Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Từ lòng hiếu thảo của Rahula nghĩ về phẩm hạnh của con cái

26 Tháng Tám 201200:00(Xem: 23388)
Từ lòng hiếu thảo của Rahula nghĩ về phẩm hạnh của con cái
TỪ LÒNG HIẾU THẢO CỦA RAHULA
NGHĨ VỀ PHẨM HẠNH CỦA CON CÁI
Chúc Phú

prince_rahula_and_buddha-chucphuTrước cuộc ra đi vĩ đại nhất trong lịch sử loài người của Bồ-tát Siddharttha, Yasodhara đã gạt lệ nhớ thương và đơn thân nuôi dưỡng Rahula ròng rã bảy năm trường trong cô đơn, khắc khoải. Với tình thương vô hạn của mẹ và sự giáo dưỡng chu toàn của ông nội Suddodhana theo phương cách của một hoàng nam mang dòng máu Sakya, Rahula bẩm thụ một khí chất đặc biệt so với những đứa trẻ đồng hàng. Trong những cốt cách riêng có của Rahula, đó chính là những phẩm chất đạo đức tự thân cũng như cách thức thể hiện lòng hiếu thảo đối với đấng sinh thành

 

Cốt cáchlòng hiếu thảo của Rahula

Mặc dù chưa hình dung ra dáng vẻ của cha, nhưng khi được mẹ bảo rằng, bậc dẫn dầu đoàn Sa-môn hôm ấy chính là người cha khả kính đã biền biệt bao năm qua, Rahula đã vâng theo lời mẹ dạy một cách tuyệt đối và chạy đến cầu xin Đức Thế Tôn: hãy ban cho con phần thừa kế (dāyajja) 1. Khi được Đức Thế Tôn hứa khả và huấn thị ngài Sariputta đưa về tinh xá để làm lễ xuất gia, Rahula cũng tùy thuận nghe theo mà không hề có một chút phản kháng. Chi tiết này được các nhà chú giải kinh điển cho rằng, do lòng từ vô hạn của Đức Thế Tôn nên Rahula cảm thấy bóng che của Ngài thật an lạc 2 và đã an tâm đi theo Ngài, dù chỉ lần đầu gặp gỡ. Từ hiện thực cuộc sống, một đứa trẻ ngây thơ đứng trước người mới lần đầu gặp gỡ, tất sẽ e ngại, lúng túng đôi phần. Tuy nhiên, thái độ đĩnh đạc, dạn dĩ của Rahula khi xin cha của thừa kế đã minh giải rằng, sở dĩ Rahula thực hiện điều đó một phần là do nghe theo lời dạy của thân mẫu Yasodhara.

Từ ý thức chấp hành lời dạy của mẹ, của người lớn từ thuở bé, nên khi được sống chung với tập thể những người xuất gia, Rahula luôn vâng giữ những điều khuyên răn của các bậc trưởng thượng, mà ở đây là việc vâng giữ những giới điều do Phật chế định ra. Kinh điểnLuật tạng đều ghi lại rằng, một lần nọ, bị những vị khách tăng lớn tuổi chiếm dụng chỗ ngủ của mình, Sa-di Rahula không vì thế mà buồn lòng, bực bội, và đã an giấc qua đêm trong nhà vệ sinh của Đức Phật 3. Mãi đến khi trời gần sáng, Đức Thế Tôn cần sử dụng nhà vệ sinh mới phát hiện ra Sa-di Rahula nằm ngủ còng queo trên nền đất lạnh. Chứng kiến cảnh tượng đó, Đức Thế Tôn quả thực đã xúc động mạnh vì Chánh pháp 4 nên đã chỉnh lý bổ sung những thiết định giới luật đã ban hành trước đó 5. Không ỷ lại tình thống thuộc, thân quen, tuân giữ nghiêm túc những quy định về giới luật, tự chủ và giản đơn trong nếp sống, sinh hoạt của mình, là đặc thù riêng có của nhân cách Sa-di trẻ tuổi Rahula.

Với một đứa trẻ trong độ trưởng thành, thói quen nói dối dường như là một cố tật thường thấy trong sinh hoạt đời thường. Có nhiều lý do khiến trẻ nói dối: vì sợ trừng phạt khi phạm lỗi, vì muốn gây sự chú ý của người lớn, vì muốn tìm một sự dễ chịu, vì muốn đùa vui… khiến cho con trẻ thường nói dối. Là một đứa trẻ sinh hoạt trong Tăng đoàn, Sa-di Rahula nhiều lần phạm phải lỗi lầm này và đã gây ra điều phiền bực trong Tăng chúng hay những cư sĩ muốn được gặp Đức Thế Tôn. Đứng trước hiện thực này, Đức Phật đã khéo dẫn dụ hình ảnh thau nước bẩn và cái gương soi để giáo hóa Rahula. Một thau nước bẩn chỉ có thể đổ đi và không có thể dùng vào được việc gì; người nói dối cũng vậy. Cái gương soi phản ảnh lại tất cả những hành động, dung nghi của mình. Những điều không tốt thì nên tránh xa và những điều thiện pháp thì hãy nỗ lực thực hiện. Những nỗ lực của người cha - Đức Phật - đã được đền đáp, vì cuối cùng, Sa-di Rahula đã quyết không nói láo, dầu nói để mà chơi 6.

Thanh niên tăng Rahula ngày càng lớn lên trong sự giáo dưỡng của Đức Phật, ngài Sariputta và Tăng chúng. Đôi khi cùng thầy Sariputta ra phố khất thực, Rahula bị các thanh niên ngoại đạo chọc ghẹo nên mất kiểm soát và để sân tâm khởi lên. Quán sát được tâm tư của Tôn giả, Đức Phật đã khéo giảng dạy về hạnh tu nhẫn nhục theo tứ đại nhằm giúp Tôn giả vượt qua những trở ngại trong tâm. Lời dạy của Đức Phật không chỉ là bài học dành riêng Rahula mà còn là hạnh tu căn bản: Này Rahula, ví như trên đất người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ không tịnh, quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không dao động, hay không nhàm chán; cũng vậy, này Rahula, hãy tu tập như đất 7. Với một thiếu niên Tăng, đôi khi lượng nội tiết adrenaline 8 tăng lên đột biến theo sự phát triển của thể xác, thì sự quán niệm về thể tài vừa nêu giúp cho tâm tư bình an và không dao động trong khi va chạm với chuyện đời.

Từ những nỗ lực giáo dưỡng của Đức Phật, của ngài Sariputta và chư Tăng, Sa-di Rahula từng bước trưởng thànhchứng tỏ khả năng ham học hỏi. Sự thành tâm cầu thỉnh của Rahula đã được xác chứng trong kinh: Bạch Thế Tôn! Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con để sau khi nghe, con có thể sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần 9. Nỗ lực cần cầu học hỏi của Rahula rất mạnh mẽ, đôi khi vì ham học mà quên cả việc khất thực thức ăn. Kinh điển ghi lại rằng, một sáng nọ từ tinh xá Jetavana, Rahula theo chân Đức Thế Tôn vào kinh thành Savatthi khất thực, đang trên đường đi, Đức Thế Tôn đã tùy thuận nhân duyên nên đã có bài thuyết giảng về giáo lý Vô ngã. Bài thuyết giảng đã thu hút Rahula chăm chú lắng nghe. Sau khi nghe xong, Rahula quyết từ bỏ chuyến đi khất thựctrở về tinh xá với bụng đói meo, để kịp thời quán niệm về pháp hành vừa được Đức Phật chỉ dạy 10. Sự tinh cần, ham học ham tu của Rahula còn được các nhà chú giải kinh Trường bộ cho rằng, suốt mười hai năm, lưng của Tôn giả Rahula chưa hề dính chiếu. Nhờ sự tinh cần đó, Rahula chứng đắc A-la-hán khi tuổi còn rất trẻ. Có nhiều tài liệu bất đồng về thời điểm chứng Thánh của Rahula, tuy nhiên, bằng chứng xác thực nhất là sau khi nghe Tiểu kinh giáo giới La Hầu La, số 147, thuộc kinh Trung bộ thì tâm của Tôn giả Rahula được giải thoát khỏi các lậu hoặc. Và cũng nhờ đắc Thánh quả rất sớm nên ngay cả ma vương Vasavattì cũng không hù dọa được Tôn giả Rahula 11.

Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động. Chuyện tiền thân Đức Phật 12 đã kể lại rằng, một lần Rahula đến thăm thân mẫu là Tỳ-kheo ni Bimbadevi, tên khác của Yasodhara sau khi xuất gia, thì được biết mẹ đang bị sình bụng, khó tiêu nên không ra tiếp chuyện được. Biết mẹ không khỏe nên Rahula lo lắng vô cùng. Rahula vào tận giường và thẽ thọt thưa rằng, nếu như khi ở hoàng cung, mỗi lúc gặp bệnh như vậy, mẹ sẽ uống thuốc gì? Bà Bimbadevi cho biết, mỗi khi bị bệnh chướng bụng đầy hơi thì thường uống nước xoài ép. Nhưng mà này con ơi, bà Bimbadevi nói thêm, làm sao có thể kiếm được thứ nước đó trong những món ăn khất thực hàng ngày của chúng ta? Sa-di Rahula cương quyết hứa với mẹ rằng: Con sẽ kiếm thứ ấy cho mẹ 13. Mạnh bạo hứa với mẹ như thế nhưng thâm tâm Sa-di Rahula lo lắng hoang mang, vì tìm đâu ra thứ thuốc chữa bệnh rất mực bình thường đó, với khả năng của một chú tiểu trẻ con? Sau nhiều nỗi băn khoăn, Rahula chợt nhớ đến sư phụ và đã cầu cứu ngài Sariputta. Thương đệ tử, Trưởng lão Sariputta đã vào cung vua Kosala và có được nước ép xoài trị bệnh. Nhận được nước ép xoài từ sự trợ giúp của sư phụ Sariputta, Rahula khoan khoái vô cùng vì đã tìm được thuốc chữa bệnh khó tiêu cho thân mẫu. Tình thương mẹ của Rahula không dừng lại ở đó, vì trong một lần khác, bà Bimbadevi lại bị bệnh đau bao tử, và cũng nhờ lòng hiếu thảo của Rahula nên sư phụ Sariputta lại một lần nữa đã gia tâm hỗ trợ, bằng cách giúp Rahula xin thức ăn phù hợp cho bà Bimbadevi 14.

Từ những nỗ lực của Rahula trong việc chăm lo cho thân mẫu bằng những gì có thể, đã cho thấy rằng, hiếu thảo với cha mẹđạo lý cơ bản của con người, bất luận xuất gia hay tại gia. Cũng từ đây đã mở ra cho những người mang thân phận làm con, những bài học lớn về việc rèn luyện những phẩm hạnh đạo đức cơ bản.

Phẩm hạnh đạo đức của con cái

Nghe lời cha mẹ

Là con cái, việc lắng nghe và tuân thủ những lời dạy của cha mẹ được xem là nguyên tắc sống đầu tiên trong cuộc đời. Vâng lời cha mẹ được xem là tín hiệu khởi đầu về việc xây dựng đạo đức, trí thứcniềm tin cho con cái. Nói cách khác, đạo đức của con người được khởi đầu từ sự nghe lời cha mẹ. Nhờ nghe lời cha mẹ, con cái tự tìm cho mình một cơ hội để tồn tại, để nhận ra những điều hay lẽ phải và để cho tri thức về tất cả các lãnh vực được củng cố, kiện toàn… Có thể nói, nghe lời cha mẹ là cửa ngõ mở ra con đường hạnh phúc cho con trẻ, không những ở hiện tại mà ngay cả tương lai. Với những bậc cha mẹ, vì yêu thương con trẻ, vì mong con thành côngvững chãi trong đời, mà đôi khi phải đóng vai trò như là một vị thần sáng thế, là hung thần dữ tợn, là thầy giáo đầy quyền uy… chỉ với mục đích duy nhất nhằm khiến cho con cái vâng lời. Bài học vâng lời mẹ một cách tuyệt đối của Rahula còn có ý nghĩa thời đại, vì lẽ, khi ý thức tự chủ của con trẻ chưa vững vàng thì sự hỗ trợ của các bậc cha mẹ trong việc khuyên răn con trẻ, bắt con trẻ vâng lời, là sự thể nghiệm đầu tiên về đạo đức.

Sống tự chủ và không ỷ lại

Nương tựa vào bản ngãsở hữu của bản ngãthói quen thường thấy đối với mọi chúng sanh trong hiện thực đời sống. Ý thức tôi là hình thành rất sớm và làm tiền đề để xuất hiện ý niệm chúng tôi. Ỷ lại bản thân, dòng tộc, cha mẹ… là một dạng thức nương tựa vào bản ngãsở hữu của bản ngã. Với Phật giáo, bản ngã vốn không thật thì sở hữu của chúng cũng là không.

Từ đây, có thể thấy thái độ ỷ lại các chỗ nương tựa vừa nêu là những trạng huống tâm lý tiêu cực nhưng dễ dàng xuất hiện và định hình trong tư duy con trẻ. Ngay như bản thân thiếu niên Rahula, mặc dù đã xuất gia nhưng đôi khi ngắm nhìn vóc dáng của mình và vóc dáng của thân phụ - Đức Phật - cũng nảy sinh suy nghĩ về nguồn gốc cao sang của gia đình mình. Đọc được suy nghĩ đó, Đức Phật đã huấn thị Rahula phải nuôi dưỡng ý thức: cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi 15, nhờ sự nuôi dưỡng ý thức đó, không những giúp cho Rahula mà còn cho bất cứ ai muốn thoát khỏi ảo tưởng về sự cao sang hay quyền quý của nguồn gốc gia đình, thân tộc.

Với con trẻ, thái độ ỷ lại xuất hiện ở bất cứ phương vị nào cũng là dấu hiệu không tốt. Một bậc cha mẹ phải tập cho con vượt qua sự ỷ lại bằng cách sống tự chủ trong từng việc làm nhỏ nhặt nhất như đi lại, uống ăn, thói quen trật tự, ngăn nắp… tùy theo từng giai đoạn phát triểnthể chất của đứa trẻ. Mặc dù là con của Đức Thế Tôn, là đệ tử của Đại Trưởng lão Sariputta, nhưng thiếu niên Rahula không bao giờ ỷ lại, thể hiện qua những việc làm cụ thể như tự mình đi khất thực, tự giặt giũ áo quần và tự tìm kiếm chỗ ngủ… là những bài học sống động dành cho con trẻ ngày nay về đức tính sống tự lập. Tính tự lập được hình thành từ bé là một lợi thế cho con cái khi dấn bước vào đời.

Nỗ lực học tập

Tri thức là chìa khóa mở ra nhiều cánh cửa quan trọng trong cuộc đời. Con đường tìm cầu hạnh phúc thế gian hay xuất thế đều có nhiều điểm liên quan đến tri thức nói chung. Có tri thức thì con đường dẫn đến hạnh phúc sẽ gần lại, nhất là những tri thức nội hàm an lạcgiải thoát khổ đau. Muốn có tri thức thì phải học tập, rèn luyện. Chiêm nghiệm về thái độ học tập quên cả việc đi khất thực của Rahula cho ta thấy một nỗ lực lớn trong hình hài bé nhỏ. Chính từ những nỗ lực này đã giúp Rahula chứng đạt Thánh quả khi còn nhỏ tuổi. Tài không đợi tuổi, như là một hệ luận rút ra từ trường hợp này. Từ cách thức giáo dục của cha mẹ cùng thái độ học tập của Rahula, có thể cung cấp cho việc giáo dục con trẻ hôm nay nhiều giá trị tham khảo.

Là con trẻ, có được một động cơ tốt trong học tập là khởi đầu thuận lợi, vì ham học hỏi được xem là tâm thế tốt cho mọi sự trưởng thành. Với con trẻ, phải làm sao thổi bùng được ngọn lửa khao khát sự hiểu biết trong chúng. Làm sao để con trẻ xem việc học tập như là thỏa mãn một sở dục thanh cao, làm sao để con trẻ tự thân nỗ lực mà không cần sự ép buộc, thôi thúc từ cha mẹ. Với con trẻ, sự khích lệ tưởng thưởng cũng là điều kiện cần. Tuy nhiên, tất cả mọi sự tưởng thưởng bằng hiện thực vật chất khi con trẻ thành công trong học tập, đôi khi cần phải cân nhắc cho phù hợp. Vì ở một nghĩa nào đó, chúng ta vô tình dung tục hóa cái mục đích tri thức thiêng liêng bằng những đắp đổi vật chất bình thường. Cần phải ý thức rằng, với độ tuổi thanh thiếu niên, thắp lên ngọn lửa quý chuộng tri thức, siêng năng học hỏi, là một dấu hiệu thành công trong giáo dục con trẻ.

Báo hiếu bằng những gì có thể

Thương cha mẹ được xem là thuộc tính tự hữu của con cái. Thuộc tính đó có khi ẩn tàng và đôi khi hiển lộ ra tùy thuộc theo nhân duyên, luân hồinghiệp quả. Hình ảnh chú Sa-di còn trẻ như Rahula đã nỗ lực hết mình nhằm tìm thuốc chữa bệnh cho mẹ, là một bài học lớn về lòng hiếu thảo của con trẻ hôm nay. Hiếu thảo là sự quan tâm đúng lúc, là sự thể hiện tấm lòng bằng tất cả những điều kiện khả dĩ của mình. Một cử chỉ săn sóc, một trăn trở miên man trong tâm, dù biết rằng rất khó thực hiện, cũng là những biểu hiện cho lòng hiếu thảo của con cái đối với các bậc sanh thành. Với con trẻ nói chung, hiếu thảo với cha mẹ có thể gói gọn trong bốn chữ: quan tâm đúng lúc.

Bát nước xoài của Rahula sẽ không nhiều ý nghĩa nếu như mẹ của Tôn giả không bị bệnh khó tiêu; chén cơm đầy của ngài Mục Kiền Liên sẽ không được lưu vào sử sách, nếu như mẹ ngài không sanh vào hàng quỷ đói. Quan tâm đúng lúc là con cái đáp ứngthực hiện đúng yêu cầu của cha mẹ. Vì lẽ, các bậc cha mẹ xây dựng những chuẩn mực hiếu thảo hoàn toàn khác nhau. Với đứa con này thì chỉ cần sống có trách nhiệm với gia đình nhỏ của mình đã là hiếu thảo; với người kia thì đừng bê bết rượu chè là đã có hiếu lắm rồi. Không phải tất cả mọi nỗ lực phụng hiến cho cha mẹ bằng phẩm vật cao sang đều được xem là báo hiếu. Thể hiện tình thương với cha mẹ bằng khả năng và điều kiện của mình, trong những hoàn cảnh phù hợp, là những gợi ý tham khảo từ cách báo hiếu riêng có của Tôn giả Rahula.

 

Chú thích:

1. Maha Vagga, tập 1, chương Trọng yếu, Tụng phẩm thứ 9, Việc xuất gia Sa-di La Hầu La
2. Sách đã dẫn
3. Kinh Tiểu bộ, tập IV, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện con nai có ba cử chỉ, số 16
4. Kinh đã dẫn
5. Bikkhu Vibhanga 2, chương Pacittiya, Ưng đối trị, điều học thứ 5, đoạn 289
6. Kinh Trung bộ, tập 2, Kinh giáo giới La Hầu La ở rừng Ambala, số 61
7. Kinh Trung bộ, tập 2, Đại kinh giáo giới La Hầu La, số 62
8. Hoóc-môn do tuyến thượng thận tiết ra, làm tăng nhịp tim và huyết áp
9. Kinh Tương ưng, tập 2, chương 7, Tương ưng Rahula
10. Kinh Trung bộ, tập 2, Đại kinh giáo giới La Hầu La, số 62
11. Tích truyện Pháp, bản dịch của Viên Chiếu, phẩm Tham ái thứ 24, Ma vương chẳng nhát được La Hầu La.
12. Kinh Tiểu bộ, tập VI, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện trái xoài chính trung, số 281
13. Kinh đã dẫn
14. Kinh Tiểu bộ, tập VI, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện vua quạ Supatta, số 292
15. Kinh Tương ưng, tập 2, chương 7, Tương ưng Rahula, kinh Tùy miên

Chúc Phú
Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25576)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37836)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19519)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18603)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14193)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20064)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9476)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14333)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35506)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10628)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19649)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23161)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13340)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10728)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20164)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10573)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9929)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14840)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17611)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17550)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13150)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31095)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25686)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13948)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17468)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10937)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12255)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10440)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12239)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11736)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9595)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12316)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9159)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8463)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9927)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9741)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12001)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14382)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9884)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11183)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8280)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10950)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14046)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9874)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15161)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13003)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23040)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23909)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12529)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15396)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17740)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15006)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16511)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16010)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17552)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11565)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11594)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17782)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10737)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10500)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11287)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12050)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11014)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36362)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8936)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9640)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34666)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17226)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10210)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10442)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12168)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13583)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14615)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9126)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24762)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11613)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10294)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15895)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15534)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14478)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12974)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12415)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14537)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18316)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9550)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18490)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18546)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18985)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18784)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11791)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13299)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47949)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11028)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13521)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13008)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11045)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12528)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11037)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31728)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11644)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant