Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lời Dạy Thiết yếu của các Đạo sư Kadampa

14 Tháng Tám 201200:00(Xem: 21753)
Lời Dạy Thiết yếu của các Đạo sư Kadampa

LỜI DẠY THIẾT YẾU CỦA CÁC ĐẠO SƯ KADAMPA

Dịch từ tiếng Tây Tạng dưới sự hướng dẫn của Geshe Wangyal
Lời Dạy Thiết yếu của các Đạo sư Kadampa
rút ra từ “Cánh cửa Giải thoát” của Geshe Wangyal
(Thanh Liên dịch sang Việt ngữ)


Lời Giới thiệu

Truyền thống Kadampa của Phật giáo Tây Tạng xuất hiện trong thế kỷ mười một vô cùng tích cựcsáng tạo. Trường phái này do Đạo sư Ấn Độ Atisha (982-1054) sáng lập. Ngài đến Tây Tạng năm 1042. Mặc dù trường phái này không tồn tại thật bền vững như một truyền thống độc lập, nó đã thâm nhập vào các trường phái khác và vì thế để lại một ảnh hưởng lâu dài.

Bản văn ngắn được trình bày ở đây là một tuyển tập các cuộc đối thoại, lời chỉ dạy, và những quán chiếu của một vài nhân vật chính yếu trong truyền thống Kadampa, trong đó có Đức Atisha và Geshe Drom, đệ tử lỗi lạc người Tây Tạng của ngài. Những châm ngôn này là đặc trưng của phái Kadampa khi nhấn mạnh vào những nội quán căn bản của Phật giáo như một nền tảng cho toàn bộ con đường Phật giáo dẫn đến giác ngộ.

Giáo lý của các Đạo sư Kadampa được chú ý bởi sự thẳng thắn, tính chất đơn giản hầu như không khoan nhượng của nó. Các Đạo sư này liên tục buộc chúng ta phải đương đầu với những sự thật căn bản của sự hiện hữu của ta và thách thức ta chấp nhận một đáp ứng thực tiễn và đầy ý nghĩa với những sự thật đó. Các ngài liên tục lưu ý chúng ta rằng giống như cuộc đời chúng ta trong thế giới, việc tự lừa dối mình rất có thể xảy ra trên con đường tâm linh. Để tránh những cạm bẫy như thế, ta phải thường xuyên chánh niệm về các động lực, mục đích, hứa nguyện thâm sâu, và quan trọng nhất, cái chết của ta.

Dưới sự hướng dẫn của Geshe Wangyal, Lạt ma người Mông Cổ, bản văn này được các đệ tử người Mỹ của ngài dịch sang Anh ngữ lần đầu tiên. Nó được xuất bản như một phần của tuyển tập các tác phẩm Phật giáo Tây Tạng có tựa đề Cánh cửa Giải thoát vào năm 1975. Bản văn được trình bày ở đây bao gồm khoảng một nửa của nguyên bản.

Stephen Batchelor 

 

1. Lời Chỉ dạy của Đức Atisha

duc_atisha__982-1054

Đức Atisha (982-1054)


một lần các đệ tử hỏi ngài Atisha: “Giáo lý tối thượng của con đường tu tập là gì?” Đức Atisha trả lời:

“Thiện xảo tối thượng nằm trong việc nhận ra tính chất vô ngã.

Cao quý tối thượng nằm trong việc điều phục tâm bạn.

Hoàn hảo tối thượng ở trong tâm cố gắng giúp đỡ người khác.

Giáo huấn tối thượng là sự chánh niệm thường xuyên.

Phương thuốc tối thượnghiểu biết tính chất vô tự tánh của mọi sự.

Hoạt động tối thượng là không theo đuổi các mối bận tâm thế tục.

Thành tựu tối thượng là sự giảm thiểuchuyển hóa các đam mê.

Bố thí tối thượng được tìm thấy trong sự không tham luyến.

Trì giới tối thượng là một tâm thức an bình.

Nhẫn nhục tối thượng là sự khiêm tốn.

Tinh tấn tối thượngtừ bỏ sự dính mắc vào các hoạt động.

Thiền định tối thượngtâm không tự phụ, khoe khoang.

Trí tuệ tối thượng là không bám chấp vào bất kỳ điều gì khi nó xuất hiện.”

 

Lúc rời miền Tây xứ Nari, Đức Atisha ban lời khuyên dạy giã biệt sau đây cho tập hội đệ tử của ngài: “Các bằng hữu, trừ phi các con đã đạt được giác ngộ, con cần có một vị Thầy tâm linh: vì thế hãy tin tưởng vào vị Thầy tâm linh thánh thiện. Trừ phi con hoàn toàn nhận ra bản chất của tánh Không, con phải lắng nghe Giáo lý; vì thế hãy chăm chú lắng nghe giáo huấn của Đạo sư. Chỉ hiểu biết Giáo Pháp thì không đủ để giác ngộ, con phải thực hành liên tục.

“Hãy tránh xa những nơi chốn có hại cho việc thực hành của con; luôn luôn sống ở một nơi mang lại lợi lạc cho đức hạnh. Sự ồn ào huyên náo thì bất lợi trừ phi con đạt được một tâm thức kiên cố, hãy sống ở một nơi cô tịch. Hãy từ bỏ bạn hữu làm đam mê trói buộc của con tăng trưởng, hãy tin cậy vào những bằng hữu làm cho con tăng trưởng đức hạnh. Hãy lưu giữ điều này trong tâm. Công việc chẳng bao giờ chấm dứt, vì thế hãy hạn chế các hoạt động của con. Cả ngày lẫn đêm, hãy hồi hướng đức hạnh của con và luôn luôn chánh niệm.

“Một khi đã nhận được giáo huấn của Đạo sư, con nên luôn luôn thiền định về nó và hành động phù hợp với lời dạy của ngài. Khi con làm điều này với sự khiêm cung to lớn, kết quả của nó sẽ hiển lộ tức thời. Nếu con hành động phù hợp với Pháp từ tận đáy lòng, thực phẩm và những điều cần thiết sẽ đến một cách tự nhiên.

“Các bằng hữu, không có sự mãn nguyện trong những điều con khao khát. Nó giống như việc uống nước biển để thỏa mãn cơn khát. Vì thế, hãy hài lòng với những gì con có. Hãy tiêu diệt mọi hình thức của tánh khoe khoang, tự phụ và kiêu ngạo; hãy điều phụcan bình. Hãy từ bỏ tất cả những gì một số người gọi là đức hạnh nhưng thực rachướng ngại cho việc thực hành Pháp. Như chất nhầy trong mũi, hãy hỉ sạch các tư tưởng về thanh danhtán tụng, bởi chúng chỉ mang sự lọc lừa, dối gạt.

“Bởi hạnh phúc, lạc thú và bằng hữu con từng tích tập chỉ kéo dài trong chốc lát, hãy quay lưng lại với những điều ấy. Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.

 “Hãy bỏ đi sự khinh miệt và phản kháng người khác và phát triển lòng bi mẫn đối với tất cả những người thấp nhỏ hơn con. Đừng quá dính mắc vào các bằng hữu và đừng phân biệt đối xử với kẻ thù. Đừng ganh tị hay đố kị với những phẩm tính tốt đẹp của người khác, với sự khiêm tốn hãy áp dụng những phẩm tính tốt đẹp đó nơi bản thân. Chớ băn khoăn truy xét lỗi lầm của người khác mà hãy khảo sát lầm lỗi của chính con. Tẩy sạch các khiếm khuyết của con như thanh lọc máu dơ. Cũng không nên chú tâm vào đức hạnh của con: đúng hơn, hãy kính trọng các đức hạnh đó như một người phục vụ đã làm. Hãy trải rộng lòng từ ái đến tất cả chúng sinh như thể họ là con của con.

“Hãy luôn luôn có một gương mặt tươi tắn và một tâm thức thương yêu. Hãy nói năng trung thực và không giận dữ. Nếu con sắp nói những điều vô nghĩa, con sẽ phạm các lỗi lầm; vì thế hãy tiết chế việc nói năng. Nếu con làm nhiều điều vô nghĩa, thiện hạnh của con sẽ chấm dứt; hãy từ bỏ các hành động không có tính chất tâm linh. Thật vô ích khi nỗ lực trong những công việc không cần thiết. Bởi mọi điều xảy đến với con là nghiệp quả của con từ lâu xa về trước, các kết quả chẳng bao giờ đáp ứng được những khát khao trong hiện tại của con. Vì thế hãy an định.

“Than ôi! thà chết còn hơn là nhục mạ một bậc thánh thiện; vì thế con nên luôn luôn trung thực và không giả dối. Mọi sự khổ đau và hạnh phúc trong đời này đến từ nghiệp của đời này và những đời trước; chớ đổ lỗi cho người khác về mọi hoàn cảnh của con.

“Trừ phi con điều phục bản thân, con không thể điều phục người khác; vì thế, trước tiên hãy điều phục chính mình. Bởi con không thể làm thuần thục người khác nếu không có sự thấu thị, hãy hết sức nỗ lực để đạt được sự thấu thị.

“Chắc chắn là con sẽ chết, bỏ lại mọi của cải con từng thâu thập, vì thế hãy cẩn trọng, đừng tích tập sự ô nhiễm bởi việc thâu thập của cải. Bởi những lạc thú phóng dật không có thực chất, hãy tự trang điểm bằng đức hạnh của sự bố thí. Luôn luôn gìn giữ thực hành giới hạnh thanh tịnh bởi nó là điều tuyệt đẹp trong đời này và sự bảo đảm cho hạnh phúc trong những đời sau. Trong thời mạt pháp này, nơi hận thù quá sức lẫy lừng, hãy mặc áo giáp nhẫn nhục để hóa giải sân hận. Ta có mặt trong thế giới này là bởi năng lực của biếng lười; vì thế ta phải kích động sự tinh tấn như một ngọn lửa lớn để đạt được thành tựu; bây giờ là lúc để thiền định. Bởi con chịu sự tác động của các tà kiến, con không nhận ra bản chất của tánh Không. Hãy hăng hái tìm kiếm ý nghĩa của thực tại.

“Các bằng hữu, sinh tử luân hồi là một đầm lầy bao la trong đó không có hạnh phúc chân thực; hãy gấp rút đi tới nơi chốn giải thoát. Hãy thiền định về giáo huấn của Đạo sư và làm cạn khô con sông khổ đau sinh tử.

Hãy luôn luôn lưu giữ điều này trong tâm. Hãy nghe kỹ lời khuyên dạy này, nó không chỉ là ngôn từ mà đến thẳng từ trái tim ta. Nếu con tuân theo những giáo huấn này, con sẽ không chỉ làm ta hạnh phúc mà con cũng mang lại hạnh phúc cho bản thân con và những người khác. Mặc dù ta là kẻ ngu dốt, ta thôi thúc các con ghi nhớ những lời này.”

 

Khi Đức Atisha đang ở Yerpadrak gần Lhasa, ngài ban giáo huấn sau đây: “Các nam tử cao quý, hãy quán chiếu sâu xa những lời này. Trong thời mạt pháp cuộc đời thật ngắn ngủi và có nhiều điều để biết. Thọ mạng của các con không xác định được; các con không biết mình sẽ sống bao lâu. Vì thế giờ đây các con phải hết sức nỗ lực để hoàn thành những khát khao đúng đắn của mình.

“Đừng tự cho mình là một tu sĩ nếu con thâu đạt những điều cần thiết của đời sống theo cách của một cư sĩ. Mặc dù sống trong tu viện và đã từ bỏ những hoạt động thế gian, nếu con buồn phiền về những gì con đã từ bỏ, con không có quyền cho rằng ‘tôi là tu sĩ sống trong tu viện.’ Nếu tâm con vẫn cứ khát khao những vật dụng đẹp đẽ và vẫn sinh khởi những niệm tưởng ác hại thì đừng cho rằng ‘tôi là tu sĩ sống trong tu viện.’ Nếu con vẫn lang thang đây đó với người thế tụclãng phí thời giờ trong những cuộc trò chuyện tầm thường vô nghĩa với người chung quanh, mặc dù con đang sống trong một tu viện, đừng cho rằng ‘tôi là tu sĩ sống trong tu viện.’ Nếu con không nhẫn nại và cứ hẹp hòi, nếu thậm chí con không thể làm lợi lạc chút nào cho người khác, đừng cho rằng ‘tôi là tu sĩ-Bồ Tát.’

Nếu con nói như thế với những người thế tục, con là kẻ dối láo vĩ đại. Con có thể thành công khi nói những điều như thế. Tuy nhiên con không thể dối gạt những bậc có nhãn kiến thấu thị siêu phàm, con cũng không thể lừa dối những bậc có Pháp nhãn toàn tri. Con cũng không thể lừa dối chính mình, bởi nghiệp quả sẽ theo sau con.

“Điều thiết yếu để sống trong tu việntừ bỏ những cách sống thế tục và sự dính mắc vào bằng hữu và thân quyến. Bằng cách từ bỏ những điều này, con đang giải thoát khỏi mọi nguyên nhân cho sự dính mắc và tham muốn. Từ nay trở đi, con phải tìm kiếm tâm giác ngộ cao quý. Con không nên để cho sự dính mắc với những mối quan tâm thế tục trước đây xuất hiện, dù chỉ trong chốc lát. Trước đây con đã không thực hành Pháp một cách đúng đắn, và tác động của những tập quán trong quá khứ khiến năng lực của con suy yếu, con đã thường xuyên sinh khởi những niệm tưởng của một người thế tục. Bởi những niệm tưởng như thế rất trội vượt, trừ phi con sử dụng những cách đối trị mạnh mẽ, chẳng ích lợi gì khi sống trong tu viện. Con chẳng khác gì những con chim và thú hoang sống ở đó.

“Tóm lại, việc sống trong tu viện sẽ không lợi lạc nếu con không bỏ đi sự dính mắc đối với những vật dụng đẹp đẽ và không từ bỏ những hoạt động của đời này. Bởi nếu con không chặt đứt những khuynh hướng ấy, nghĩ rằng con có thể làm việc để đạt được những mục đích của đời này và những đời sau, con sẽ chẳng thực hiện được điều gì ngoài thực hành tôn giáo không cần thiết. Loại thực hành này chỉ là thực hành tự phụ và đạo đức giả được làm vì sự lợi lạc vị kỷ.

“Vì thế, con nên luôn luôn tìm kiếm các thiện tri thức và tránh xa bè bạn xấu. Đừng sống cố định ở một nơi hay thâu thập nhiều thứ. Dù làm gì, hãy làm trong sự hòa hợp với Pháp. Hãy để cho mọi điều con làm trở thành một phương thuốc chữa lành sự trói buộc. Đây là thực hành tôn giáo thực sự; hãy hết sức tinh tấn để làm điều này. Khi kiến thức của con tăng trưởng, đừng bị quỷ ma kiêu ngạo ám chướng.

“Hãy sống ở một nơi cô tịch, điều phục bản thân. Ít tham muốn và hãy hài lòng với những gì mình có. Đừng vui thích với sự hiểu biết của mình mà cũng không tìm kiếm lỗi lầm của người khác. Đừng sợ hãi hay lo lắng. Hãy có thiện chí và không thành kiến. Tập trung vào Pháp khi bị xao lãng bởi những tư tưởng tà vạy.

“Hãy khiêm tốn, và nếu con bị thất bại, chấp nhận nó một cách thanh nhã. Hãy bỏ đi tánh khoe khoang; từ bỏ tham muốn. Luôn luôn phát triển tâm bi mẫn. Dù làm gì, hãy làm trong sự điều độ. Hãy dễ dàng hài lòng và dễ dàng chấp nhận. Hãy chạy trốn như một con thú hoang thoát khỏi những cạm bẫy.

“Nếu không từ bỏ hiện hữu thế tục, đừng nói con là người thánh thiện.

Nếu không từ bỏ đất đai và nông nghiệp, đừng nói con đã gia nhập Tăng đoàn.

Nếu không từ bỏ tham muốn, đừng nói rằng con là một tu sĩ.

Nếu khônglòng từ và bi, đừng nói con là một Bồ Tát.

Nếu không từ bỏ hoạt động, đừng nói con là một thiền giả vĩ đại.

Đừng ấp ủ các dục vọng của con.

Tóm lại, khi con sống trong một tu viện, hãy ít tham dự vào các hoạt động và chỉ thiền định về Pháp.

Đừng tạo nguyên nhân cho sự ân hận khi cái chết đến.”

Một lần khác, Đức Atisha nói: “Thời mạt pháp không phải là lúc để phô bày khả năng của con; đó là lúc để kiên trì chịu đựng gian khổ. Đó không phải là lúc để nương tựa vào những người phục vụ, mà là lúc để nương cậy nơi cô tịch. Cũng không phải là lúc để điều phục các đệ tử; đó là lúc để điều phục chính mình. Đó không phải là lúc chỉ nghe những ngôn từ, mà là lúc để suy niệm ý nghĩa của chúng. Cũng không phải là lúc để viếng thăm đây đó mà là lúc để sống một mình.”

 

 2. Lời dạy của các Đạo sư Khác


geshe_dromtonpa__1005-1064

Geshe Dromtonpa (1005-1064)

Có lần, một người hỏi Geshe Drom: “Giúp đỡ chúng sinh bằng phương tiện giáo lý hay thực hành ở một nơi cô tịch, điều nào quan trọng hơn?”

Đạo sư trả lời: “Những người sơ học không có sự nội chứng thì không thể giúp đỡ chúng sinh bằng giáo lý. Gia hộ của họ giống như việc rót ra từ một chiếc bình trống không – sẽ chẳng có gì được rót ra từ đó. Lời chỉ dạy của họ giống như bia chưa lên men – nó không có thực chất.

“Những người có hành vi đáng ngưỡng mộ chưa đạt được trí tuệ vững chắc thì không thể hành động để làm lợi ích chúng sinh. Gia hộ của họ giống như việc rót ra từ một chiếc bình đầy – khi nó làm đầy chiếc bình khác thì nó trống rỗng. Lời chỉ dạy của họ giống như một ngọn đèn bơ được cầm trong tay: nó có thể soi sáng những người khác, nhưng người cầm chiếc đèn thì vẫn ở trong bóng tối.

Tuy nhiên, khi họ đã đạt được các cấp độ của những bậc tôn quý, tất cả những gì họ làm sẽ mang lại lợi lạc cho chúng sinh. Sự gia hộ của các ngài như một chiếc bình kỳ diệu – mặc dù nó rót đầy vô số chiếc bình, tự nó không trống rỗng. Lời dạy của các ngài như một ngọn đèn bơ đặt trên một cái đế - nó soi sáng những người khác cũng như người đang cầm nó.

“Vì thế thời đại mạt pháp này không phải là lúc để người ta giúp đỡ chúng sinh trừ phi họ đã nuôi dưỡng lòng từ, bi và khao khát đạt được giác ngộ ở nơi cô tịch. Đó là lúc để canh chừng những đam mê trói buộc. Đó không phải là lúc đốn hạ cây thuốc thần diệu mà là lúc để vun trồng nó.”

Một hôm, khi một ông lão đang đi nhiễu quanh tu viện, Geshe Drom nói với ông: “Thưa ông, tôi rất vui khi thấy ông đi nhiễu, nhưng nếu ông thực hành Pháp thì chẳng phải tốt hơn sao?”

Suy nghĩ về điều này, ông lão nghĩ rằng tụng những bộ Kinh linh thánh thì có thể tốt hơn. Trong khi ông đang đọc Kinh trong sân chùa, Geshe Drom nói: “Tôi rất vui khi thấy ông tụng Kinh, nhưng nếu ông thực hành Pháp thì chẳng phải tốt hơn sao?”

Đến lúc này thì ông lão nghĩ rằng có lẽ ông nên thiền định. Ông ngồi tréo chân trên một chiếc nệm, đôi mắt khép hờ. Ngài Drom lại nói: “Tôi rất vui khi thấy ông thiền định, nhưng nếu ông thực hành Pháp thì chẳng phải tốt hơn sao?”

Hoàn toàn bối rối, ông lão hỏi: “Geshela, xin chỉ cho con nên làm gì để thực hành Pháp.”

Ngài Drom trả lời: “Hãy từ bỏ sự hấp dẫn của cuộc đời này. Hãy từ bỏ nó. Bởi nếu ông không từ bỏ hấp lực của cuộc đời này, mọi điều ông làm không phải là thực hành Pháp, bởi ông không siêu vượt những mối quan tâm thế tục. Một khi ông đã từ bỏ những tư tưởng quen thuộc của cuộc đời này và không còn bị xao lãng bởi những bận tâm thế tục, mọi điều ông làm sẽ thúc đẩy ông trên con đường giải thoát.”

Potowa hỏi Đạo sư Drom: “Sự khác biệt giữa Pháp và không phải là Pháp (phi-Pháp) là gì?”

“Điều gì đối nghịch với những đam mê trói buộc, điều đó là Pháp. Nếu không, không phải là Pháp. Nếu nó không phù hợp với người thế tục, đó là Pháp. Nếu nó phù hợp với người thế tục, đó không phải là Pháp. Nếu nó phù hợp với giáo lý của Đức Phật, đó là Pháp. Nếu nó không phù hợp, đó không phải là Pháp. Nếu tuân thủ triệt để, đó là Pháp. Nếu tuân thủ sơ sài, đó không phải là Pháp.”

Yerbay Shangtsun nói: “Khi ta khát khao giải thoát từ tận đáy lòng, bằng việc thường xuyên suy niệm về sự chắc chắn của cái chết, ta nên luôn luôn an trụ trong những tư tưởng và hành động đặt nền trên bốn phẩm tính của các đấng tôn quý.

“Bốn phẩm tính của các đấng tôn quý là: Hài lòng với pháp phục đơn giản, hài lòng với thực phẩm đạm bạc, hài lòng với nệm thiền tầm thường, và hài lòng với lương dược tối thiểu.

“Nói cách khác, bốn phẩm tính này là: không tham muốn, hài lòng, dễ chấp nhận, và dễ mãn nguyện. Không tham muốn là không bám luyến mọi của cải và không khao khát nhiều của cải hay những vật dụng tốt để duy trì bản thân. Hài lòngvui vẻ với những vật dụng tầm thường. Dễ chấp nhận có nghĩa là tồn tại với thực phẩm sơ sài và đạm bạc, một nệm thiền tầm thường, và y phục đơn giản. Dễ mãn nguyện có nghĩa là hài lòng với vật bố thí ít ỏi và sự biết ơn.

“Một người sống theo cách này được cho là an trú trong bốn phẩm tính của các bậc tôn quý, bởi toàn bộ thực hành Pháp của người ấy được hướng tới giác ngộ. Một người hoàn toàn bị thu hút bởi những tham muốn thế tục không an trụ trong bốn phẩm tính của các bậc tôn quý. Thay vào đó, người ấy được cho là đang an trú trong những phẩm tính của quỷ ma, bởi an trụ trong những hoạt động phi đạo đức là nguyên nhân của sự tái sinh trong những trạng thái thấp của luân hồi sinh tử.

“Nếu giờ đây ta không từ bỏ các tham muốn của đời này, ta sẽ lại bị tác động của sự tham luyến trong những đời sau. Để từ bỏ các tham muốn của cuộc đời này, cách đối trị hiệu quả nhất là thiền định liên tục về lẽ vô thường. Nếu bạn không thiền định về vô thường vào sáng sớm thì bạn sẽ có nhiều tham muốn vào buổi trưa.”

Một đệ tử cư sĩ hỏi Geshe Potowa: “Để thực sự thực hành Pháp, điều gì là quan trọng nhất?”

“Điều quan trọng nhất là thiền định về sự vô thường. Hãy thiền định về lẽ vô thường, về cái chết nhất định sẽ xảy đến; điều đó sẽ khiến cho bạn bắt đầu thực hành Pháp. Điều này sẽ tạo ra các điều kiện thúc đẩy bạn làm các thiện hạnh, sẽ trợ giúp bạn trong việc nhận ra tính chất bình đẳng của mọi sự trong bản tánh hiện hữu của chúng.

“Thiền định về sự vô thường cũng khiến cho bạn quyết định từ bỏ những lạc thú của cuộc đời này, điều đó sẽ tạo nên các điều kiện để bạn thoát khỏi mọi tham muốn thế tục, và như thế trợ giúp bạn đi vào con đường dẫn đến Niết bàn.

“Khi bạn đã thiền định về sự vô thường và có được một vài hiểu biết, bạn sẽ tìm kiếm Giáo Pháp. Điều này sẽ tạo các điều kiện cho việc thành tựu Giáo Pháp và như thế trợ giúp cho sự thành tựu tối hậu.

“Thiền định về sự vô thườngtìm ra một vài hiểu biết về nó cũng sẽ khiến cho bạn bắt đầu trang bị cho bản thân, điều đó sẽ tạo ra những điều kiện để bắt đầu thực hành tôn giáo. Điều này sẽ trợ giúp bạn trong việc làm quen với giai đoạn không trở lại (bất lai).”

Trong khi nói với một nhóm đệ tử, Geshe Chennawa nói: “Tóm lại, Giáo Pháp có thể được phân chia thành việc từ bỏ những ác hạnhthực hiện các thiện hạnh lợi lạc. Mọi giáo lý được bao gồm trong giáo huấn này.

“Để áp dụng giáo huấn này, cần nhất là phải có sự nhẫn nhục. Nếu bạn không nhẫn nhục và người nào đó làm hại bạn, bạn sẽ cảm thấy căm thù. Nếu hành động theo cảm xúc đó, bạn không thể dừng được việc thực hiện các ác hạnh, lại càng không thể mang lại lợi lạc cho người khác. Vì thế, nhẫn nhục rất cần thiết để bắt đầu thực hành tâm linh.

“Có bốn phương pháp để thiền định về sự nhẫn nhục: thiết lập mục tiêu cho mũi tên; lòng từ và bi, vị Thầy và đệ tử, thiền định về bản tánh của sự hiện hữu.

“Trước hết là việc thiết lập mục tiêu cho mũi tên; nếu bạn không lập một mục tiêu thì mũi tên không thể bắn trúng nó. Mũi tên tai họa tấn công trong đời này là bởi ta đã thiết lập một mục tiêu do ác nghiệp ta đã tích tập trong những đời trước. Nếu bạn thiết lập một mục tiêu là các hoạt động xấu xalời nói ganh ghét, nó sẽ bị những mũi tên trừng phạt tấn công. Ta tự lập ra các mục tiêu cho bản thân: hãy hiểu rằng các mũi tên đến từ các ác hạnh của ta và đừng giận dữ những người khác.

“Kế đó là thiền định về lòng từ và bi. Khi một người điên làm hại một người tỉnh, người tỉnh không nên đáp trả việc làm hại đó bằng cách đánh anh ta, mà nên nói: ‘Buồn thay!’ Kẻ làm hại bạn cũng điên cuồng, bị ám chướng bởi những đam mê mãnh liệt trói buộc. Hãy nghĩ ‘Buồn thay!’ và thiền định về lòng bi mẫn đối với người đó.

“Thiền định thứ ba về sự nhẫn nhụcthiền định về vị Thầy và đệ tử. Nếu không có vị Thầy truyền dạy giáo huấn thì không thể có sự chứng ngộ. Tương tự như vậy, nếu khôngkẻ thù làm hại bạn thì không thể có thực hành nhẫn nhục: vì thế bạn nên nhận ra rằng những người sỉ nhục bạn là các vị Thầy về sự nhẫn nhục. Hãy vui vẻ trước cơ hội này và tập trung vào việc đền đáp lòng tốt của họ. Khi thiền định rằng bạn là một đệ tử được giảng dạy sự nhẫn nhục, chớ có giận dữ.

“Thiền định về bản chất của sự hiện hữutánh Không, hãy suy niệm rằng cả ba phương diện của tai họa – người tạo ra tai họa, người nhận tai họa, và hành động tai họa – tất cả đều không có tự tánh. Bởi kẻ thù thực sự của bạn không có tự tánh, chớ giận dữ họ và hãy thiền định về sự nhẫn nhục.

Geshe Puchungwa nói: “Mặc dù ta đã có thân người cần thiết với những may mắnthuận lợi của nó, ta không có năng lực để sống ở đó – ta phải chết. Khi chết, ta không thể mang theo mình bất kỳ lạc thú hay ý niệm nào của cuộc đời này, giống như một cái cây rụng hết lá. Vào lúc đó mức độ hiểu biết, năng lực, và trí tuệ của các mục đích của ta sẽ hiển hiện rõ ràng. Khi ta vui vẻ đối diện cái chết và với sự trông đợi tràn đầy hoan hỉ, ta sẽ sáng suốt và mạnh mẽ: các mục đích của ta cao quý và ta sẽ đi vào cái chết một cách tỉnh táo. Nhưng nếu vào lúc đó thân tướng của Thần Chết và dấu hiệu khác biệt của những trạng thái tái sinh thấp xuất hiện, các mục đích của ta thật xuẩn ngốc và ta không có sự tự chủ.

“Phần lớn chúng ta đi theo con đường sai trái, cố gắng đáp ứng những tham muốn của đời này. Đức Phật toàn giác không bao giờ nói điều sai lạc. Tác giả các luận giảng không bao giờ nói điều sai lạc. Các thiện tri thức linh thánh không bao giờ nói điều sai lạc. Như thế làm cách nào chúng ta đi vào con đường sai trái? Đó là bởi những tham muốn của cuộc đời này. Vì thế ta nên luôn luôn suy niệm về cái chết, bởi khi nhớ tưởng về sự chắc chắn của cái chết, ta thấu hiểu sự cần thiết của việc không bám luyến cuộc đời này. Ta nên suy niệm về sự khiếm khuyết của toàn bộ sinh tử, bởi khi đó ta thấu hiểu sự cần thiết của việc không bám luyến vào nó. Bằng cách nhớ tưởng chúng sinh trong thiền định về lòng từ, bi và nguyện ước giải thoát, ta thấu hiểu sự cần thiết của việc không bám luyến các mục đích vị kỷ. Bằng cách nhớ tưởng sự vô ngã trong thiền định về sự trống không (tánh Không) của mọi sự, ta thấu hiểu sự cần thiết của việc không bám luyến các đối tượng và thuộc tính.”

Geshe Nyugrumpa nói: “Bạn muốn được tái sinh làm người hay vị trời, và cũng muốn đạt được sự toàn giác, phải nghĩ rằng sinh tử như ngục tù. Bạn nên nhìn cuộc đờithân thể này như bọt nước, bạn xấu như kẻ thù, Đạo sư tâm linh như một viên ngọc như ý, những đam mê trói buộc như một con rắn độc, những hoạt động tội lỗi như thuốc độc mạnh, những khía cạnh của tham muốn như những viên than hồng trong một ngọn lửa, những lời ngọt ngào và tăm tiếng như tiếng vang, sự tôn kínhlợi lạc như cạm bẫy trói buộc, bạn xấu như bệnh truyền nhiễm, bạn tốt như cung điện tuyệt đẹpkiên cố, mọi chúng sinh như mẹ và cha của bạn. Bạn nên thấy rằng sự bố thí như con bò như ý, thực hành trì giới là một vật trang sức quý báu, nhẫn nhục là áo giáp chắc chắn, tinh tấn là ngựa trí tuệ như ý, thiền định là một kho tàng vĩ đại, và trí tuệ của việc lắng nghe, suy tưởngthiền định là một ngọn đèn sáng.”

Geshe Tolungpa nói: “Tận đáy lòng, nếu khát khao giải thoát, bạn phải đi theo một vị Thầy thánh thiện hơn là vị Thầy tài giỏi. Bạn phải theo những vị Thầy hiến mình cho giáo lý hơn là những người giải thích nó, những vị Thầy khiêm tốn hơn là những người có địa vị cao, những vị Thầy có niềm tin hơn là những vị nổi danh về sự thông minh. Nếu bạn không biết giáo lý, điều đó không có hại, nhưng sự bất hạnh sẽ xảy đến nếu bạn đi theo những vị có hành động trái nghịch với Giáo Pháp.”

Geshe Shabogaypa nói: “Bởi những tham muốn của đời này tạo nên mọi khổ đau trong đời này và những đời sau, ta chớ cố gắng đáp ứng những tham muốn của ta. Khi ta ráng sức đáp ứng những tham muốn, ta không hạnh phúc. Ta không biết chắc chắn về phương hướng của cuộc đời ta, và mọi lời nói tà vạy, tâm thức tà vạy và hành động tà vạy sẽ tức thời xuất đầu lộ diện.

“Vì thế ta phải ngoảnh mặt với những tham muốn của ta. Khi có thể làm điều này, ta thiết lập những khởi đầu cho hạnh phúclạc thú. Biểu hiện tốt nhất của hạnh phúc trong đời này và những đời sau là không tham muốn hay tích lũy bất kỳ điều gì. Khi ta không tham muốn lợi lạc, ta nhận được lợi lạc vĩ đại nhất. Khi ta không tham muốn thanh danh, ta có thanh danh lừng lẫy nhất. Khi ta không muốn nổi danh, ta sẽ có tiếng tăm vĩ đại nhất. Khi ta không tham muốn bầu bạn, ta có bằng hữu tuyệt vời nhất.

“Nếu chân thành thực hành Pháp, ta phải toàn tâm toàn ý phó mình cho cuộc đời của một hành khất, bởi hành khất là những người phó mặc thân mạng cho cái chết. Khi ta có thể tạo nên cảm xúc này, không có các vị Trời mà cũng chẳng có quỷ ma nào có thể chế ngự được ta. Nhưng khi ta đắm chìm trong những tham muốn của đời này, ta hạ thấp bản thân và khiến ta hoàn toàn khốn khổ. Ta khiến cho bản thân nhận chịu những chỉ trích trong đời này và tái sinh trong các trạng thái thấp trong những đời sau.

“Vì thế, khi không ước mong hạnh phúc của riêng mình, ta hạn chế việc chỉ trích người khác, khiêm cung, hạn chế dục vọng, và tránh mọi hoạt động thế tục, như thế ta sẽ đạt được giác ngộ trong tương lai.

Tóm lại, chúng ta luôn luôn bắt đầu những gì không cần bắt đầu, nhận thức những gì không cần nhận thức, làm những điều không nhất thiết phải làm. Dù ta nói tất cả những điều này, nếu ta không thực sự ngoảnh mặt với những tham muốn trong đời này, không có cách nào tìm được hạnh phúc trong hiện tại và những đời sau. Nếu ta ngoảnh mặt với mọi tham muốn, ta hoàn toàn không cần kiếm tìm hạnh phúc.

Cuối cùng, Geshe Shabogaypa chỉ trích mình thậm tệ:

“Mi, tên xuẩn ngốc già nua – mi muốn các giáo lý cao cấp, mặc dù bản chất của mi thấp thỏi.

Mi, tên bịp bợm – mi mong muốn hoàn thiện người khác, nhưng không hoàn thiện bản thân.

Mi, tên giả dối – mi hành động như thể Giáo Pháp chỉ để dành cho người khác tuân theo chứ không phải dành cho mi.

Mi, kẻ ngớ ngẩn – mi buộc người khác phải hành xử đúng đắn, nhưng bản thân mi lại hành động sai trái.

Mi, kẻ tồi tệ lười nhác – mỗi thành công đi trước một thất bại lớn hơn.

Mi, một nhà chính trị - mi hứa cho nhiều nhưng thực hành chẳng bao nhiêu.

Mi, kẻ bất lương – mi tìm kiếm những đam mê trói buộcđồng thời giả bộ áp dụng các biện pháp đối trị.

Mi, kẻ hèn nhát – mi sợ người khác nhận ra khiếm khuyết của mi và hy vọng là họ sẽ chỉ nhìn thấy nơi mi những phẩm tính tốt lành.

Mi dính mắc với thân quyến thay vì vun trồng các thiện tri thức. Mi dính mắc vào những đam mê trói buộc thay vì vun trồng những cách đối trị. Mi bỏ mặc việc thực hành cho tương lai thay vì vun trồngtrong đời này. Mi dính mắc với những người giúp đỡ mi hơn là vun trồng những người làm hại mi.

 

Mi, kẻ xuẩn ngốc – mi làm hại người khác, không biết là mi làm hại chính mình.

Mi không biết rằng giúp đỡ người khác là giúp đỡ bản thân.

Mi không nhận ra rằng khổ đau và tai họa đến với mi thì có lợi cho việc thực hành Pháp.

Mi không nhận ra rằng tham muốnhạnh phúc không có lợi cho việc thực hành Pháp.

Mi nói với người khác là việc thực hành Pháp vô cùng quan trọng, nhưng bản thân mi thì không tuân theo giáo lý.

Mi coi thường những người tội lỗi nhưng không chấm dứt tà hạnh của chính mi.

Mi nhìn thấy những lỗi lầm nhỏ bé nhất của người khác nhưng không nhận ra những khiếm khuyết to lớn nơi bản thân.

Mi nhanh chóng thôi giúp đỡ người khác khi không được đáp trả.

Mi không thể chịu đựng nổi khi thấy các vị Thầy khác được tôn kính.

Mi quỵ lụy những người có địa vị cao trong khi xem thường những người thấp kém hơn mi.

Việc nói về những đời sau không làm tai mi vui thích.

Mi hành xử thánh thiện và khinh khỉnh khi bị người khác trách mắng.

Mi muốn người khác nhìn thấy các đức hạnhhài lòng khi họ không nhận ra lỗi lầm của mi.

Mi hài lòng với một bề ngoài tốt đẹp trong khi những gì ở bên trong thì không tốt lành như thế.

Mi thích nhận được các tặng vật. Không tìm kiếm hạnh phúc ở trong mi, mi kiếm tìm nó ở bên ngoài. Khi đã nguyện học Phật pháp, thay vào đó mi học những công việc thế gian. Mặc dù mi bằng lòng với lời dạy của các Bồ Tát, hành động của mi đang chuẩn bị để mi đi xuống địa ngục. Dù đã hiến dâng thân thể, niềm vui, và những thiện hạnh trong quá khứ, hiện tại và tương lai của mi cho sự lợi lạc của tất cả chúng sinh, mi chối từ việc từ bỏ bản ngã. Mi yêu thích các bằng hữu tội lỗi, quên rằng họ dẫn đến sự hủy hoại. Mi không biết rằng một lời quở trách của thiện tri thức thì thật hữu ích.

Đừng phí thời giờ trong những tranh luận vô ích. Đừng xây lâu đài trong không khí, tăng trưởng những tham muốn của mi. Đừng vui thích những hoạt động nguy hiểm. Đừng làm những việc cản trở thiện hạnh một cách vô nghĩa.”

Cảm thấy xấu hổ, ngài đã tự quở trách mình theo cách này.

 

Nguyên tác: “Essential Advice of the Kadampa Masters
Translated from the Tibetan under guidance of Geshe Wangyal”
http://www.scribd.com/doc/20318818/Essential-Advice-of-the-Kadampa-Masters
Thanh Liên dịch sang Việt ngữ

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14098)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39610)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15253)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13810)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13865)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37237)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 39971)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14578)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14270)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12615)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14780)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19169)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13744)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42539)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13785)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37154)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12607)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11714)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22468)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12446)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12506)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 12965)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13031)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17202)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33120)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14759)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 10995)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12384)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11912)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11883)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13083)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51140)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12335)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6562)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30331)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13077)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13263)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30596)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19262)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12432)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11778)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14715)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13147)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13127)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30591)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 11964)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11787)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12673)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31795)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29321)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11738)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11680)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10364)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11502)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9589)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9599)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9890)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35309)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10105)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10046)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 9994)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9591)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27704)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15407)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9788)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13615)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9783)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9641)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18226)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12006)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9515)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9632)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8647)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8864)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8349)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11401)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31633)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12278)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13250)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8775)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9379)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11871)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9164)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9023)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9596)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29252)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9013)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9046)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33148)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8389)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30517)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31138)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 36976)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32158)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9874)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 26962)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8361)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19160)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12953)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9716)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant