Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Dạy Thiết yếu của các Đạo sư Kadampa

14 Tháng Tám 201200:00(Xem: 21687)
Lời Dạy Thiết yếu của các Đạo sư Kadampa

LỜI DẠY THIẾT YẾU CỦA CÁC ĐẠO SƯ KADAMPA

Dịch từ tiếng Tây Tạng dưới sự hướng dẫn của Geshe Wangyal
Lời Dạy Thiết yếu của các Đạo sư Kadampa
rút ra từ “Cánh cửa Giải thoát” của Geshe Wangyal
(Thanh Liên dịch sang Việt ngữ)


Lời Giới thiệu

Truyền thống Kadampa của Phật giáo Tây Tạng xuất hiện trong thế kỷ mười một vô cùng tích cựcsáng tạo. Trường phái này do Đạo sư Ấn Độ Atisha (982-1054) sáng lập. Ngài đến Tây Tạng năm 1042. Mặc dù trường phái này không tồn tại thật bền vững như một truyền thống độc lập, nó đã thâm nhập vào các trường phái khác và vì thế để lại một ảnh hưởng lâu dài.

Bản văn ngắn được trình bày ở đây là một tuyển tập các cuộc đối thoại, lời chỉ dạy, và những quán chiếu của một vài nhân vật chính yếu trong truyền thống Kadampa, trong đó có Đức Atisha và Geshe Drom, đệ tử lỗi lạc người Tây Tạng của ngài. Những châm ngôn này là đặc trưng của phái Kadampa khi nhấn mạnh vào những nội quán căn bản của Phật giáo như một nền tảng cho toàn bộ con đường Phật giáo dẫn đến giác ngộ.

Giáo lý của các Đạo sư Kadampa được chú ý bởi sự thẳng thắn, tính chất đơn giản hầu như không khoan nhượng của nó. Các Đạo sư này liên tục buộc chúng ta phải đương đầu với những sự thật căn bản của sự hiện hữu của ta và thách thức ta chấp nhận một đáp ứng thực tiễn và đầy ý nghĩa với những sự thật đó. Các ngài liên tục lưu ý chúng ta rằng giống như cuộc đời chúng ta trong thế giới, việc tự lừa dối mình rất có thể xảy ra trên con đường tâm linh. Để tránh những cạm bẫy như thế, ta phải thường xuyên chánh niệm về các động lực, mục đích, hứa nguyện thâm sâu, và quan trọng nhất, cái chết của ta.

Dưới sự hướng dẫn của Geshe Wangyal, Lạt ma người Mông Cổ, bản văn này được các đệ tử người Mỹ của ngài dịch sang Anh ngữ lần đầu tiên. Nó được xuất bản như một phần của tuyển tập các tác phẩm Phật giáo Tây Tạng có tựa đề Cánh cửa Giải thoát vào năm 1975. Bản văn được trình bày ở đây bao gồm khoảng một nửa của nguyên bản.

Stephen Batchelor 

 

1. Lời Chỉ dạy của Đức Atisha

duc_atisha__982-1054

Đức Atisha (982-1054)


một lần các đệ tử hỏi ngài Atisha: “Giáo lý tối thượng của con đường tu tập là gì?” Đức Atisha trả lời:

“Thiện xảo tối thượng nằm trong việc nhận ra tính chất vô ngã.

Cao quý tối thượng nằm trong việc điều phục tâm bạn.

Hoàn hảo tối thượng ở trong tâm cố gắng giúp đỡ người khác.

Giáo huấn tối thượng là sự chánh niệm thường xuyên.

Phương thuốc tối thượnghiểu biết tính chất vô tự tánh của mọi sự.

Hoạt động tối thượng là không theo đuổi các mối bận tâm thế tục.

Thành tựu tối thượng là sự giảm thiểuchuyển hóa các đam mê.

Bố thí tối thượng được tìm thấy trong sự không tham luyến.

Trì giới tối thượng là một tâm thức an bình.

Nhẫn nhục tối thượng là sự khiêm tốn.

Tinh tấn tối thượngtừ bỏ sự dính mắc vào các hoạt động.

Thiền định tối thượngtâm không tự phụ, khoe khoang.

Trí tuệ tối thượng là không bám chấp vào bất kỳ điều gì khi nó xuất hiện.”

 

Lúc rời miền Tây xứ Nari, Đức Atisha ban lời khuyên dạy giã biệt sau đây cho tập hội đệ tử của ngài: “Các bằng hữu, trừ phi các con đã đạt được giác ngộ, con cần có một vị Thầy tâm linh: vì thế hãy tin tưởng vào vị Thầy tâm linh thánh thiện. Trừ phi con hoàn toàn nhận ra bản chất của tánh Không, con phải lắng nghe Giáo lý; vì thế hãy chăm chú lắng nghe giáo huấn của Đạo sư. Chỉ hiểu biết Giáo Pháp thì không đủ để giác ngộ, con phải thực hành liên tục.

“Hãy tránh xa những nơi chốn có hại cho việc thực hành của con; luôn luôn sống ở một nơi mang lại lợi lạc cho đức hạnh. Sự ồn ào huyên náo thì bất lợi trừ phi con đạt được một tâm thức kiên cố, hãy sống ở một nơi cô tịch. Hãy từ bỏ bạn hữu làm đam mê trói buộc của con tăng trưởng, hãy tin cậy vào những bằng hữu làm cho con tăng trưởng đức hạnh. Hãy lưu giữ điều này trong tâm. Công việc chẳng bao giờ chấm dứt, vì thế hãy hạn chế các hoạt động của con. Cả ngày lẫn đêm, hãy hồi hướng đức hạnh của con và luôn luôn chánh niệm.

“Một khi đã nhận được giáo huấn của Đạo sư, con nên luôn luôn thiền định về nó và hành động phù hợp với lời dạy của ngài. Khi con làm điều này với sự khiêm cung to lớn, kết quả của nó sẽ hiển lộ tức thời. Nếu con hành động phù hợp với Pháp từ tận đáy lòng, thực phẩm và những điều cần thiết sẽ đến một cách tự nhiên.

“Các bằng hữu, không có sự mãn nguyện trong những điều con khao khát. Nó giống như việc uống nước biển để thỏa mãn cơn khát. Vì thế, hãy hài lòng với những gì con có. Hãy tiêu diệt mọi hình thức của tánh khoe khoang, tự phụ và kiêu ngạo; hãy điều phụcan bình. Hãy từ bỏ tất cả những gì một số người gọi là đức hạnh nhưng thực rachướng ngại cho việc thực hành Pháp. Như chất nhầy trong mũi, hãy hỉ sạch các tư tưởng về thanh danhtán tụng, bởi chúng chỉ mang sự lọc lừa, dối gạt.

“Bởi hạnh phúc, lạc thú và bằng hữu con từng tích tập chỉ kéo dài trong chốc lát, hãy quay lưng lại với những điều ấy. Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.

 “Hãy bỏ đi sự khinh miệt và phản kháng người khác và phát triển lòng bi mẫn đối với tất cả những người thấp nhỏ hơn con. Đừng quá dính mắc vào các bằng hữu và đừng phân biệt đối xử với kẻ thù. Đừng ganh tị hay đố kị với những phẩm tính tốt đẹp của người khác, với sự khiêm tốn hãy áp dụng những phẩm tính tốt đẹp đó nơi bản thân. Chớ băn khoăn truy xét lỗi lầm của người khác mà hãy khảo sát lầm lỗi của chính con. Tẩy sạch các khiếm khuyết của con như thanh lọc máu dơ. Cũng không nên chú tâm vào đức hạnh của con: đúng hơn, hãy kính trọng các đức hạnh đó như một người phục vụ đã làm. Hãy trải rộng lòng từ ái đến tất cả chúng sinh như thể họ là con của con.

“Hãy luôn luôn có một gương mặt tươi tắn và một tâm thức thương yêu. Hãy nói năng trung thực và không giận dữ. Nếu con sắp nói những điều vô nghĩa, con sẽ phạm các lỗi lầm; vì thế hãy tiết chế việc nói năng. Nếu con làm nhiều điều vô nghĩa, thiện hạnh của con sẽ chấm dứt; hãy từ bỏ các hành động không có tính chất tâm linh. Thật vô ích khi nỗ lực trong những công việc không cần thiết. Bởi mọi điều xảy đến với con là nghiệp quả của con từ lâu xa về trước, các kết quả chẳng bao giờ đáp ứng được những khát khao trong hiện tại của con. Vì thế hãy an định.

“Than ôi! thà chết còn hơn là nhục mạ một bậc thánh thiện; vì thế con nên luôn luôn trung thực và không giả dối. Mọi sự khổ đau và hạnh phúc trong đời này đến từ nghiệp của đời này và những đời trước; chớ đổ lỗi cho người khác về mọi hoàn cảnh của con.

“Trừ phi con điều phục bản thân, con không thể điều phục người khác; vì thế, trước tiên hãy điều phục chính mình. Bởi con không thể làm thuần thục người khác nếu không có sự thấu thị, hãy hết sức nỗ lực để đạt được sự thấu thị.

“Chắc chắn là con sẽ chết, bỏ lại mọi của cải con từng thâu thập, vì thế hãy cẩn trọng, đừng tích tập sự ô nhiễm bởi việc thâu thập của cải. Bởi những lạc thú phóng dật không có thực chất, hãy tự trang điểm bằng đức hạnh của sự bố thí. Luôn luôn gìn giữ thực hành giới hạnh thanh tịnh bởi nó là điều tuyệt đẹp trong đời này và sự bảo đảm cho hạnh phúc trong những đời sau. Trong thời mạt pháp này, nơi hận thù quá sức lẫy lừng, hãy mặc áo giáp nhẫn nhục để hóa giải sân hận. Ta có mặt trong thế giới này là bởi năng lực của biếng lười; vì thế ta phải kích động sự tinh tấn như một ngọn lửa lớn để đạt được thành tựu; bây giờ là lúc để thiền định. Bởi con chịu sự tác động của các tà kiến, con không nhận ra bản chất của tánh Không. Hãy hăng hái tìm kiếm ý nghĩa của thực tại.

“Các bằng hữu, sinh tử luân hồi là một đầm lầy bao la trong đó không có hạnh phúc chân thực; hãy gấp rút đi tới nơi chốn giải thoát. Hãy thiền định về giáo huấn của Đạo sư và làm cạn khô con sông khổ đau sinh tử.

Hãy luôn luôn lưu giữ điều này trong tâm. Hãy nghe kỹ lời khuyên dạy này, nó không chỉ là ngôn từ mà đến thẳng từ trái tim ta. Nếu con tuân theo những giáo huấn này, con sẽ không chỉ làm ta hạnh phúc mà con cũng mang lại hạnh phúc cho bản thân con và những người khác. Mặc dù ta là kẻ ngu dốt, ta thôi thúc các con ghi nhớ những lời này.”

 

Khi Đức Atisha đang ở Yerpadrak gần Lhasa, ngài ban giáo huấn sau đây: “Các nam tử cao quý, hãy quán chiếu sâu xa những lời này. Trong thời mạt pháp cuộc đời thật ngắn ngủi và có nhiều điều để biết. Thọ mạng của các con không xác định được; các con không biết mình sẽ sống bao lâu. Vì thế giờ đây các con phải hết sức nỗ lực để hoàn thành những khát khao đúng đắn của mình.

“Đừng tự cho mình là một tu sĩ nếu con thâu đạt những điều cần thiết của đời sống theo cách của một cư sĩ. Mặc dù sống trong tu viện và đã từ bỏ những hoạt động thế gian, nếu con buồn phiền về những gì con đã từ bỏ, con không có quyền cho rằng ‘tôi là tu sĩ sống trong tu viện.’ Nếu tâm con vẫn cứ khát khao những vật dụng đẹp đẽ và vẫn sinh khởi những niệm tưởng ác hại thì đừng cho rằng ‘tôi là tu sĩ sống trong tu viện.’ Nếu con vẫn lang thang đây đó với người thế tụclãng phí thời giờ trong những cuộc trò chuyện tầm thường vô nghĩa với người chung quanh, mặc dù con đang sống trong một tu viện, đừng cho rằng ‘tôi là tu sĩ sống trong tu viện.’ Nếu con không nhẫn nại và cứ hẹp hòi, nếu thậm chí con không thể làm lợi lạc chút nào cho người khác, đừng cho rằng ‘tôi là tu sĩ-Bồ Tát.’

Nếu con nói như thế với những người thế tục, con là kẻ dối láo vĩ đại. Con có thể thành công khi nói những điều như thế. Tuy nhiên con không thể dối gạt những bậc có nhãn kiến thấu thị siêu phàm, con cũng không thể lừa dối những bậc có Pháp nhãn toàn tri. Con cũng không thể lừa dối chính mình, bởi nghiệp quả sẽ theo sau con.

“Điều thiết yếu để sống trong tu việntừ bỏ những cách sống thế tục và sự dính mắc vào bằng hữu và thân quyến. Bằng cách từ bỏ những điều này, con đang giải thoát khỏi mọi nguyên nhân cho sự dính mắc và tham muốn. Từ nay trở đi, con phải tìm kiếm tâm giác ngộ cao quý. Con không nên để cho sự dính mắc với những mối quan tâm thế tục trước đây xuất hiện, dù chỉ trong chốc lát. Trước đây con đã không thực hành Pháp một cách đúng đắn, và tác động của những tập quán trong quá khứ khiến năng lực của con suy yếu, con đã thường xuyên sinh khởi những niệm tưởng của một người thế tục. Bởi những niệm tưởng như thế rất trội vượt, trừ phi con sử dụng những cách đối trị mạnh mẽ, chẳng ích lợi gì khi sống trong tu viện. Con chẳng khác gì những con chim và thú hoang sống ở đó.

“Tóm lại, việc sống trong tu viện sẽ không lợi lạc nếu con không bỏ đi sự dính mắc đối với những vật dụng đẹp đẽ và không từ bỏ những hoạt động của đời này. Bởi nếu con không chặt đứt những khuynh hướng ấy, nghĩ rằng con có thể làm việc để đạt được những mục đích của đời này và những đời sau, con sẽ chẳng thực hiện được điều gì ngoài thực hành tôn giáo không cần thiết. Loại thực hành này chỉ là thực hành tự phụ và đạo đức giả được làm vì sự lợi lạc vị kỷ.

“Vì thế, con nên luôn luôn tìm kiếm các thiện tri thức và tránh xa bè bạn xấu. Đừng sống cố định ở một nơi hay thâu thập nhiều thứ. Dù làm gì, hãy làm trong sự hòa hợp với Pháp. Hãy để cho mọi điều con làm trở thành một phương thuốc chữa lành sự trói buộc. Đây là thực hành tôn giáo thực sự; hãy hết sức tinh tấn để làm điều này. Khi kiến thức của con tăng trưởng, đừng bị quỷ ma kiêu ngạo ám chướng.

“Hãy sống ở một nơi cô tịch, điều phục bản thân. Ít tham muốn và hãy hài lòng với những gì mình có. Đừng vui thích với sự hiểu biết của mình mà cũng không tìm kiếm lỗi lầm của người khác. Đừng sợ hãi hay lo lắng. Hãy có thiện chí và không thành kiến. Tập trung vào Pháp khi bị xao lãng bởi những tư tưởng tà vạy.

“Hãy khiêm tốn, và nếu con bị thất bại, chấp nhận nó một cách thanh nhã. Hãy bỏ đi tánh khoe khoang; từ bỏ tham muốn. Luôn luôn phát triển tâm bi mẫn. Dù làm gì, hãy làm trong sự điều độ. Hãy dễ dàng hài lòng và dễ dàng chấp nhận. Hãy chạy trốn như một con thú hoang thoát khỏi những cạm bẫy.

“Nếu không từ bỏ hiện hữu thế tục, đừng nói con là người thánh thiện.

Nếu không từ bỏ đất đai và nông nghiệp, đừng nói con đã gia nhập Tăng đoàn.

Nếu không từ bỏ tham muốn, đừng nói rằng con là một tu sĩ.

Nếu khônglòng từ và bi, đừng nói con là một Bồ Tát.

Nếu không từ bỏ hoạt động, đừng nói con là một thiền giả vĩ đại.

Đừng ấp ủ các dục vọng của con.

Tóm lại, khi con sống trong một tu viện, hãy ít tham dự vào các hoạt động và chỉ thiền định về Pháp.

Đừng tạo nguyên nhân cho sự ân hận khi cái chết đến.”

Một lần khác, Đức Atisha nói: “Thời mạt pháp không phải là lúc để phô bày khả năng của con; đó là lúc để kiên trì chịu đựng gian khổ. Đó không phải là lúc để nương tựa vào những người phục vụ, mà là lúc để nương cậy nơi cô tịch. Cũng không phải là lúc để điều phục các đệ tử; đó là lúc để điều phục chính mình. Đó không phải là lúc chỉ nghe những ngôn từ, mà là lúc để suy niệm ý nghĩa của chúng. Cũng không phải là lúc để viếng thăm đây đó mà là lúc để sống một mình.”

 

 2. Lời dạy của các Đạo sư Khác


geshe_dromtonpa__1005-1064

Geshe Dromtonpa (1005-1064)

Có lần, một người hỏi Geshe Drom: “Giúp đỡ chúng sinh bằng phương tiện giáo lý hay thực hành ở một nơi cô tịch, điều nào quan trọng hơn?”

Đạo sư trả lời: “Những người sơ học không có sự nội chứng thì không thể giúp đỡ chúng sinh bằng giáo lý. Gia hộ của họ giống như việc rót ra từ một chiếc bình trống không – sẽ chẳng có gì được rót ra từ đó. Lời chỉ dạy của họ giống như bia chưa lên men – nó không có thực chất.

“Những người có hành vi đáng ngưỡng mộ chưa đạt được trí tuệ vững chắc thì không thể hành động để làm lợi ích chúng sinh. Gia hộ của họ giống như việc rót ra từ một chiếc bình đầy – khi nó làm đầy chiếc bình khác thì nó trống rỗng. Lời chỉ dạy của họ giống như một ngọn đèn bơ được cầm trong tay: nó có thể soi sáng những người khác, nhưng người cầm chiếc đèn thì vẫn ở trong bóng tối.

Tuy nhiên, khi họ đã đạt được các cấp độ của những bậc tôn quý, tất cả những gì họ làm sẽ mang lại lợi lạc cho chúng sinh. Sự gia hộ của các ngài như một chiếc bình kỳ diệu – mặc dù nó rót đầy vô số chiếc bình, tự nó không trống rỗng. Lời dạy của các ngài như một ngọn đèn bơ đặt trên một cái đế - nó soi sáng những người khác cũng như người đang cầm nó.

“Vì thế thời đại mạt pháp này không phải là lúc để người ta giúp đỡ chúng sinh trừ phi họ đã nuôi dưỡng lòng từ, bi và khao khát đạt được giác ngộ ở nơi cô tịch. Đó là lúc để canh chừng những đam mê trói buộc. Đó không phải là lúc đốn hạ cây thuốc thần diệu mà là lúc để vun trồng nó.”

Một hôm, khi một ông lão đang đi nhiễu quanh tu viện, Geshe Drom nói với ông: “Thưa ông, tôi rất vui khi thấy ông đi nhiễu, nhưng nếu ông thực hành Pháp thì chẳng phải tốt hơn sao?”

Suy nghĩ về điều này, ông lão nghĩ rằng tụng những bộ Kinh linh thánh thì có thể tốt hơn. Trong khi ông đang đọc Kinh trong sân chùa, Geshe Drom nói: “Tôi rất vui khi thấy ông tụng Kinh, nhưng nếu ông thực hành Pháp thì chẳng phải tốt hơn sao?”

Đến lúc này thì ông lão nghĩ rằng có lẽ ông nên thiền định. Ông ngồi tréo chân trên một chiếc nệm, đôi mắt khép hờ. Ngài Drom lại nói: “Tôi rất vui khi thấy ông thiền định, nhưng nếu ông thực hành Pháp thì chẳng phải tốt hơn sao?”

Hoàn toàn bối rối, ông lão hỏi: “Geshela, xin chỉ cho con nên làm gì để thực hành Pháp.”

Ngài Drom trả lời: “Hãy từ bỏ sự hấp dẫn của cuộc đời này. Hãy từ bỏ nó. Bởi nếu ông không từ bỏ hấp lực của cuộc đời này, mọi điều ông làm không phải là thực hành Pháp, bởi ông không siêu vượt những mối quan tâm thế tục. Một khi ông đã từ bỏ những tư tưởng quen thuộc của cuộc đời này và không còn bị xao lãng bởi những bận tâm thế tục, mọi điều ông làm sẽ thúc đẩy ông trên con đường giải thoát.”

Potowa hỏi Đạo sư Drom: “Sự khác biệt giữa Pháp và không phải là Pháp (phi-Pháp) là gì?”

“Điều gì đối nghịch với những đam mê trói buộc, điều đó là Pháp. Nếu không, không phải là Pháp. Nếu nó không phù hợp với người thế tục, đó là Pháp. Nếu nó phù hợp với người thế tục, đó không phải là Pháp. Nếu nó phù hợp với giáo lý của Đức Phật, đó là Pháp. Nếu nó không phù hợp, đó không phải là Pháp. Nếu tuân thủ triệt để, đó là Pháp. Nếu tuân thủ sơ sài, đó không phải là Pháp.”

Yerbay Shangtsun nói: “Khi ta khát khao giải thoát từ tận đáy lòng, bằng việc thường xuyên suy niệm về sự chắc chắn của cái chết, ta nên luôn luôn an trụ trong những tư tưởng và hành động đặt nền trên bốn phẩm tính của các đấng tôn quý.

“Bốn phẩm tính của các đấng tôn quý là: Hài lòng với pháp phục đơn giản, hài lòng với thực phẩm đạm bạc, hài lòng với nệm thiền tầm thường, và hài lòng với lương dược tối thiểu.

“Nói cách khác, bốn phẩm tính này là: không tham muốn, hài lòng, dễ chấp nhận, và dễ mãn nguyện. Không tham muốn là không bám luyến mọi của cải và không khao khát nhiều của cải hay những vật dụng tốt để duy trì bản thân. Hài lòngvui vẻ với những vật dụng tầm thường. Dễ chấp nhận có nghĩa là tồn tại với thực phẩm sơ sài và đạm bạc, một nệm thiền tầm thường, và y phục đơn giản. Dễ mãn nguyện có nghĩa là hài lòng với vật bố thí ít ỏi và sự biết ơn.

“Một người sống theo cách này được cho là an trú trong bốn phẩm tính của các bậc tôn quý, bởi toàn bộ thực hành Pháp của người ấy được hướng tới giác ngộ. Một người hoàn toàn bị thu hút bởi những tham muốn thế tục không an trụ trong bốn phẩm tính của các bậc tôn quý. Thay vào đó, người ấy được cho là đang an trú trong những phẩm tính của quỷ ma, bởi an trụ trong những hoạt động phi đạo đức là nguyên nhân của sự tái sinh trong những trạng thái thấp của luân hồi sinh tử.

“Nếu giờ đây ta không từ bỏ các tham muốn của đời này, ta sẽ lại bị tác động của sự tham luyến trong những đời sau. Để từ bỏ các tham muốn của cuộc đời này, cách đối trị hiệu quả nhất là thiền định liên tục về lẽ vô thường. Nếu bạn không thiền định về vô thường vào sáng sớm thì bạn sẽ có nhiều tham muốn vào buổi trưa.”

Một đệ tử cư sĩ hỏi Geshe Potowa: “Để thực sự thực hành Pháp, điều gì là quan trọng nhất?”

“Điều quan trọng nhất là thiền định về sự vô thường. Hãy thiền định về lẽ vô thường, về cái chết nhất định sẽ xảy đến; điều đó sẽ khiến cho bạn bắt đầu thực hành Pháp. Điều này sẽ tạo ra các điều kiện thúc đẩy bạn làm các thiện hạnh, sẽ trợ giúp bạn trong việc nhận ra tính chất bình đẳng của mọi sự trong bản tánh hiện hữu của chúng.

“Thiền định về sự vô thường cũng khiến cho bạn quyết định từ bỏ những lạc thú của cuộc đời này, điều đó sẽ tạo nên các điều kiện để bạn thoát khỏi mọi tham muốn thế tục, và như thế trợ giúp bạn đi vào con đường dẫn đến Niết bàn.

“Khi bạn đã thiền định về sự vô thường và có được một vài hiểu biết, bạn sẽ tìm kiếm Giáo Pháp. Điều này sẽ tạo các điều kiện cho việc thành tựu Giáo Pháp và như thế trợ giúp cho sự thành tựu tối hậu.

“Thiền định về sự vô thườngtìm ra một vài hiểu biết về nó cũng sẽ khiến cho bạn bắt đầu trang bị cho bản thân, điều đó sẽ tạo ra những điều kiện để bắt đầu thực hành tôn giáo. Điều này sẽ trợ giúp bạn trong việc làm quen với giai đoạn không trở lại (bất lai).”

Trong khi nói với một nhóm đệ tử, Geshe Chennawa nói: “Tóm lại, Giáo Pháp có thể được phân chia thành việc từ bỏ những ác hạnhthực hiện các thiện hạnh lợi lạc. Mọi giáo lý được bao gồm trong giáo huấn này.

“Để áp dụng giáo huấn này, cần nhất là phải có sự nhẫn nhục. Nếu bạn không nhẫn nhục và người nào đó làm hại bạn, bạn sẽ cảm thấy căm thù. Nếu hành động theo cảm xúc đó, bạn không thể dừng được việc thực hiện các ác hạnh, lại càng không thể mang lại lợi lạc cho người khác. Vì thế, nhẫn nhục rất cần thiết để bắt đầu thực hành tâm linh.

“Có bốn phương pháp để thiền định về sự nhẫn nhục: thiết lập mục tiêu cho mũi tên; lòng từ và bi, vị Thầy và đệ tử, thiền định về bản tánh của sự hiện hữu.

“Trước hết là việc thiết lập mục tiêu cho mũi tên; nếu bạn không lập một mục tiêu thì mũi tên không thể bắn trúng nó. Mũi tên tai họa tấn công trong đời này là bởi ta đã thiết lập một mục tiêu do ác nghiệp ta đã tích tập trong những đời trước. Nếu bạn thiết lập một mục tiêu là các hoạt động xấu xalời nói ganh ghét, nó sẽ bị những mũi tên trừng phạt tấn công. Ta tự lập ra các mục tiêu cho bản thân: hãy hiểu rằng các mũi tên đến từ các ác hạnh của ta và đừng giận dữ những người khác.

“Kế đó là thiền định về lòng từ và bi. Khi một người điên làm hại một người tỉnh, người tỉnh không nên đáp trả việc làm hại đó bằng cách đánh anh ta, mà nên nói: ‘Buồn thay!’ Kẻ làm hại bạn cũng điên cuồng, bị ám chướng bởi những đam mê mãnh liệt trói buộc. Hãy nghĩ ‘Buồn thay!’ và thiền định về lòng bi mẫn đối với người đó.

“Thiền định thứ ba về sự nhẫn nhụcthiền định về vị Thầy và đệ tử. Nếu không có vị Thầy truyền dạy giáo huấn thì không thể có sự chứng ngộ. Tương tự như vậy, nếu khôngkẻ thù làm hại bạn thì không thể có thực hành nhẫn nhục: vì thế bạn nên nhận ra rằng những người sỉ nhục bạn là các vị Thầy về sự nhẫn nhục. Hãy vui vẻ trước cơ hội này và tập trung vào việc đền đáp lòng tốt của họ. Khi thiền định rằng bạn là một đệ tử được giảng dạy sự nhẫn nhục, chớ có giận dữ.

“Thiền định về bản chất của sự hiện hữutánh Không, hãy suy niệm rằng cả ba phương diện của tai họa – người tạo ra tai họa, người nhận tai họa, và hành động tai họa – tất cả đều không có tự tánh. Bởi kẻ thù thực sự của bạn không có tự tánh, chớ giận dữ họ và hãy thiền định về sự nhẫn nhục.

Geshe Puchungwa nói: “Mặc dù ta đã có thân người cần thiết với những may mắnthuận lợi của nó, ta không có năng lực để sống ở đó – ta phải chết. Khi chết, ta không thể mang theo mình bất kỳ lạc thú hay ý niệm nào của cuộc đời này, giống như một cái cây rụng hết lá. Vào lúc đó mức độ hiểu biết, năng lực, và trí tuệ của các mục đích của ta sẽ hiển hiện rõ ràng. Khi ta vui vẻ đối diện cái chết và với sự trông đợi tràn đầy hoan hỉ, ta sẽ sáng suốt và mạnh mẽ: các mục đích của ta cao quý và ta sẽ đi vào cái chết một cách tỉnh táo. Nhưng nếu vào lúc đó thân tướng của Thần Chết và dấu hiệu khác biệt của những trạng thái tái sinh thấp xuất hiện, các mục đích của ta thật xuẩn ngốc và ta không có sự tự chủ.

“Phần lớn chúng ta đi theo con đường sai trái, cố gắng đáp ứng những tham muốn của đời này. Đức Phật toàn giác không bao giờ nói điều sai lạc. Tác giả các luận giảng không bao giờ nói điều sai lạc. Các thiện tri thức linh thánh không bao giờ nói điều sai lạc. Như thế làm cách nào chúng ta đi vào con đường sai trái? Đó là bởi những tham muốn của cuộc đời này. Vì thế ta nên luôn luôn suy niệm về cái chết, bởi khi nhớ tưởng về sự chắc chắn của cái chết, ta thấu hiểu sự cần thiết của việc không bám luyến cuộc đời này. Ta nên suy niệm về sự khiếm khuyết của toàn bộ sinh tử, bởi khi đó ta thấu hiểu sự cần thiết của việc không bám luyến vào nó. Bằng cách nhớ tưởng chúng sinh trong thiền định về lòng từ, bi và nguyện ước giải thoát, ta thấu hiểu sự cần thiết của việc không bám luyến các mục đích vị kỷ. Bằng cách nhớ tưởng sự vô ngã trong thiền định về sự trống không (tánh Không) của mọi sự, ta thấu hiểu sự cần thiết của việc không bám luyến các đối tượng và thuộc tính.”

Geshe Nyugrumpa nói: “Bạn muốn được tái sinh làm người hay vị trời, và cũng muốn đạt được sự toàn giác, phải nghĩ rằng sinh tử như ngục tù. Bạn nên nhìn cuộc đờithân thể này như bọt nước, bạn xấu như kẻ thù, Đạo sư tâm linh như một viên ngọc như ý, những đam mê trói buộc như một con rắn độc, những hoạt động tội lỗi như thuốc độc mạnh, những khía cạnh của tham muốn như những viên than hồng trong một ngọn lửa, những lời ngọt ngào và tăm tiếng như tiếng vang, sự tôn kínhlợi lạc như cạm bẫy trói buộc, bạn xấu như bệnh truyền nhiễm, bạn tốt như cung điện tuyệt đẹpkiên cố, mọi chúng sinh như mẹ và cha của bạn. Bạn nên thấy rằng sự bố thí như con bò như ý, thực hành trì giới là một vật trang sức quý báu, nhẫn nhục là áo giáp chắc chắn, tinh tấn là ngựa trí tuệ như ý, thiền định là một kho tàng vĩ đại, và trí tuệ của việc lắng nghe, suy tưởngthiền định là một ngọn đèn sáng.”

Geshe Tolungpa nói: “Tận đáy lòng, nếu khát khao giải thoát, bạn phải đi theo một vị Thầy thánh thiện hơn là vị Thầy tài giỏi. Bạn phải theo những vị Thầy hiến mình cho giáo lý hơn là những người giải thích nó, những vị Thầy khiêm tốn hơn là những người có địa vị cao, những vị Thầy có niềm tin hơn là những vị nổi danh về sự thông minh. Nếu bạn không biết giáo lý, điều đó không có hại, nhưng sự bất hạnh sẽ xảy đến nếu bạn đi theo những vị có hành động trái nghịch với Giáo Pháp.”

Geshe Shabogaypa nói: “Bởi những tham muốn của đời này tạo nên mọi khổ đau trong đời này và những đời sau, ta chớ cố gắng đáp ứng những tham muốn của ta. Khi ta ráng sức đáp ứng những tham muốn, ta không hạnh phúc. Ta không biết chắc chắn về phương hướng của cuộc đời ta, và mọi lời nói tà vạy, tâm thức tà vạy và hành động tà vạy sẽ tức thời xuất đầu lộ diện.

“Vì thế ta phải ngoảnh mặt với những tham muốn của ta. Khi có thể làm điều này, ta thiết lập những khởi đầu cho hạnh phúclạc thú. Biểu hiện tốt nhất của hạnh phúc trong đời này và những đời sau là không tham muốn hay tích lũy bất kỳ điều gì. Khi ta không tham muốn lợi lạc, ta nhận được lợi lạc vĩ đại nhất. Khi ta không tham muốn thanh danh, ta có thanh danh lừng lẫy nhất. Khi ta không muốn nổi danh, ta sẽ có tiếng tăm vĩ đại nhất. Khi ta không tham muốn bầu bạn, ta có bằng hữu tuyệt vời nhất.

“Nếu chân thành thực hành Pháp, ta phải toàn tâm toàn ý phó mình cho cuộc đời của một hành khất, bởi hành khất là những người phó mặc thân mạng cho cái chết. Khi ta có thể tạo nên cảm xúc này, không có các vị Trời mà cũng chẳng có quỷ ma nào có thể chế ngự được ta. Nhưng khi ta đắm chìm trong những tham muốn của đời này, ta hạ thấp bản thân và khiến ta hoàn toàn khốn khổ. Ta khiến cho bản thân nhận chịu những chỉ trích trong đời này và tái sinh trong các trạng thái thấp trong những đời sau.

“Vì thế, khi không ước mong hạnh phúc của riêng mình, ta hạn chế việc chỉ trích người khác, khiêm cung, hạn chế dục vọng, và tránh mọi hoạt động thế tục, như thế ta sẽ đạt được giác ngộ trong tương lai.

Tóm lại, chúng ta luôn luôn bắt đầu những gì không cần bắt đầu, nhận thức những gì không cần nhận thức, làm những điều không nhất thiết phải làm. Dù ta nói tất cả những điều này, nếu ta không thực sự ngoảnh mặt với những tham muốn trong đời này, không có cách nào tìm được hạnh phúc trong hiện tại và những đời sau. Nếu ta ngoảnh mặt với mọi tham muốn, ta hoàn toàn không cần kiếm tìm hạnh phúc.

Cuối cùng, Geshe Shabogaypa chỉ trích mình thậm tệ:

“Mi, tên xuẩn ngốc già nua – mi muốn các giáo lý cao cấp, mặc dù bản chất của mi thấp thỏi.

Mi, tên bịp bợm – mi mong muốn hoàn thiện người khác, nhưng không hoàn thiện bản thân.

Mi, tên giả dối – mi hành động như thể Giáo Pháp chỉ để dành cho người khác tuân theo chứ không phải dành cho mi.

Mi, kẻ ngớ ngẩn – mi buộc người khác phải hành xử đúng đắn, nhưng bản thân mi lại hành động sai trái.

Mi, kẻ tồi tệ lười nhác – mỗi thành công đi trước một thất bại lớn hơn.

Mi, một nhà chính trị - mi hứa cho nhiều nhưng thực hành chẳng bao nhiêu.

Mi, kẻ bất lương – mi tìm kiếm những đam mê trói buộcđồng thời giả bộ áp dụng các biện pháp đối trị.

Mi, kẻ hèn nhát – mi sợ người khác nhận ra khiếm khuyết của mi và hy vọng là họ sẽ chỉ nhìn thấy nơi mi những phẩm tính tốt lành.

Mi dính mắc với thân quyến thay vì vun trồng các thiện tri thức. Mi dính mắc vào những đam mê trói buộc thay vì vun trồng những cách đối trị. Mi bỏ mặc việc thực hành cho tương lai thay vì vun trồngtrong đời này. Mi dính mắc với những người giúp đỡ mi hơn là vun trồng những người làm hại mi.

 

Mi, kẻ xuẩn ngốc – mi làm hại người khác, không biết là mi làm hại chính mình.

Mi không biết rằng giúp đỡ người khác là giúp đỡ bản thân.

Mi không nhận ra rằng khổ đau và tai họa đến với mi thì có lợi cho việc thực hành Pháp.

Mi không nhận ra rằng tham muốnhạnh phúc không có lợi cho việc thực hành Pháp.

Mi nói với người khác là việc thực hành Pháp vô cùng quan trọng, nhưng bản thân mi thì không tuân theo giáo lý.

Mi coi thường những người tội lỗi nhưng không chấm dứt tà hạnh của chính mi.

Mi nhìn thấy những lỗi lầm nhỏ bé nhất của người khác nhưng không nhận ra những khiếm khuyết to lớn nơi bản thân.

Mi nhanh chóng thôi giúp đỡ người khác khi không được đáp trả.

Mi không thể chịu đựng nổi khi thấy các vị Thầy khác được tôn kính.

Mi quỵ lụy những người có địa vị cao trong khi xem thường những người thấp kém hơn mi.

Việc nói về những đời sau không làm tai mi vui thích.

Mi hành xử thánh thiện và khinh khỉnh khi bị người khác trách mắng.

Mi muốn người khác nhìn thấy các đức hạnhhài lòng khi họ không nhận ra lỗi lầm của mi.

Mi hài lòng với một bề ngoài tốt đẹp trong khi những gì ở bên trong thì không tốt lành như thế.

Mi thích nhận được các tặng vật. Không tìm kiếm hạnh phúc ở trong mi, mi kiếm tìm nó ở bên ngoài. Khi đã nguyện học Phật pháp, thay vào đó mi học những công việc thế gian. Mặc dù mi bằng lòng với lời dạy của các Bồ Tát, hành động của mi đang chuẩn bị để mi đi xuống địa ngục. Dù đã hiến dâng thân thể, niềm vui, và những thiện hạnh trong quá khứ, hiện tại và tương lai của mi cho sự lợi lạc của tất cả chúng sinh, mi chối từ việc từ bỏ bản ngã. Mi yêu thích các bằng hữu tội lỗi, quên rằng họ dẫn đến sự hủy hoại. Mi không biết rằng một lời quở trách của thiện tri thức thì thật hữu ích.

Đừng phí thời giờ trong những tranh luận vô ích. Đừng xây lâu đài trong không khí, tăng trưởng những tham muốn của mi. Đừng vui thích những hoạt động nguy hiểm. Đừng làm những việc cản trở thiện hạnh một cách vô nghĩa.”

Cảm thấy xấu hổ, ngài đã tự quở trách mình theo cách này.

 

Nguyên tác: “Essential Advice of the Kadampa Masters
Translated from the Tibetan under guidance of Geshe Wangyal”
http://www.scribd.com/doc/20318818/Essential-Advice-of-the-Kadampa-Masters
Thanh Liên dịch sang Việt ngữ

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19304)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18416)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 15836)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29660)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25348)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21510)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17722)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20708)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26194)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33137)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 51890)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22732)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23303)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39425)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 22263)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6735)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22600)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69601)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 43837)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 22925)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 34843)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 43905)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42713)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44227)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24764)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24235)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39038)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39017)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17146)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17895)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19151)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35503)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24083)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19479)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20300)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18210)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 18864)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18845)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17392)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19195)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30636)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19082)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20376)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19410)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19641)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29635)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17734)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19287)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19766)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58579)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24317)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23378)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39610)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26570)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40602)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22776)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22781)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21473)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18507)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22483)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 20975)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19089)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20814)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20220)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30409)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20082)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17343)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16481)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16749)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14858)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14738)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22706)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 15940)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16100)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15144)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 25905)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17043)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15649)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19632)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17550)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14573)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14633)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19010)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 14988)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 32882)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17315)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 18971)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21646)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 22789)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16513)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16338)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16323)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22807)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26216)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12540)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29332)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27530)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25726)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18339)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15471)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant