắt giúp thiền sinh đạt được sự yên tịnh, vắng lặng, nhập định. Loại chánh kiến thứ hai là Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh (Jhana samma ditthi). Ðây là kiến thức phát sanh liên hệ đến mỗi một tầng thiền trong tám tầng thiền định. Có ba lợi ích của Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh. Lợi ích thứ nhất là: trước lúc chết, nếu tâm có đủ sức mạnh để an trú vào các tầng thiền thì thiền sinh có thể tái sanh vào cõi phạm thiên và có thể sống một đời sống rất dài, nhiều kiếp và nhiều chu kỳ của trái đất. Lợi ích thứ hai là có thể dùng các tầng thiền định này làm căn bản để khai triển Thiền Minh Sát. Lợi ích thứ ba là có thể dùng các tầng thiền định để khai triển thần thông.

Dọn Ðường Cho Tuệ Giác Tối Hậu: Phát Triển Tuệ Minh sát

Chúng ta để hết thời gian và tận tâm khai triển loại Chánh Kiến thứ ba bên trong chúng ta. Ðó là Chánh Kiến Về Minh Sát. Chánh Kiến này phát sinh nhờ ở việc hành Thiền Minh Sát. Khi có giới luật trong sạch và có Tinh tấn Chánh Niệm thì trí tuệ sẽ phát triển một cách tự nhiên. Một điều quan trọng cần nhớ là Chánh Kiến không phải là một quan niệm, mà Chánh Kiến là một loại trí tuệ trực giác do sự thấy rõ một cách trực tiếp bản chất của sự vật.

Một tổng thống khi muốn đi từ tư dinh của mình đến một nơi nào đó thì phải cần có sự chuẩn bị trước. Nhân viên an ninh phải kiểm soát, xem xétdự phòng những cách giải quyết trong nhiều tình huống có thể xảy ra. Chẳng hạn phải điều động lực lượng phòng vệ, làm hàng rào ngăn cản đám đông, di chuyển những xe cộ để không làm cản trở cuộc hành trình, xem xét coi có chất nổ hay không. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ, kỹ càng thì vị tổng thống mới bước lên xe.

Cũng như vậy, trên Bát Chánh Ðạo, Chánh Kiến Về Minh Sát giống như những cơ quan an ninh. Trí tuệ thấy rõ Vô Thường , Khổ, Vô Ngãnhiệm vụ như những cảnh sát loại bỏ mọi sự dính mắc trên đường đạo. Những sự dính mắc này là những tà kiến, lý thuyết, quan niệm sai lầm. Khi đường đạo đã được phát quang và sửa soạn chu đáo, lúc bấy giờ Chánh Kiến Của Bát Chánh Ðạo sẽ xuất hiện và nhổ gốc rễ phiền não.

Tiến Trình Loại Bỏ

Trên đường đạt đến thánh đạo tâm, mỗi tầng tuệ loại bỏ một phần tà kiến hay quan điểm sai lầm về bản chất của sự vật. Tuệ Minh Sát đầu tiên xuyên thấu vào bản chất thật sự của các hiện tượng danh sắc cho ta thấy rõ danh và sắc là hai phần riêng biệt, và đời sống chẳng có gì ngoài dòng lưu chuyển không ngừng của hai hiện tượng này. Vào giai đoạn này, chúng ta đặc biệt loại bỏ, quét sạch, khai thông quan kiến sai lầm. Quan kiến sai lầm trước đây là lấy cái giả làm cái thật, cái không có cho là có; chẳng hạn như quan niệm rằng mọi vật đều trường tồn vĩnh cữu và có một cái ngã bất diệt.

Tuệ giác thứ hai là Hiểu Rõ Nhân Quả, loại bỏ sự nghi ngờ, như trước đây phân vân không biết sự vật có phải ngẫu nhiên xảy ra chăng, thì nay hiểu rõ ràng rằng không có cái gì sanh ra mà không có nguyên nhân. Thêm vào đó, chúng ta hiểu biết một cách rõ ràng trực tiếp rằng không có một sức mạnh bên ngoài nào là nhân của các hiện tượng.

Càng hành thiền thâm sâu hơn, chúng ta càng thấy rõ đặc tính Vô Thường của các hiện tượnghiểu rõ bằng trực giác rằng mọi chuyện đã xảy ra trong quá khứ hay sẽ xảy ra trong tương lai cũng đều Vô Thường cả. Nhờ hiểu biết Vô Thường. Chúng ta thấy rõ chẳng có nơi nào có thể nương tựa hay cậy nhờ. Như thế là ta đã loại bỏ được tư tưởng sai lầm rằng bình an và ổn cố có thể được tìm thấy trong các sự vật trên thế gian này. ở tầng mức trí tuệ này, chúng ta cảm thấy từ trong đáy lòng mình rằng, bị đàn áp bởi các hiện tượng danh sắc, chuyển biến không ngừng là một điều đau khổ lớn lao. Tiếp theo, chúng ta sẽ nhận ra rằng không có ai có thể điều khiển, kiểm soát hay ngăn cản sự đến và đi của các sự vật trên thế gian này. Khi đó một cảm giác sợ hãi sâu xa và bị áp chế phát sinh. Từ đó ta có trực giác thấy rõ sự Vô Ngã. Ba loại trí tuệ sau cùng này là khởi đầu của Chánh Kiến Về Minh Sát liên quan đến Vô Thường, khổ và Vô Ngã.

Chánh Kiến Về Minh Sát Sanh Khởi

Khi Chánh Kiến Về Minh Sát khởi sinh, chiếc xe đã sẵn sàng. Xe rung chuyển một ít và bắt đầu di động khi thấy rõ con đường dẫn đến Niết Bàn. Bây giờ, bạn có thể lăn bánh để xe thẳng tiến theo hướng đã định. Xe đã có vỏ sắt an toàn, chỗ tựa lưng vững chắc, tài xế đã vào chỗ ngồi, bạn chỉ cần chuyển nhẹ hai bánh xe nữa thôi.

Một khi bạn được tuệ giác thấy rõ Vô Thường , Khổ, Vô Ngã, bạn sẽ dần dần thấy rõ sự sinh ra và sự diệt đi của các đối tượng; sự vật càng lúc càng nhanh hơn và rõ ràng hơn. Việc hành thiền của bạn càng thâm sâu. Bạn càng thấy sự vật sinh diệt nhanh hơn và với tốc độ mau lẹ khủng khiếp, một phần triệu giây, một phần tỷ giây. Và cuối cùng, bạn không thể nào thấy được sự sinh. Chỗ nào bạn để mắt đến đều diệt đi nhanh chóng như một tia chớp. Bạn không còn thấy sinh mà chỉ thấy diệt. Bạn có cảm giác bàng hoàng như đất đang sụp đổ dưới chân. Sự diệt mất này không phải trừu tượng, lý thuyếthiện diện trong toàn cuộc sống của bạn trong giai đoạn này.

Càng hành thiền thâm sâu hơn, bạn càng đến gần đích hơn. Khi tất cả các tầng Tuệ Minh Sát đều được hoàn tất. Chánh Kiến của đạo tâm sẽ đứng ra cáng đáng mọi việc và đưa bạn đến nơi cư trú an toàn. Ðó là Niết Bàn.

Khi tuệ giác Minh Sát hiện diện thì phiền não không có cơ hội phát sinh. Nhưng phiền não chưa bị nhổ tận gốc rễ mà chỉ tạm thời vắng mặt, chờ đợi cơ hội để phục hồi sức mạnh.

Ấn Chứng Cuối Cùng: Làm Suy Yếu Và Tận Diệt Phiền Não

Chỉ vào lúc Chánh Kiến về thánh đạo phát sinh thì phiền não mới bị nhổ tận gốc rễ. Bạn có thể thắc mắc thế nào là nhổ tận gốc rễ phiền não. Phiền não đã phát sinh thì không thể loại bỏ nữa vì nó đã trôi qua. Phiền não chưa phát sinh thì không thể loại bỏ vì nó chưa có mặt. Và ngay trong hiện tại, phiền não sinh ra rồi diệt ngay thì làm thế nào để diệt nó? Nhổ tận gốc rễ ở đây là nhổ tận gốc rễ phiền não ngủ ngầm. Có hai loại phiền não: Dục áiHữu ái. Dục ái liên quan đến đối tượng, Hữu ái liên quan đến sự tiếp tục sinh tồn. Dục áiliên quan đến danh sắc, sẽ phát khởi khi có điều kiện thuận lợi, đó là khi ta thiếu Chánh Niệm. Khi một đối tượng quá mạnh hiện ra nếu chúng ta thiếu Chánh Niệm để ghi nhận một cách chính xác và khách quan thì những phiền não ngủ ngầm sẽ sống dậy và hiển hiện ra. Tuy nhiên, nếu chúng ta Chánh Niệm thì phiền não sẽ không hiện ra. Khi một đối tượng xuất hiện, nếu ta không có Chánh Niệm ghi nhận một cách chính xác rõ ràng, thì phiền não sẽ phát sinh. Khi một đối tượng xuất hiện, nếu có Chánh Niệm ghi nhận, thì phiền não sẽ bị đẩy xa. Nhờ Chánh Niệm, phiền não chỉ bị đẩy xa chớ chưa bị tận diệt. Bao lâu chúng ta còn luân lưu trong tam giới thì phiền não vẫn còn. Chúng tiềm ẩn trong dòng tâm thức. Chúng chỉ bị tận diệt hay bị nhổ tận gốc rễ bởi thánh đạo tâm mà thôi.

Ngày xưa, người ta chữa trị bệnh sốt rét qua hai giai đoạn. Thoạt đầu cho bệnh nhân uống thuốc để nhiệt độ trở lại bình thường, không để cho bệnh nhân lúc quá nóng, lúc quá lạnh. Ðây là cách tăng cường sức mạnh cho cơ thể và làm suy yếu vi trùng bịnh sốt rét. Cuối cùng, sau khi nhiệt độ đã ổn cố, bệnh nhân sẽ được uống liều thuốc thứ hai để diệt vi trùng. Trong việc hành Thiền Minh Sát để điều trị con tâm cũng vậy. Ðầu tiên dùng Chánh Niệm để làm suy yếu phiền não. Sau đó thánh đạo tâm sẽ tận diệt phiền não.

Một thí dụ khác là việc làm giấy tờ xuyên qua thủ tục bàn giấy. Muốn làm một giấy tờ gì, như xin phép làm việc gì chẳng hạn, trước nhứt bạn phải đến lầu thứ nhất gặp người chỉ dẫn. Bạn sẽ được hướng dẫn lên lầu thứ hai để gặp người phụ trách công việc của bạn. Tại đây, bạn sẽ được giải thích và hướng dẫn bạn phải cần làm gì và nạp giấy tờ gì. Sau khi đã nạp đủ hồ sơ cần thiết, bạn sẽ nhận được một số đơn để điền vào và ký tên. Sau khi điền đơn phải đợi người nhận đơn duyệt lại và ký nhận. Sau đó đơn sẽ được đưa lên một cấp cao hơn để duyệt xét. Phải mất nhiều thời gian để hoàn tất mọi thủ tục. Sau cùng, bạn lên tầng lầu chót và chỉ cần nửa giây là nhận được chữ ký quyết định. Giấy tờ của bạn bây giờ đã xong, nhưng trước đó bạn phải qua nhiều thủ tục hành chánh rườm rà.

Trong việc hành Thiền Minh Sát cũng vậy, cũng có rất nhiều thủ tục bàn giấy. Mặc dầu thánh đạo tâm đến nhanh hơn lúc bạn nhận chữ ký cuối cùng, nhưng bạn phải thực hành mới được. Phải qua nhiều thời gian. Khi mọi việc đã diễn biến theo thứ tự, đạo của Chánh Kiến sẽ xuất hiện và xác chứng rằng mọi phiền não đã bị tận diệt.

Phần đầu tiên của tuệ Minh Sát có thể được gọi là "nhân công đạo" (những người nhân công làm việc cho đạo). Vì phải làm tròn công việc mà không được lẩn trốn. Thánh đạo tâm này giống như người chủ giao việc cho người thợ. Người chủ không thể ký bạch chỉ chứng nhận trước rằng người thợ đã hoàn tất công việc trong khi đó người thợ chưa làm được gì cả, ngay cả việc căn bản đầu tiên vẫn chưa hoàn thành.

Chánh Kiến Về Ðạo Và Quả: Dập Tắt Lửa Phiền Não, Rưới Nước Vào Tro Nóng

Khi các tuệ Minh Sát đã hoàn tất, đạo tâm sẽ tự động khởi sinh, theo sau là quả tâm. Tiếng Pali gọi đạo và quả tâm là magga và phala. Thánh Ðạo Chánh KiếnThánh Quả Chánh KiếnChánh Kiến thứ tư và thứ năm trong sáu loại Chánh Kiến. Khi thánh đạo tâm phát sinh thì thánh đạo Chánh Kiến nhổ tận gốc rễ nhóm phiền não gây ra sự tái sinh vào bốn cảnh khổ, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, địa ngục. Thánh quả Chánh Kiến là một phần của thánh quả tâm xuất hiện ngay khi thánh quả tâm hiện khởi. Khi thánh quả tâm hiện khởi thì lửa phiền não bị tận diệt, nhưng than hồng và tro nóng vẫn còn. Thánh Quả Chánh Kiến rưới nước lên than hồng và tro nóng phiền não.

Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại

Chánh Kiến thứ sáu, hay Chánh Kiến cuối cùng, là Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại. Tuệ xét lại nối gót theo thánh quả tâm và kinh nghiệm Niết Bàn. Tuệ xét lại ôn lại năm điều. Thứ nhứt, sự xuất hiện của đạo tâm. Thứ hai, sự xuất hiện của quả tâm. Thứ ba, Niết Bàn chính nó là một đề mục của tâm. Thứ tư, phiền não đã tận diệt và thứ năm, phiền não chưa tận diệt.

Tóm lại, có sáu loại Chánh Kiến: 1) Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta. 2) Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh. 3) Chánh Kiến Về Minh Sát. 4) Thánh Ðạo Chánh Kiến. 5) Thánh Quả Chánh Kiến và 6) Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại.

Loại Chánh Kiến đầu tiên, Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta là loại Chánh Kiến tồn tại vĩnh viễn, Chánh Kiến này không bao giờ mất. Quả đất này có thể bị tan rã hủy hoại nhưng vẫn có những chúng sanh trong các cõi khác có Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta.

Người không phân biệt được các hành vi thiện ác, không biết thế nào là thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, sẽ không thấy được ánh sáng chân lý. Họ chẳng khác nào một đứa trẻ bị mù bẩm sinh: Mù từ trong bụng mẹ và mù khi ra đời. Nếu đứa trẻ này lớn lên, nó cũng không thể thấy rõ để tự hướng dẫn mình. Một người bị mù và không được ai hướng dẫn sẽ gặp nhiều tai nạn.

Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh sẽ luôn luôn có mặt bao lâu thiền sinh còn thực tập để đạt các tầng thiền. Phật giáo có thể suy tàn, nhưng vẫn luôn luôn còn có những người thực hành sự định tâmnhập định.

Tuy nhiên, những loại Chánh Kiến còn lại chỉ hiện diện khi giáo pháp của Ðức Phật còn tồn tại. Từ thời Ðức Phật Thích Ca còn hiện tiền đến nay, giáo pháp của Ngài vẫn không ngừng phổ biến, và ngày nay lan tràn khắp nơi trên thế giới, ngay cả những xứ không phải Phật giáo cũng vẫn có những nhóm hay những tổ chức thực hành theo lời Phật dạy.

Người có Chánh Kiến Biết Rõ Nghiệp Là Tài Sản Của Chúng Ta hay có Chánh Kiến Liên Quan Ðến Các Tầng Thiền Ðịnh chưa đến gần được ánh sáng của giáo pháp. Họ có thể có được ánh sáng của thế gian, nhưng không có được ánh sáng của Như Lai. Bốn loại Chánh Kiến sau, từ Chánh Kiến Về Minh Sát đến Chánh Kiến Của Tuệ Xét Lại chứa đựng ánh sáng của giáo pháp.

Khi thiền sinh có thể phân biệt được thân và tâm thì họ thoát khỏi các ảo tưởng về tự ngã, và bức màn che đậy sự tối tăm đầu tiên được tháo gỡ. Chúng ta có thể nói ánh sáng của giáo pháp đã hé lộ trong tâm họ như ánh sáng thái dương bắt đầu hé lộ vào buổi bình minh. Nhưng còn nhiều màn nữa cần được tháo gỡ. Lớp màn thứ hai của si mêquan điểm cho rằng sự vật xảy ra có tính cách ngẫu nhiên, may rủi. Bức màn này sẽ được cởi bỏ khi có được tuệ giác thấy rõ nhân quả. Khi thiền sinh thấy được tuệ nhân quả, ánh sáng trong tâm thiền sinh sẽ sáng tỏ hơn một chút, nhưng thiền sinh không nên lấy làm thỏa mãn ở điểm này vì tâm thiền sinh vẫn còn đen tối, si mê vì chưa thấy rõ các đặc tính Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Muốn loại bỏ sự đen tối này, thiền sinh phải cố gắng hành thiền nhiều hơn: Kiên trì Tinh tấn theo dõi sự vật khi chúng khởi lên, Chánh Niệm sắc bén, tập trung tâm ý sâu xa. Cuối cùng, trí tuệ sẽ khởi lên một cách tự nhiên.

Bây giờ thiền sinh thấy rằng không thể tìm thấy nơi nương tựa trong các hiện tượng Vô Thường này. Ðiều này khiến thiền sinh thất vọng, thất vọng nhiều, nhưng ánh sáng bên trong sáng tỏ hơn. Thiền sinh thấy rõ ràng đặc tính Khổ và Vô Ngã của các hiện tượng. Lúc bấy giờ chỉ còn một bức màn cuối cùng che phủ sự nhận chân Niết Bàn cần phải lột bỏ, và bức màn cuối cùng này chỉ được lột bỏ bởi thánh đạo tâm mà thôi. Khi bức màn cuối cùng được lột bỏ, ánh sáng của giáo pháp thực sự bắt đầu chiếu rạng.

Nếu bạn khai triển tất cả các loại Chánh Kiến, tâm bạn sẽ sáng ngời. Kể từ đó, dù bạn có tái sanh ở đâu trong vòng luân hồi đi nữa, bạn sẽ không bao giờ bị tách rời khỏi ánh sáng của trí tuệ. Ánh sáng trí tuệ này ngày càng sáng tỏ cho đến khi bạn đạt đến đạo quả A La Hán, mức giác ngộ cuối cùng.

Làm Chủ Chiếc Xe

Bất luận người nào, nam hay nữ, khéo điều khiển và làm chủ chiếc xe này, chắc chắn sẽ đạt đến Niết Bàn.

Khi vị trời của chúng ta nghe bài pháp về chiếc xe này, ông hiểu rõ những lời Phật dạy và tức khắc trở thành một vị Tu Ðà Hườn, làm chủ chiếc xe lộng lẫy có tên là Bát Chánh Ðạo. Mặc dầu bài pháp của Ðức Phật trực tiếp hướng đến mục đích tối hậuA La Hán, nhưng vị trời của chúng ta chưa đủ túc duyên để đạt quả giải thoát cuối cùng, mà chỉ đạt quả nhập lưu.

Ích lợi Của Quả Tu Ðà Hườn: Làm Cạn Biển Khổ Tam Giới

Lợi ích của quả Tu Ðà Hườn: Làm cạn biển tam giới, hay biển khổ. Người đạt quả Tu Ðà Hườn không còn bị tái sinh vào bốn đường ác. Theo kinh điển, người đạt quả Nhập Lưu tận diệt được ba loại phiền não, thân kiến, hoài nghigiới cấm thủ (dính mắc vào sự thực hành sai lầm). Chú giải ghi thêm rằng vị Tu Ðà Hườn còn diệt được tâm ganh tỵbỏn xẻn.

Vị trời của chúng ta chắc rằng đã đạt được tuệ giác thấy rõ danh sắc trong lúc làm tỳ khưu, và lúc đạt được tuệ này, vị cựu tỳ khưu thoát khỏi thân kiến không còn chấp vào một cái ngã vĩnh cửu. Tuy thế, sự từ bỏ tà kiến chỉ tạm thời. Khi đạt đạo quả Tu Ðà Hườn, tà kiến mới vĩnh viễn được loại trừ. Người đạt quả Tu Ðà Hườn không còn ảo tưởng về tự ngã nữa.

Loại phiền não thứ hai được loại trừ là hoài nghi. Loại phiền não này cũng gần với tà kiến. Khi một người không hiểu rõ ràng, chính xác bản chất của sự vật thì sẽ khó hiểu biết được điều đúng, điều sai, như người đứng giữa ngã ba đường bối rối không biết chọn đường nào, hoặc như khách lữ hành bối rối, phân vân không biết làm sao đi đúng hướng. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan này làm cho thân tâm suy nhược, mòn mỏi.

Khi thấy được bộ máy nhân quả, thiền sinh sẽ tạm thời loại bỏ hoài nghi. Thiền sinh nhận thấy giáo phápchân lý, là sự thật, thấy rõ danh và sắc liên hệ nhân quả với nhau, mà không có gì trên thế gian này không có nhân duyên. Tuy nhiên, sự loại bỏ hoài nghi này chỉ có tính cách tạm thời. Bao lâu có Chánh Niệm thì hoài nghi bị loại bỏ. Lúc không có Chánh Niệm, hoài nghi sẽ xen vào. Chỉ khi đạt quả Tu Ðà Hườn, hoài nghi mới bị tận diệt. Người nào đã đi đến đích cuối cùng của Bát Chánh Ðạo là Niết Bàn thì người ấy sẽ có đức tin kiên cố vào Ðức Phật, vào những lời dậy dỗ chính xáchiệu quả của Ngài, và vào chư Thánh Tăng đã đi theo Ngài.

Loại phiền não thứ ba được loại trừ khi đạt quả Tu Ðà Hườn giới cấm thủ, nghĩa là tin tưởng vào lối thực hành sai lầm. Chúng ta có thể hiểu biết điều này một cách tổng quát. Sự hiểu biết này sẽ trọn vẹn hơn nếu được xem xét dưới ánh sáng của Tứ Diệu Ðế. Khi những vị có khả năng đắc Tu Ðà Hườn, khai triển Bát Chánh Ðạo bên trong mình lần đầu tiên, họ hiểu chân lý thứ nhất: Tất cả mọi vật đều khổ và bất toại nguyện. Thân và tâm là khổ. Sự phát triển đầu tiên của một thiền sinh bao gồm trong việc quán sát các sự khổ này. Khi chân lý thứ nhất được thấy trọn vẹn thì thiền sinh sẽ được thấy ba chân lý sau, đó là sự loại bỏ tham ái, (chân lý thứ hai) sự chấm dứt đau khổ (chân lý thứ ba) và sự phát triển Bát Chánh Ðạo (chân lý thứ tư).

Phần sơ khởi hay phần trí tuệ của Bát Chánh Ðạo sẽ được phát triển trong từng sát na Chánh Niệm. Ðến một lúc nào đó, phần thế tục của Bát Chánh Ðạo này sẽ được chín mùi và trở thành trí tuệ siêu thế. Thế nên, khi giác ngộ Niết Bàn, vị trời này bây giờ hiểu rõ rằng "thực hành là con đường duy nhất để giải thoát". Ông ta biết rằng ông đã có kinh nghiệm về việc chấm dứt đau khổ thực sự, chấm dứt nhân duyên, đó là Niết Bàn. Thiền sinh khi hành thiền đến mức thành đạt cũng đều có những cảm giác như vậy.

Bát Chánh Ðạo là con đường duy nhất dẫn đến Niết Bàn. Niết Bàn chỉ có thể đạt được qua sự thực hành. Với sự hiểu biết này, vị Tu Ðà Hườn không còn tin tưởng vào một phương pháp thực hành nào mà trong đó không có Bát Chánh Ðạo.

Theo Thanh Tịnh Ðạo thì vị Tu Ðà Hườn vẫn còn tham lam, sân hậnsi mê tấn công, và vẫn còn kiêu mạn. Nhưng vì thánh đạo tâm đã nhổ tận gốc rễ các phiền não dẫn đến sự tái sanh vào bốn đọa xứ nên các vị Tu Ðà Hườn không còn tái sanh vào các cảnh dữ này.

Thanh Tịnh Ðạo còn cho ta biết rằng vị Tu Ðà Hườn đã thành công trong việc làm khô đại dương luân hồi tam giới. Bao giờ chưa đắc được quả thánh đầu tiên thì ta vẫn còn tiếp tục luân lưu trong vòng luân hồi bất tận không biết đâu là điểm khởi đầu này. Phạm vi của tam giới rộng vô cùng, ta cứ đi mải miết. Người đắc quả Tu Ðà Hườn chỉ còn sống trong tam giới tối đa bảy kiếp trước khi hoàn toàn giác ngộ đạo quả A La Hán. Bảy kiếp này là bao so với vô số kiếp sống trong vòng tam giới? Bởi thế mới gọi quả Tu Ðà Hườn làm cạn biển khổ tam giới.

Bất thiện nghiệp chỉ có thể xuất hiện dưới ảnh hưởng của si mêtham ái. Khi một số si mêtham ái biến mất, thì một số bất thiện nghiệp như tái sanh vào các cảnh khổ cũng bị mất hiệu lực. Khi còn bị các loại phiền não như tà kiến, ngã kiến, hay nghi ngờ về đạo quảnghiệp báo chi phối thì con người làm biết bao nhiêu điều bất thiện. Các hành vi bất thiện mà họ đã làm chắc chắn sẽ dẫn họ đến bốn cõi dữ. Không còn các loại phiền não này nên vị Tu Ðà Hườn không còn làm những hành động ác có thể khiến họ tái sanh vào bốn cảnh khổ. Thêm vào đó, những nghiệp ác mà trước đây họ đã tạo có thể dẫn họ tái sanh vào khổ cảnh cũng bị cắt đứt vào lúc họ đạt được thánh đạo tâm. Bởi thế, một vị Tu Ðà Hườn không còn phải lo sợ sinh vào bốn đường dữ nữa.

Bảy Kho Báu của Bậc Thánh Nhân

Lợi ích khác của bậc Tu Ðà Hườn là được làm chủ bảy kho báu của thánh nhân. Thánh nhân là người trong sạch thanh tịnh, có tư cách thanh cao, đã đạt được một trong bốn mức giác ngộ. Bảy kho báu này là đức tin, giới hạnh, hổ thẹn tội lỗi, ghê sợ tội lỗi, học nhiều hiểu rộng, bố thí (hay dứt bỏ) và trí tuệ.

Ðầu tiên là đức tin. Các bậc thánh có đức tin bất thối vào Phật, Pháp và Tăng. Ðức tin của các Ngài không thối chuyển vì nó phát sinh từ kinh nghiệm trực tiếp và hiểu biết. Bậc thánh nhân không bao giờ bị mua chuộc, lung lạc hay hư hỏng đến nỗi từ bỏ Phật, Pháp, Tăng. Không có phương tiện nào, dù ngọt ngào hay đe dọa, dù gian trá hay nguy hại đến tánh mạng có thể làm cho các Ngài từ bỏ đức tin.

Kho báu thứ hai là giới hạnh. Giới hạnh là thanh lọc phẩm hạnh. Bực Tu Ðà Hườn không thể nào phạm ngũ giới, không bao giờ có tư tưởng hay hành động sai lầm có thể dẫn đến việc tái sanh vào bốn cảnh khổ. Bậc Tu Ðà Huờn thoát khỏi thân ác nghiệp, thoát khỏi phần lớn các khẩu ác nghiệp, thoát khỏi tà mạngcuối cùng không bao giờ thực hành theo tà đạo.

Kho báu thứ ba và thứ tư là hổ thẹnghê sợ tội lỗi. Ở vị Tu Ðà Hườn, yếu tố này được phát triển một cách mạnh mẽ. Bởi thế các Ngài không thể nào làm các nghiệp ác.

Kho báu thứ năm là học nhiều hiểu rộng , liên quan đến lý thuyết thiền cũng như cách thực tập thiền. Thật vậy, bậc Tu Ðà Hườn đã học được kỹ thuật đi trên Bát Chánh Ðạo, biết thực hành theo Bát Chánh Ðạo để tiến đến Niết Bàn.

Kho báu thứ sáu là bố thí hay lòng từ thiện. Thật ra đây là sự dứt bỏ. Vị Tu Ðà Hườn từ bỏ một cách hào hiệp mọi phiền não dẫn đến sự tái sanh vào các khổ cảnh. Thêm vào đó, vị Tu Ðà Huờn bố thí một cách rộng rãi. Lòng từ thiện của các Ngài liên tụcchân thật.

Kho báu cuối cùngtrí tuệ . Ðiều này liên quan đến các tuệ giác Minh SátTrí Tuệ. Khi hành thiền vị Tu Ðà Hườn không bị tà định và tà niệm chi phối. Vị Tu Ðà Hườn không còn có các thô tướng phiền não bùng khởi bên trong và biểu hiện qua hành động, lời nóitư tưởng. Các Ngài cũng thoát khỏi nỗi sợ hãi bị tái sanh vào cảnh khổ. Sự bình an cá nhân là điều quan trọng thiết yếu. Sự bình an này có thể đạt được nhờ thoát khỏi sợ hãi. Nếu nhiều người trên thế gian này có được sự an bình như vậy thì thế giới sẽ hoà bình an lạc. Thế giới an bình chỉ có thể bắt đầu từ bên trong.

Người Con Thật Sự của Ðức Phật

Một lợi ích khác của bậc Tu Ðà Hườn trở thành người con thật sự của Ðức Phật. Nhiều người có lòng nhiệt thành với Tam Bảo, họ có đức tin mạnh mẽ, hàng ngày cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu hoàn cảnh thay đổi, họ sẵn sàng từ bỏ đức tin. Họ sẽ tái sanh mà không có đức tin. Một người có thể rất trong sạch, có thiện tâm trong kiếp này, nhưng sẽ trở thành một kẻ vô lại ở kiếp tới. Không có một bảo đảm nào trừ khi đạt được đạo quả thứ nhất và trở thành một người con trai hay con gái thực sự của Ðức Phật.

Trong Thanh Tịnh Ðạo dùng chữ orasa putta với nghĩa là một đứa con chính thức, đứa con trưởng thành. Putta thường dịch là con trai, nhưng thực ra đây là một chữ tổng quát để chỉ con cháu bao gồm cả con gái. Theo Thanh Tịnh Ðạo thì vị Tu Ðà Hườn có được hàng trăm lợi ích. Thật vậy, lợi ích của vị Tu Ðà Hườn vô số kể. Vị Tu Ðà Hườn hoàn toàn dính liền với giáo pháp, nhiệt tâm, hoan hỉ trong khi nghe chân pháp và có thể hiểu rõ giáo pháp thâm sâu mà người thường khó hiểu nổi. Khi nghe một bài pháp được thuyết giảng đúng cách, vị Tu Ðà Hườn tràn đầy hỉ lạc.

Và bởi vì vị Tu Ðà Hườn đã bước vào dòng suối, hay nhập lưu, tâm của vị Tu Ðà Hườn luôn luôn trú trong giáo pháp. Trong khi hành xử bổn phận của mình đối với thế gian, vị Tu Ðà Hườn như con bò mẹ đang ăn cỏ nhưng vẫn luôn luôn trông chừng chú bê con. Tâm của vị Tu Ðà Huờn hướng về giáo pháp nhưng các Ngài không quên trách nhiệm đối với thế gian. Vị Tu Ðà Hườn đạt được sự định tâm dễ dàng nếu các Ngài có sự Tinh tấn thích hợp trong lúc hành thiền với ước muốn tiến xa hơn trên chánh đạo.

Chiếc Xe Cho Mọi Người, Chiếc Xe Không Bao Giờ Hư Hỏng

Ðức Phật kết luận bài pháp bằng cách nói rõ ràng rằng bất kỳ ai biết điều khiển chiếc xe này đều đạt được kết quả, không phân biệt nam, nữ. Chiếc xe giải thoát này thích hợp cho tất cả mọi người.

thời đại văn minh tân tiến này, chúng ta có rất nhiều loại xe tân kỳ, và càng ngày càng có nhiều phát minh mới trong lãnh vực chuyển vận. Con người có thể du hành bằng đường bộ, đường thủy hay đường hàng không. Một người bình thường có thể đi vòng quanh thế giới một cách dễ dàng. Con người đã đi bộ trên mặt trăng. Phi thuyền đã đến những hành tinh khác và có thể vượt xa hơn.

Dầu cho phi thuyền có thể vượt qua không gian đi nữa, nhưng cũng không thể đưa bạn đến Niết Bàn. Nếu thật sự có chiếc xe đến được Niết Bàn thì tôi rất hân hoan có được một chiếc như vậy. Tuy nhiên, tôi chưa được nghe quảng cáo hay một lời bảo đảm nào về một chiếc xe kỳ diệu có thể đưa người đến Niết Bàn như vậy.

Dầu cho kỹ thuật khoa học có tiến bộ đến đâu cũng không thể có được một phương tiện chuyên chở bảo đảm an toàn tuyệt đối. Tai nạn xảy ra thường xuyên trên đất liền, trên biển cả và trong không gian. Nhiều người đã chết vì các tai nạn này. Tôi không cho rằng các phương tiện chuyên chở đem lại lợi ích, nhưng tôi muốn nói rằng các phương tiện này vẫn chưa bảo đảm an toàn. Chỉ có chiếc xe Bát Chánh Ðạo mới bảo đảm an toàn một trăm phần trăm. Những chiếc xe tân tiến có tiêu chuẩn và sự an toàn cao, nếu giàu có, bạn có thể sắm một chiếc xe cực kỳ tối tân, chạy nhanh, êm ái thoải mái, và bạn có thể gắn thêm nhiều tiện nghi khác theo ý bạn. Nếu bạn không giàu, bạn có thể vay tiền hay thuê một chiếc xe limousine hoặc một chiếc xe thể thao trong một thời gian ngắn hoặc dùng các phương tiện chuyên chở công cộng. Và ngay cả khi bạn nghèo, bạn cũng có thể xin quá giang xe.

Tuy nhiên, không có một loại xe nào mà không có khuyết điểm, dầu đó là chiếc xe riêng của chính bạn. Bạn phải đổ xăng, phải bảo trì sửa chữa. Biết bao nhiêu công việc phải làm. Mọi chiếc xe, một ngày nào đó rồi cũng bị vứt bỏ. Càng xử dụng nhiều, xe càng mau đến nghĩa địa xe.

Cần phải sản xuất một chiếc xe đến Niết Bàn thật ưu mỹ và có tiêu chuẩn cao để chiếc xe này không bao giờ bị hư mòn. Nếu chiếc xe Niết Bàn được phổ biến để mọi người đều có một chiếc thì sẽ tốt đẹp biết bao. Thế gian này sẽ hoà bình an lạc. Chiếc xe này đưa ta đến một nơi tuyệt diệuvô giá. Niết Bàn không thể mua được dù bạn giàu đến đâu, cũng không thể thuê mướn được. Bạn phải tự tạo lấy để nó thuộc quyền sở hữu của bạn. Chiếc xe này chỉ hữu dụng khi bạn làm chủ nó.

Nhiều chiếc xe hơi được làm sẵn và được tung ra thị trường từ các hãng sản xuất. Nhưng chiếc xe dẫn đến Niết Bàn là chiếc xe tự chế. Bạn phải tự chế tạo chiếc xe này cho chính mình. Bạn phải có đức tin ngay từ lúc đầu là bạn sẽ đến Niết Bàn và bạn cũng phải tin tưởng vào con đường dẫn bạn đến đích nữa. Bạn phải có động cơ thúc đẩy, ước muốn chân thành, cương quyết đạt được mục tiêu; Nhưng chỉ có động cơ không thôi, bạn không thể đi xa. Bạn phải làm việc nữa. Phải hết sức Tinh tấn Chánh Niệm, bền chí kiên trì từ sát na này đến sát na khác để chánh định được gây dựngtrí tuệ bắt đầu nở hoa và chín muồi.

Nếu chiếc xe Bát Chánh Ðạo được sản xuất hàng loạt thì kỳ thú biết bao, nhưng không thể nào làm như thế được. Bởi vậy, bạn phải tự chế tạo lấy. Bạn phải có đức tin và ước muốn mạnh mẽ để đạt mục tiêu. Bạn phải chú tâm thực hành, chịu đựng khó khăn gian khổ, mệt mỏinỗ lực chiến đấu để hoàn thành chiếc xe. Bạn phải dùng Tinh tấn để giữ hai bánh xe lăn đều. Bạn phải dùng Chánh Niệm để tạo nên thùng xe. Bạn phải dùng hổ thẹnghê sợ tội lỗi gắn chặt ghế tựa lưng. Bạn phải huấn luyện cho tài xế lái xe thẳng hướng. Cuối cùng, sau khi qua nhiều tầng tuệ minh sát, bạn phải làm chủ chiếc xe Tu Ðà Huờn đạo. Khi chiếc xe trở thành của sở hữu của bạn, bạn sẽ đến Niết Bàn một cách êm thắm, dễ dàng.

Một khi chiếc xe Tu Ðà Hườn hoàn thành, nó sẽ không bao giờ bị giảm giá hay hư hỏng. Chiếc xe này khác hẳn những chiếc xe khác vì nó không cần xăng nhớt, dầu mỡ, và cũng chẳng cần sửa chữa hay thay thế bộ phận nào cả. Càng dùng lâu, chiếc xe càng trở nên ưu mỹ hơn. Xe không bao giờ bị tai nạn. Khi đi trên xe này, bạn được bảo đảm an toàn một trăm phần trăm.

Bao lâu còn sống trên thế gian này, chúng ta còn bị thăng trầm theo cuộc sống. Lúc êm đềm vui vẻ, khi đau khổ nhọc nhằn. Người làm chủ chiếc xe Tu Ðà Hườn sẽ lướt êm trên đường gập ghềnh và không quá phấn khích say mê khi đi trên đường bằng phẳng. Chiếc cổng dẫn đến khốn cùng đã đóng. Xe thẳng tiến đến Niết Bàn. Không thể dùng đủ ngôn từ để ca ngợi chiếc xe kỳ diệu này, nhưng chắc chắn rằng người nào hoàn thành và làm chủ chiếc xe này thì sẽ đạt được ước nguyện thanh cao của mình. Hãy nỗ lực Tinh tấn, đừng bao giờ chẩy lười nhụt chí trong việc chế tạo, lắp ráp chiếc xe an toàn kỳ diệu này.

Cổng Khốn Cùng Ðã Ðóng

Chiếc xe giáo pháp được Ðức Phật trưng bày lần đầu tiên trong bài pháp thuyết cho năm vị Kiều Trần Như tại vườn Lộc Giả cách nay trên hai ngàn năm trăm năm. Bài pháp này về sau được gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân.

Trước khi Ðức Phật xuất hiện, thế gian sống trong tăm tối, ngu muội, không biết gì đến Bát Chánh Ðạo. Nhiều nhà ẩn cư, đạo sĩ, triết gia, thông thái, mỗi người đều nắm giữ quan điểm, lý luận, tư tưởng, lý thuyết, học thuyết riêng về chân lý. Thời bấy giờ, một số lý thuyết gia cho rằng Niết Bànhạnh phúc của dục lạc ngũ trần. Bởi thế họ đắm chìm trong thú vui vật chất. Một số khác khinh bỉ thái độ này và phản ứng lại bằng chủ trương ép xác khổ hạnh, không cho thân thể hưởng thụ các dục lạc và xem sự ép xác khổ hạnhnỗ lực thánh thiện. Nói chung, chúng sanh sống trong mê muội. Họ không đến gần chân lý. Bởi thế, sự tin tưởng và hành động của họ có tính cách võ đoán. Mỗi người có quan điểm, tư tưởng riêng, dựa vào đó họ làm rất nhiều chuyện khác nhau.

Ðức Phật từ bỏ cả hai, lợi dưỡngkhổ hạnh. Ðạo của Ngài là trung đạo, không nghiêng về một thái cực nào. Ngài trình bày Bát Chánh Ðạo khiến chúng sanhđức tin chân chánh. Ðức tin chân chánh phát sinh vì chân lý đã được hiển bày. Ðây là loại đức tin dựa trên chân lý thực tại chứ không phải chỉ là những lý thuyết, tư tưởng suông phát sinh từ ý niệm vô căn cứ. Ðức tin có một ảnh hưởng lớn lao đối với tâm. Bởi thế, Ðức tin là một trong Ngũ căn. Nhờ có đức tin mới có Tinh tấn. Ðức tin làm khởi sinh độngthực hànhtrở thành căn bản của mọi pháp khác như Niệm, Ðịnh và Huệ. Lúc giảng dạy Bát Chánh Ðạo lần đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như, Ðức Phật đã nói đến sự quan trọng của ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, huệ. Những lời dạy của Ngài kích động tâm chúng sanh, và nhờ thế, chân tự dohạnh phúc đến trong tầm tay của họ.

Cầu mong các bạn có được một đức tin chân thànhthâm sâu vào pháp hành thiền. Ước mong đây là bước căn bản giúp các bạn đạt được mục tiêu tối hậu giải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25462)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37752)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19423)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18493)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14068)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 19921)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9414)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14210)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35351)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10564)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19536)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23064)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13269)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10643)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20044)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10505)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9856)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14750)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17494)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17458)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13039)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 30955)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25489)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13879)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17381)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10872)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12170)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10364)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12150)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11637)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9531)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12227)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9072)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8373)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9863)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9667)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 11887)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14253)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9816)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11112)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8217)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10884)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 13914)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9822)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15044)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 12890)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 22868)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23732)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12443)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15275)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17601)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 14887)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16414)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 15864)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17376)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11498)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11535)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17662)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10644)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10441)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11211)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 11990)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 10942)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36274)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8865)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9547)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34547)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17117)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10126)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10357)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12108)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13492)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14510)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9064)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24600)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11533)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10227)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15786)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15413)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14409)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12916)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12353)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14414)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18204)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9493)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18372)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18435)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18881)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18657)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11728)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13237)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47869)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 10983)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13438)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 12925)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 10956)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12430)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 10978)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31644)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11587)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant